Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn THỂ kí của HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG QUA một số tác PHẨM TIÊU BIỂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN

PHAN THỊ LAN CHI
(MSSV: 6062099)

THỂ KÍ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn – khóa 32 (2006 – 2010)

Cán bộ hướng dẫn: BÙI THANH THẢO

-1-


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

2.

Lịch sử vấn đề

3.

Mục đích nghiên cứu



4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.

Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: VÀI NÉT VỀ THỂ LOẠI BÚT KÍ VÀ NHÀ VĂN HOÀNG
PHỦ NGỌC TƯỜNG
1.1. Thể loại kí văn học
1.1.1. Sơ lược về sự hình thành loại hình kí
1.1.2. Khái niệm kí văn học
1.1.3. Đặc điểm kí văn học
1.1.3.1. Kí lấy sự thật khách quan của đời sống và tính xác thực
của đối tượng làm cơ sở
1.1.3.2. Tính hư cấu trong kí văn học
1.1.3.3. Hình tượng tác giả trong thể loại kí
1.1.3.4. Đặc điểm về văn phong, ngôn từ, nghệ thuật của kí
1.2. Bút kí - một tiểu loại trong kí văn học
1.2.1. Khái niệm bút kí
1.2.2. Đặc điểm của bút kí
1.2.3. Phân biệt bút kí với một số tiểu loại khác của kí
1.3. Vài nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
1.3.1. Tác giả

-2-



1.3.2. Tác phẩm

Chương 2: NỘI DUNG BÚT KÍ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
2.1. Vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước
2.2. Vẻ đẹp của con người
2.2.1. Vẻ đẹp của con người trong chiến tranh
2.2.2. Vẻ đẹp của con người trong lao động sản xuất
2.2.3. Vẻ đẹp của quá trình biến đổi tinh tế trong tâm hồn người
trí thức trước thời cuộc
2.3. Vẻ đẹp lịch sử - văn hóa
2.3.1. Vẻ đẹp lịch sử
2.3.2. Vẻ đẹp văn hóa
2.3.2.1. Vẻ đẹp của truyền thống văn hóa Huế
2.3.2.2. Vẻ đẹp văn hóa của truyện thần thoại
Chương 3: NGHỆ THUẬT BÚT KÍ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
3.1. Kết hợp hài hòa chất trữ tình và chất trí tuệ
3.2. Không gian, thời gian nghê thuật
3.3. Giọng điệu trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
3.4. Ngôn ngữ trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
3.4.1. Ngôn ngữ giản dị trong sáng
3.4.2. Ngôn ngữ trữ tình giàu hình ảnh
3.4.3. Ngôn ngữ khoa học chính xác
3.4.4. Ngôn ngữ miêu tả
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC

-3-



PHẦN MỞ ĐẦU

-4-


1.Lý do chọn đề tài
Thể kí là thể loại văn học đã được hình thành từ lâu, song song với các thể
loại văn học khác. Nhưng đến nay vẫn chưa được nhiều người quan tâm chú ý,
nhất là đối với những bạn trẻ ngày nay. Nếu xét về cách phân bổ tác phẩm trong
sách ngữ văn ở bậc trung học phổ thông, phần lớn là truyện ngắn, thơ, văn học
nước ngoài (cũng là truyện và thơ). Còn với phần kí văn học dường như là lĩnh
vực ít được khai thác, Nguyễn Tuân là ông hoàng ở thể loại tùy bút nhưng cũng
chỉ có một tác phẩm kí của ông được đưa vào SGK ngữ văn lớp 12 là Người lái đò
sông Đà. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông cũng là nhà viết kí tài năng nhưng
cũng chỉ có một tác phẩm kí được đưa vào giảng dạy là Ai đã đặt tên cho dòng
sông?. Và ở hai tác phẩm này không hề có định nghĩa gì về thể loại kí. Vì thế việc
phân biệt giữa các thể loại đối với các bạn trẻ còn nhiều nhập nhằng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có tài, ông đã để lại tên tuổi ở thể loại
bút kí. Nhưng tiếc thay người dân trong nước lại không được biết nhiều tác phẩm
của ông một cách phổ biến, chỉ trừ bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” in trong
SGK lớp 12 xuất bản năm 2000.
Thiết nghĩ với những giá trị mà thể kí mang lại cho nền văn học thì việc
nghiên cứu về thể loại này là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay, đồng thời
với đề tài “Thể kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua một số tác phẩm tiêu biểu”,
chúng tôi mong muốn mọi người có thể hiểu sâu hơn và tiếp cận các sáng tác của
Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách toàn diện hơn.

2. Lịch sử Vấn đề
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà viết bút ký tài năng, điều ấy được thể hiện

qua niềm tin yêu độc giả dành cho ông. Tuy nhiên việc nghiên cứu về bút ký của
ông vẫn chưa được chú trọng và đi sâu vào phân tích. Cũng đã có một số bài bình

-5-


luận được đăng trên các báo, nhưng thực chất chỉ là những bài đánh giá ngắn chứ
chưa phải là một bài nghiên cứu hoàn chỉnh. Chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét
của các nhà bình luận về bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Trong tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tập 2, Nhà thơ Hoàng Các đã có
nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký của riêng mình,
thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần
như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành
thoải mái ngòi bút được.” [18;Tr.857]. Nhận xét của nhà thơ Hoàng Các như đã
khái quát được phong cách viết văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Khi nói đến vấn
đề gì, Hoàng Phủ Ngọc Tường không nói bóng gió xa xôi mà ông nói thẳng nói
thực và đúng với bản chất vốn có của vấn đề. Ông đã tạo nên phong cách viết
không lẫn vào đâu được và để lại tên tuổi ở thể loại ký vốn là mảnh đất đào thải
khắc nghiệt.
Trích sách ngữ văn 12 xuất bản 2008 nhận định: “Hoàng Phủ Ngọc Tường
là một trong những nhà văn chuyên về bút ký, nét đặc sắc trong sáng tác của ông
là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lý…tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,
mê đắm và tài hoa” [12;Tr.108].
Trong quyển Lí luận và phê bình văn học, giáo sư Trần Đình Sử có một bài
cảm nhận về tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong bài viết này ông đã
nói rằng: “Hoàng Phủ Ngọc Tường từ trước tới nay là nhà văn của nhiệt tình
công dân và cảm hứng thời sự. Ngòi bút của anh hầu như chỉ dành riêng cho đất
nước và con người Việt Nam”. Sau cảm nhận về một vài bài bút kí cụ thể, giáo sư

đưa ra nhận định rằng: “Bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội
nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch sử của các hiện tượng đời sống.
Các chi tiết thực tế cũng khá phong phú, nhưng ngoài giá trị “phản ánh”, chúng
còn đóng vai trò “xúc tác” để xâm nhập vào đáy sâu đất nước. Văn anh giàu
những tư liệu lấy từ sử sách, tri thức khoa học, huyền thọai và kí ức cá nhân làm
-6-


cho hình tượng lóe lên những ánh sáng bất ngờ”. [17;Tr.253]. Có lẽ viết về đất
nước và con người Việt Nam là tiêu chí hàng đầu, là kim chỉ Nam để Hoàng Phủ
Ngọc Tường cầm bút. Nhận định của giáo sư Trần Đình Sử đã thâu tóm được toàn
bộ nội dung tác phẩm của ông, đồng thời như lăng kính nhìn thấu được tâm tư tình
cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đúng như thế! Văn của ông “chỉ dành riêng
cho đất nước và con người Việt Nam”.
Theo Đặng Tiến (Tạp chí sông Hương) đăng tải trên trang Internet
www.thuathienhue.vn: “Đặc điểm trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
chất trí tuệ, dựa trên vốn kiến thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn học kết hợp với
lý luận sắc bén, được phô diễn trong lối hành văn súc tích, say đắm và hào hoa,
tình cảm dành cho đất nước quê hương, bè bạn, thiên nhiên và nhân đạo vượt ra
khỏi khuôn sáo văn chương, trở thành sinh lực lay chuyển tâm tư người đọc.
Hoàn thành văn nghiệp trong những điều kiện lịch sử và xã hội nghiệt ngã,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo cho thể loại bút ký một phong cách riêng, một hơi
thở mới tiếp nối và khai triển kinh nghiệm các bậc thầy của tùy bút là Nguyễn
Tuân, Tô Hoài…”. Ở nhận định này một lần nữa khẳng định tài năng của Hoàng
Phủ Ngọc Tường và xem ông là người hoàn toàn xứng đáng nối tiếp những cây đại
thụ ở thể loại kí văn học. Có thể nói tình yêu quê hương đất nước là men say để
Hoàng Phủ Ngọc Tường vượt qua được thử thách trong cuộc sống, để viết nên
những trang kí thấm đẫm tình người và tình yêu thiên nhiên đất nước.
Trong quyển Văn Học 1975-1985 tác phẩm và dư luận tác giả Ngọc Trai
nhận Xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có cách kể chuyện ngắn gọn mạch lạc, làm

nổi bậc cái chủ yếu mà không sa vào logic khô khan. Anh hay tạt ngang, tạt ngửa,
đối chiếu không gian, đối chiếu thời gian, liên tưởng hồi ức, hoài niệm - nhưng
không miên man lạc đề” [21;Tr.73].
Trên đây là một số nhận định về bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đa số
các ý kiến đều khen ngợi sự hiểu biết của tác gia, về cách hành văn của ông chứ
chưa thật sự hệ thống phân tích một cách chi tiết về toàn bộ sáng tác của ông.
Trong đề tài này chúng tôi sẽ hệ thống một cách khái quát về nội dung cũng như
-7-


nghệ thuật về thể loại bút ký của ông, qua đó giúp bạn đọc hiểu hơn về tiểu loại
bút kí nói riêng và thể kí nói chung.

3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đề tài “Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua một số tác phẩm tiêu
biểu” chúng tôi hy vọng đạt được mục đích:
- Khái quát sơ lược thể loại ký văn học nói chung – bút kí nói riêng và giá
trị của chúng đối với văn học.
- Tuy chỉ kháo sát một số tác phẩm tiêu biểu qua tuyển tập 2 – 3, nhưng
chúng tôi mong muốn có thể khái quát được nội dung chung ở cả 2 tuyển tập
cho bạn đọc.
- Qua các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hiểu thêm về sự đa
dạng phong phú của thể loại ký Việt Nam.
- Tích lũy thêm kiến thức cho bản thân đồng thời góp thêm kiến thức cho
bạn đọc về thể loại bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Về đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài “Thể kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua một số tác phẩm tiêu
biểu”, đối tượng nghiên cứu là giá trị nội dung và nghệ thuật các tác phẩm bút kí

của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Về phạm vi nghiên cứu:
Để nghiên cứu về bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường chúng tôi khảo sát
dựa vào một số bút ký tiêu biểu trong tuyển tập bút ký 2 và 3 của ông.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài: “Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua một
số tác phẩm tiêu biểu chúng tôi sử dụng những biện pháp tiêu biểu sau:
- Phương pháp hệ thống: Đặt sáng tác của ông trong toàn bộ sự nghiệp sáng
tác, đồng thời hệ thống các sáng tác tiêu biểu để tìm nét đặc sắc trong bút ký
của ông. Ngoài ra chúng tôi có so sánh cách sử dụng ngôn từ giữa Hoàng Phủ
-8-


Ngọc Tường và Nguyễn Tuân để từ đó có cách nhìn nhận khách quan hơn về
các sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu chúng tôi kết hợp các thao tác tư duy:
phân tích, liệt kê, so sánh, tổng hợp để làm sáng tỏ những nhận định trên.

-9-


PHẦN NỘI DUNG

-10-


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ THỂ LOẠI BÚT KÍ VÀ NHÀ
VĂN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
1.1. Thể loại ký văn học

1.1.1. Sơ lược về sự hình thành loại hình ký
Kí là một loại hình văn học không thuần nhất. Đó là một lĩnh vực văn học
bao gồm nhiều thể loại, chủ yếu là văn xuôi ghi chép, miêu tả và biểu hiện những
sự việc, con người có thật trong cuộc sống.
Kí vốn là tên gọi của một thể văn đã xuất hiện từ trước đời Hán ở Trung
Quốc bên cạnh các thể văn công vụ, hành chính khác. Đời Đường có nhiều tác
phẩm kí dùng để ghi việc xen với lời bình. Kí ngày càng phát triển và được ý thức
về đặc điểm thể loại. Theo Ngô Nạp, học giả đời Minh, “thể kí nói chung nhằm
ghi nhớ không quên…sau khi kể việc, bàn qua để kết lại, đó là chính thể”. Các học
giả đời Thanh nhấn mạnh chức năng ghi việc của kí.
Cùng với thể kí mang đậm tính chất lịch sử, từ đời Đường đã xuất hiện các
tập văn kí, đời Tống trở đi xuất hiện những tập bút kí, tùy bút thuộc loại tạp kí,
tính chất văn học dù đậm nhạt không đều, nhưng chức năng dần rõ hơn. Cùng với
thể kí còn có các hình thức ghi chép khác như lục, sự… Các thể truyện kí như sử
kí, chí quái, chí nhân… mà đặc điểm chung là việc ghi rõ thể văn ngay trên tên gọi
tác phẩm đã hàm ý nhấn mạnh tính chất ghi chép, miêu tả đối tượng, chi tiết, sự
kiện, nhân vật có thật từ cuộc sống.
Với các trước tác Việt Nam thời Trung đại, tình hình cũng tương tự như
vậy. Dù chủ yếu mang hình thức giống kí đời Đường, Tống (như các tác phẩm kí
của các đời Lí, Trần, phần nào của đời Lê, đầu đời Nguyễn…) hay đã phá cách,
sáng tạo phóng túng hơn (như các loại tạp kí ở thế kỷ XVIII – XIX), các trước tác
kí, kí sự, lục, chí, tùy bút… thời Trung đại Việt Nam đều thuộc loại ghi chép, nặng
tính chất lịch sử về nhân vật, sông núi, đền chùa, phương vực, phẩm vật, chuyện
lạ… Tính chất văn học đậm đà hơn của thể kí được thể hiện ở các tác phẩm như
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh kí sự của Lê Hưu Trác…

-11-


Đặc điểm “ghi việc xen với lời bình” cũng khá nổi bật ở những tác phẩm kí

của Mercier, Roussaux tuyên truyền cho những tư tưởng cách mạng Pháp, của
Fauster, Verklin, Robman tố cáo nhà nước phong kiến Đức từ thời chủ nghĩa khai
sáng, những tác phẩm kí của Chataubriand thời chủ nghĩa lãng mạn, của những
nhà văn hiện thực Anh nổi tiếng như Dickens, Thackerey, của những nhà văn hiện
thực Nga thế kỷ XIX như Nhekrasov, Grigorovich, Santykov – Chedrin,
G.Uspenski…, của Erenburg, Paustovski, Oveshkin…
Trong văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945, kí có mặt với các tác phẩm
phơi bày hiện thực của Ngô Tất Tố như các phóng sự Việc làng, Tập án cái đình,
của Nguyễn Đình Lạp; như Ngõ hẻm, Ngoại ô, của Tam Lang; như Tôi kéo xe, của
Vũ Trọng Phụng; như Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Kĩ nghệ lấy Tây… Từ những năm
thế kỷ XX Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm kí Bản án chế độ thực dân Pháp. Trong
thời kỳ kháng chiến, các nhà văn – chiến sĩ đã ghi chép, miêu tả những sự việc và
con người có thật trong cuộc sống kháng chiến và cách mạng của dân tộc như
Truyện và kí của Trần Đăng, Ở rừng của Nam Cao, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn
Huy Tưởng và sau này là Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi… của Nguyễn Tuân,
Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Miền đất lửa của Vũ Kì Lân và Nguyễn
Sinh, Người mẹ cầm súng, Trên dòng kinh quê hương… của Nguyễn Thi, Đường
chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành, Sống như Anh của Trần Đình Vân… Nói
chung, kí là những ghi chép nhanh nhạy, nối liền cuộc sống thực tế với người đọc.

1.1.2. Khái niệm kí văn học.
Qua sự hình thành loại kí cần phải nhận thức đây là một lĩnh vực văn học
đặc thù. Kí không phải đơn giản là nhóm tác phẩm văn xuôi không quy được vào
truyện, thơ, kịch thì quy vào kí. Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh từng cho rằng, vè
dân gian chính là một hình thức kí của nhân dân. Kí tự nó có đặc trưng riêng quy
tụ các tác phẩm cùng loại.
Trong lý luận văn học hiện đại vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm
và đặc trưng của loại kí. Có nhà nghiên cứu nhận xét: “Về kí, thực tế là không thể
nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể loại của nó”, lại có người cho kí là
-12-



“loại thể văn học đặc biệt và phức tạp”. Ta cũng có thể thấy cách hiểu đa dạng
qua các cuộc trao đổi về thể kí trên Tạp chí văn học (năm 1966), các bài báo, các
công trình nghiên cứu, các giáo trình lý luận văn học khi đề cập tới vấn đề này.
Tuy nhiên, kí có hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của nó. Ở loại này
người ta đặc biệt quan tâm đến các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, những biểu hiện của
đời sống có thực ngoài đời và đồng thời muốn bộc lộ trực tiếp cá tính sáng tạo và
tinh thần trách nhiệm xã hội của tác giả. “Với thể loại kí, từ sự thôi thúc của cuộc
sống mà tác giả có nhu cầu được công bố kịp thời những nhận xét, những đánh
giá, những ý tưởng… Kí ghi được rất rõ những nét mang dấu ấn của một sự kiện,
của một thời kì, của một lớp người, của một vùng miền”.
Chính vì các tính chất nói trên mà loại kí có một phạm vi biểu hiện đời
sống rất rộng lớn. Kí có thể thiên về ghi chép sự việc, hiện tượng như phóng sự, kí
sự, có thể thiên về biểu hiện những cảm xúc trữ tình như tùy bút, tản văn, có thể
nghiêng về nghị luận như chính luận, có thể nghiêng về ghi chép kiến văn, tri thức
như tạp kí lịch sử…
Chính vì cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong nhìn nhận và khai thác các sự
kiện của đời sống cũng như năng động phát huy vai trò sáng tạo của người cầm
bút mà loại kí rất đa dạng và tác phẩm kí cụ thể luôn độc đáo.
1.1.3. Đặc điểm kí văn học.

1.1.3.1. Kí lấy sự thật khách quan của đời sống và tính xác thực
của đối tượng làm cơ sở.
Xét từ gốc gác và bản chất, kí trước hết nhằm thông tin sự thật. Chức năng
“để ghi nhớ không quên” có từ cội nguồn thể loại khiến các nhà viết kí trước hết
phải hướng về tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện rồi ghi lại những “người thật, việc
thật”, những biến cố, những vấn đề của đời sống… phần nhiều tác phẩm kí ra đời
như bộc lộ phản ứng trực tiếp với những biến cố thời sự, những vấn đề nóng bỏng
đang được đặt ra trong đời sống. Chính đặc điểm này làm cho kí văn học gần với

kí báo chí. Các thể hoặc các tiểu loại khác nhau của thể loại kí thường đặc biệt
phát triển cùng với sự phát triển của báo chí, đáp ứng những nhu cầu thời sự bức
-13-


xúc về nhận thức và đổi mới của đời sống xã hội. Người viết kí không chỉ đặc biệt
quan tâm và tôn trọng những sự kiện xã hội – lịch sử, mà chú ý tới tất cả những
biểu hiện, những dạng hướng tồn tại và phát triển của cuộc sống, truyền đạt trung
thực những gì mà theo tác giả là có giá trị, ý nghĩa với con người. Với thể loại kí,
“cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm”, “tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ
bản của kí”. Sức hấp dẫn, sức thuyết phục của tác phẩm kí thường gắn chặt với
tính chất có thật, xác thực của sự việc được phản ánh trong tác phẩm.
Lấy điểm tựa ở sự thật khách quan của đời sống, kí văn học có khả năng
mạnh mẽ trong việc tạo ra giá trị nhận thức, tạo ra sức thuyết phục, sức lay động
đối với người đọc. Bộ Sử kí khổng lồ của Tư Mã Thiên (145 – 90 tr. CN) gồm 130
thiên với 526.500 chữ chép việc 3000 năm lịch sử Trung Hoa từ Hoàng Đế trong
truyền thuyết đến Hán Vũ Đế, được coi là công trình sử học mẫu mực, một tác
phẩm tư liệu nổi tiếng của văn học thế giới. Theo Lê Quý Đôn, văn của sử kí hay
vì “Tư Mã Thiên… chỉ thấy sự việc thì ghi, không hề để tâm làm văn”. Do được
ghi lại một cách trung thực, con người, sự việc trong tác phẩm kí tác động đến
người đọc, thuyết phục người đọc mạnh mẽ hơn. Đọc tác phẩm kí Người mẹ cầm
súng của Nguyễn Thi viết về chị Út Tịch, “lòng yêu thương và ngưỡng mộ đối với
người anh hùng đã trở nên sâu nặng hơn khi người ta biết rằng một người mẹ như
vậy đã sống thực, và đã đánh giặc ở một mảnh đất gọi là “xã Tam Ngãi, huyện
Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh” có thực của Tổ Quốc”. Nhiều tác phẩm văn học có giá trị
như những tư liệu sử quý giá, có ý nghĩa và tác dụng to lớn với nhận thức của
người đọc và ngay cả với những sáng tạo nghệ thuật về sau. Không phải ngẫu
nhiên mà kí còn được gọi là “văn học báo cáo”, “văn học tư liệu – nghệ thuật”

1.1.3.2. Tính hư cấu trong kí văn học

Trên cơ sở gắn bó với cuộc sống, tác giả kí văn học có thể vận dụng sức
tưởng tượng hư cấu để sáng tác. Nói như Nguyễn Tuân: “Chẳng cứ trong truyện
ngắn, truyện dài, kịch, thơ ca, hay trong kí, trong sáng tác nghệ thuật nào cũng có
hư cấu. Hư cấu nói cho nôm na dể hiểu, là tưởng tượng ra… Không có sức tưởng
tượng hư cấu, lấy gì mà sáng tác… Hư cấu không phải là tách rời thực tiễn và
-14-


thực tế đời sống, mà chính là rất gắn bó với cuộc sống. Vốn sống có bao nhiêu thì
càng hư cấu được bấy nhiêu, sức tưởng tượng càng mạnh, sâu, cao rộng hơn”.
Khi sáng tác kí, tác giả có thể và cần phải vận dụng trí tưởng tượng, nhưng so với
các thể loại khác, sự tưởng tượng trong kí có tính chất, phạm vi và mức độ riêng.
Nhằm xây dựng thế giới nghệ thuật, đưa ra những thông tin thẩm mĩ về
người thật việc thật, tạo ra sức thuyết phục và tác động của tác phẩm trên cơ sở tôn
trọng tối đa tính xác thực của đối tượng phản ánh, nói chung tác phẩm kí văn học
thường hư cấu bằng cách loại bỏ những chi tiết thừa, ngẫu nhiên, tổ chức tài liệu
theo một cấu trúc nào đó, chỉ hư cấu ở những thành phần không thể tái hiện một
cách trực quan, chỉ có thể nắm bắt qua tưởng tượng, như nội tâm của nhân vật, sức
liên tưởng và sự cảm thụ cảnh sắc thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật.
Quan trọng hơn tác phẩm kí không thể nào viết được sự thật đã xảy ra một cách
tuyệt đối, đa phần người viết không trực tiếp chứng kiến sự việc, phần nhiều là do
nghe kể lại của những người trực tiếp tham gia vào sự kiện, kể cả đọc thêm. Lúc
ấy tính hư cấu được tác giả vận dụng để sắp xếp các sự kiện theo một trật tự thống
nhất. Tuy nhiên hư cấu trong kí phải có giới hạn nhất định, nhà văn phải tôn trọng
quan điểm của nhân vật về cuộc sống, con người và cách nhìn nhận, đánh giá của
bản thân người ghi chép, đánh giá…Hoạt động giao tiếp có giới hạn này rất phong
phú, luôn phải nhằm đạt đến tính chân thực trong tái hiện. Hư cấu trong kí là sáng
tạo tích cực của chủ quan nhà văn, không những không làm mất, làm nhòa địa chỉ
và diện mạo ngoài đời của đối tượng phản ánh, mà còn là biện pháp làm cho hình
tượng về cuộc sống trở nên sống hơn, thật hơn, các chi tiết của đời sống liên kết

với nhau, soi chiếu lẫn nhau dưới ánh sáng một tư tưởng thẩm mĩ, một ý đồ nghệ
thuật độc đáo mà tác giả muốn chuyển đến người đọc, vì thế mà trở nên có ý
nghĩa, có giá trị nhân sinh sâu rộng và mạnh mẽ hơn.

1.1.3.3. Hình tượng tác giả trong thể loại kí
So với các loại tác phẩm tự sự, trữ tình hay kịch, hình tượng tác giả trong
tác phẩm kí có vị trí, vai trò đặc biệt nổi bật và quan trọng. Trong tác phẩm kí, sự
thật của cuộc sống vẫn còn nguyên vẹn tính xác thực mà không còn là một tập hợp
-15-


ngẫu nhiên, thô mộc nữa, nhờ tác giả mà chúng đã trở thành những chất liệu,
những yếu tố tạo nên chỉnh thể thế giới nghệ thuật.
Tác giả kí là người trực tiếp tiếp cận, nghiên cứu cuộc sống, phát hiện vấn
đề, tìm tòi và khái quát ý nghĩa xã hội thẩm mĩ của các chi tiết, sự kiện, con người
được ghi chép, phản ánh trong tác phẩm. Như đã nói, kí cũng có thể sử dụng hư
cấu, tưởng ượng, nhưng trước hết và chủ yếu bức tranh cuộc sống trong kí được
dựng bằng những gì mà tác giả trực tiếp quan sát, nghe, nhìn, cảm nhận…Các tác
giả thường đi nhiều đến mức gắn bó, hòa nhập, thân thuộc, hiểu biết tỉ mỉ, chính
xác, nắm bắt được những chi tiết xác thực nhiều mặt về đối tượng phản ánh của
mình. Nguyễn Tuân kể từng nhiều lần đi lại vùng Tây Bắc khi viết Sông Đà. Ông
cũng biết cặn kẻ về lịch sử và địa lí vùng đất Vĩnh Linh, biết chính xác tên gọi, độ
rộng, độ dài của sông từng khúc, từng chỗ, nắm vững độ dài và số ván gỗ của cầu,
biết số lượng, hình thức và nơi cắm đóng cột mốc giới tuyến…khi viết về sự chia
cắt Bắc – Nam.
Tác giả cũng là người trực tiếp tham gia vào thế giới hình tượng nghệ thuật
của tác phẩm, phát huy khả năng quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, nối kết các chi
tiết, sự kiện, trực tiếp trình bày tư tưởng, tình cảm của mình để hướng dẫn người
đọc cảm thụ tác phẩm theo những định hướng nào đó. Kí là sự soi sáng cuộc sống
bằng bó đuốc của những hiểu biết, tư tưởng, tình cảm của tác giả, là “sự nhức nhối

của trí tuệ”. Hầu như ở trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm kí nào cũng xuất
hiện hình tượng tác giả như điểm nhìn trung tâm gắn kết, đánh giá các chi tiết, sự
kiện của đời sống. Cái “tôi” hay “chúng tôi” – tác giả ấy cũng thường trực tiếp
giao tiếp với bạn đọc, dẫn dắt người đọc thâm nhập sự thật cuộc đời. Chẳng hạn,
tập Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường có tới 8/9 tác phẩm nhân vật
“tôi” xuất hiện ngay từ những câu đầu: “Cuối buổi chiều, Huế thường trở về
trong nỗi yên tĩnh lạ lùng, đến nối tôi cảm thấy…” (Rất nhiều ánh lửa), “Buổi
chiều đến trạm sớm, tôi ra ngoài bờ sông Among…”(Như con sông từ nguồn ra
biển),…

-16-


Ở vị trí một hình tượng trung tâm trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm kí,
hình tượng tác giả thường “bộc lộ rõ lập trường, tư tưởng, chính kiến của nhà
văn” về những hiện tượng nào đó của cuộc đời. Với nhiệt tình thuyết phục trong
trình bày, phân tích, lí giải các hiện tượng của cuộc sống, hình tượng tác giả trong
kí là cơ sở khiến “kí mang sức giác ngộ, động viên, giáo dục mạnh mẽ”.
1.1.3.4. Đặc điểm về văn phong, ngôn từ nghệ thuật của kí
Trước hết, ngôn từ nghệ thuật của kí hướng vào miêu tả phong tục qua
những đặc điểm môi trường hoặc những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống, vì
thế vừa cụ thể, sinh động, đậm chất đời thường, vừa khái quát. Đặc điểm phổ biến
này của các tiểu loại kí thường biểu hiện rõ nhất ở phóng sự, kí sự.
Do vai trò đặc biệt nổi bậc và quan trọng của tác giả trong tác phẩm kí,
ngoài những đặc điểm chung của ngôn từ văn học, ngôn từ nghệ thuật trong kí
cũng mang đậm tính chủ thể, gắn liền với những đặc điểm cá tính sáng tạo của tác
giả. Ngôn từ trong tác phẩm kí văn học chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả người chứng kiến và tái hiện các hiện tượng đời sống. Đồng thời, tác giả luôn là
người đối thoại, chứng kiến, ghi nhớ và ghi chép lại ngôn từ của các nhân vật
khác. So với ngôn từ nghệ thuật của các loại tác phẩm khác, ngôn từ nghệ thuật
của kí luôn có xu hướng mở rộng, thừa nhận, dung nạp nhiều hình thức và phong

cách sáng tạo. Nói như Nguyễn Tuân, “kí có quyền dung tất cả các cách của
truyện, kịch, thơ ca, và cả các cách thức của điện ảnh, sân khấu, ca vũ, hội họa,
điêu khắc…”.
Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh hoạt về giọng điệu. Kí
thường không chỉ trần thuật, mà cùng với trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa
của các hiện tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong tác phẩm. Cùng với trần
thuật hoặc trên nền trần thuật, kí cũng khêu gợi xúc cảm ở bạn đọc, truyền cảm
xúc, cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả tới bạn đọc. Ngôn từ nghệ thuật trong kí
không chủ yếu hướng về đối tượng được phản ánh, mà là thứ ngôn từ thuyết phục
trực tiếp và tích cực hướng về gây hiệu quả nhận thức, làm rung động tình cảm
của người đọc. Trong tùy bút Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành, từ
-17-


giọng hát của người con gái trên đài, nhân vật “tôi”- người lính cũ khêu gợi người
đọc về đất nước và con người Việt Nam ta, trong lịch sử và trong hiện tại.
Chính vì có những phẩm chất riêng so với những thể loại khác, kí có vai trò
quan trọng trong sự vận động và phát triển của văn học. Trong gia đình văn học, kí
không phải là “thể loại đàn em”. Kí góp phần làm cho văn học phát triển hài hòa,
phong phú, kịp thời song hành cùng cuộc sống, nhất là ở những giao điểm vận
động của lịch sử, đáp ứng kịp thời và trực tiếp nhu cầu nhận thức nhiều mặt của
con người. Sự phát triển của loại tác phẩm kí ở Anh thế kỉ XVIII, ở Nga thế kỉ
XIX, sự nảy nở phong phú các tác phẩm kí của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ
Bằng và các tác giả khác những năm 30 của thế kỉ XX về đời sống nghèo và các tệ
nạn của xã hội thực dân hóa, cũng như sự xuất hiện nhiều tác phẩm kí trong đời
sống văn học nửa cuối những năm 1980, khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới
và trong giai đoạn hiện tại… là những ví dụ.
Kí không chỉ phản ánh, lưu giữ những hiện tượng, cảm xúc vừa nổi bật, vừa
có tính thời sự mà còn mang cảm hứng nghiên cứu, thể hiện tính tổng hợp về tài
liệu và các phương thức phản ánh. Kí không những không thua kém các thể loại

khác về màu sắc thẩm mĩ mà còn có thể linh hoạt vận dụng, kết hợp với các
phương thức tiếp cận, lí giải, phản ánh, khái quát hiện thực của các thể loại khác,
tạo nên giá trị phong phú và độc đáo của riêng mình.
Kí cũng là loại tác phẩm văn học bộc lộ rõ tính tư tưởng, tính khuynh
hướng trong việc tái hiện và tích cực tác động đến đời sống xã hội. Kí không chỉ
có vị trí, vai trò riêng trong đời sống văn học, mà với những đặc điểm của mình, kí
còn là thể loại lưu giữ nhiều tài liệu xác thực về đời sống và cảm quan nghệ thuật
của con ngươi, là nguồn dự trữ tư liệu tin cậy cho sáng tạo nghệ thuật về sau.

1.2. Bút kí – một tiểu loại trong kí văn học
1.2.1. Khái niệm bút ký:
Theo Từ Điển Tiếng Việt “bút ký là thể ký ghi lại những điều tai nghe mắt
thấy, những nhận xét, cảm xúc người viết trước các hiện tượng trong cuộc
sống”[3;Tr.92]
-18-


Theo giáo sư Trần Đình Sử: “bút ký là một thể của văn học, thuộc loại
trung gian giữa ký sự và tùy bút. Bút ký thiên về việc ghi lại một cảnh vật mà nhà
văn mắt thấy tai nghe, thường là một chuyến đi. Nó kết hợp linh hoạt các phương
thức nghị luận, tự sự, trữ tình. Nhiều khi nó nghiêng hẳn về trữ tình, có thể trình
bày những nhận xét, những liên tưởng triền miên, phóng túng như tùy bút. Có lúc
nó lại tăng cường phần nghị luận và trở thành bút ký chính luận. Bút ký chính
luận có thể luận bàn về nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa.
Giá trị của bút ký chính luận là ở tầm tư tưởng chủ đạo, ở logic lập luận, ở sức
thuyết phục của những dẫn chứng. Nó mang tính chiến đấu rõ rệt, ứng chiến kịp
thời, có tác dụng tuyên truyền, động viên trực tiếp. Đây có thể văn gần với báo
chí. Nó có giá trị văn học khi ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có khả năng
tác động tới tâm hồn người đọc.
Nhìn chung, phân lượng của các phương thức, phương tiện chiếm lĩnh nội

dung, tổ chức văn bản trong từng bài ký luôn có sự thay đổi tùy theo bút pháp của
các nhà văn khác nhau, nên ranh giới giữa các thể bút ký, ký sự, tùy bút có khi
không thật sự rạch ròi, rất khó phân biệt, nhất là trong một bài
ngắn”[16;Tr.380,381]
Từ những nhận định trên ta có thể khái quát về thể loại bút ký như sau: Bút
ký là một tiểu loại của ký văn học. Bút là một thể văn không có vần, ký là ghi
chép. Bút ký là thể văn ghi lại những người thực, việc thực mà nhà văn đã tìm
hiểu, nghiên cứu cùng với cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó.
Tức là trong bút ký, cùng với việc tái hiện dồi dào những chi tiết xác thực về con
người và sự việc là việc ghi lại những cảm nghĩ, suy tư của chính tác giả về những
sự việc, hiện tượng được phản ánh. Chính vì vậy, trong thể loại này, chúng ta luôn
thấy yếu tố trữ tình xuất hiện xen kẽ với việc ghi, tả và kể về sự việc, hiện tượng.

1.2.2. Đặc điểm của bút ký
Đặc trưng của loại hình ký nói chung và của thể loại bút ký nói riêng là ghi
lại người thật, việc thật. Không gắn với sự thật xác thực cửa đời sống bút ký dễ
chơi vơi và tự xóa nhòa đi ranh giới giữa mình với các thể loại khác. Chúng ta có
-19-


thể xem sự khẳng định của nhà văn Bùi Hiển như là tuyên ngôn về tầm quan trọng
tính xác thực trong bút ký và phóng sự: “Chúng ta nên nhớ rằng trong bút ký,
phóng sự tính xác thực của đối tượng là điều kiện cốt yếu. Thêm hư cấu đã dẫn tới
những kết quả chỉ khiến cho sự việc trở thành thực thực hư hư trong trí người đọc,
không có lợi” [13;Tr.428].
Viết bút ký hay không chỉ được đánh giá qua lượng thông tin mà tác giả
cung cấp, mà còn phụ thuộc vào yếu tố nghệ thuật trong bút ký. Điều này cũng thể
hiện mức độ tài năng của người viết ký, đó là sự quan sát nhạy bén, tinh tế của
người viết bút ký và vốn sống cũng là yếu tố quan trọng giúp cho những trang bút
ký có hồn và cuốn hút người đọc hơn. Nhà thơ Phạm Hổ cho rằng: “Bút ký có thể

xem như một thể loại nằm giữa truyện ngắn và thơ. Cái dễ và cái khó của bút ký
có lẽ là ở đó. Dễ là ở chỗ bút ký không đòi hỏi nhất thiết phải xây dựng cho được
nhân vật, nhưng khó là ở chỗ nếu không có cốt truyện để lôi cuốn người đọc thì
phải quyến người đọc bằng cái gì chứ. Nói một cách khác bút ký đứng được phải
dựa vào đâu. Theo tôi nghĩ đó là những cảm xúc thơ, những suy nghĩ thơ”.
[13;Tr.433].
Dù phản ánh hiện thực nhưng bút ký cũng giàu tính nghệ thuật, chứ không
ngắn gọn khô khan như thể loại báo chí. Tôn trọng hiện thực nhưng bút ký nhìn
nhận dưới góc nhìn của nghệ thuật. Tôn trọng khách quan là yếu tố quan trọng
hàng đầu trong bút ký nhưng không có nghĩa bút ký phản ánh vấn đề một cách trần
trụi như nó tồn tại, mà tác giả đã gọt dũa để sự thật càng sáng hơn khi đến với
người đọc.
Yếu tố nghệ thuật hư cấu, liên tưởng được tác giả sử dụng như một thủ
pháp nghệ thuật để làm tăng tính sinh động trong bút ký. Nhà văn không chỉ máy
móc ghi lại sự thật mà phải biết chọn lọc, cắt bớt đi những chi tiết thừa và thêm
vào những chi tiết mà nhà văn do vấn đề này hay lý do khác không thể trực tiếp
chứng kiến được sự việc. Không phải sự việc nào nhà văn cũng có điều kiệc chứng
kiến trực tiếp mà có nhiều vấn đề nhà văn chỉ được nghe kể lại và nhà văn đã diễn
giãi theo suy nghĩ của mình và lúc này yếu tố hư cấu xuất hiện. Hư cấu liên tưởng
-20-


chỉ trong một chừng mực cần thiết, chỉ là phương tiện nghệ thuật chứ nhất định
không được phản ánh sai sự thật. Như trong bút ký “Đất mũi” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường trong tuyển tập bút ký tập 2 của ông. Cuộc đấu tranh anh dũng của
nhân dân Cà mau chống Mỹ - Ngụy đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi nhận
qua lời kể của người trực tiếp tham gia chiến đấu như Chú Thím Tám, sự thật là
Hoàng Phủ Ngọc Tường không được chứng kiến trực tiếp cuộc chiến đấu ấy,
nhưng tác giả đã diễn đạt lại một cách sống động, hào hùng do thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau.

Bút ký có thể thiên về khái quát về các hiện tượng đời sống có vấn đề hoặc
thiên về chính luận. Bút ký thiên về khái quát các hiện tượng đời sống là những
tác phẩm mà ở đó, tác giả đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tô đậm
những tìm tòi, phát hiện của mình. Ở loại bút ký này, người viết chỉ tập trung vào
việc điển hình hóa những tính cách, những hiện tượng trong cuộc sống, sử dụng
nhiều yếu tố liên tưởng, yếu tố trữ tình và có ý thức xây dựng cốt truyện. Trong
bút ký thiên về chính luận thì tác giả mô tả những hiện tượng đời sống xã hội một
cách chính xác, sinh động, có kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của
nhân vật, qua đó phân tích, đánh giá cuộc sống. Ở đây, yếu tố nghị luận, châm
biếm, hài hước được sử dụng nhiều hơn.

1.2.3. Phân biệt bút ký với một số tiểu loại khác của ký.
Lý luận hiện nay vẫn còn những ý kiến chưa thống nhất về ranh giới, đặc
điểm của của ký văn học và một số thể loại báo chí khác, do vậy cũng khác nhau
về cách phân loại các tiểu loại nhỏ hơn của ký văn học. Tuy nhiên tựu chung lại
thì ý kiến đa số của các nhà lý luận văn học thì ký văn học có thể chia thành các
tiểu loại nhỏ như sau: Bút ký, tùy bút, phóng sự, hồi ký, nhật ký, du ký. Song sự
phân chia này chỉ là tương đối bởi giữa các tiểu loại vẫn có sự nhập nhằng, khó
tách biệt. Ở đây chúng tôi xin đưa ra một số tương đồng và dị biệt giữa tiểu loại
bút ký với một vài tiểu loại khác của loại hình ký văn học. Tất nhiên, đây chỉ là sự
trình bày những đặc điểm nổi bật và cốt yếu nhất của các tiểu loại.

-21-


- Trước hết là phân biệt giữa bút ký và tùy bút. Đây là hai tiểu loại gần gũi
nhất và dễ nhầm lẫn nhất. Đôi khi người ta gọi một số bài bút ký của Hoàng Phủ
Ngọc Tường là tùy bút. Bút ký và tùy bút đều có sự xen kẽ giữa việc ghi chép sự
việc, hiện tượng và ghi chép suy nghĩ, cảm xúc của người viết. Nhưng nếu như
trong tùy bút, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của

người viết chiếm một tỉ trọng lớn và tính chất trữ tình khá đậm nét, thì trong bút
ký việc ghi chép chân thực sự việc được coi trọng hơn. Trong bút ký, cái hấp dẫn
lôi cuốn người đọc chính là những hình tượng điển hình, những sự việc, hiện
tượng có thật trong đời sống. Trong khi đó ở tùy bút những chi tiết về con người
và sự kiện cụ thể được ghi chép chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và
nhận thức, đánh giá của mình về cuộc sống. Trong bút ký, dù có xen kẽ vào những
yếu tố cảm xúc thì các sự kiện cũng được trình bày theo một trình tự nhất định,
còn trong tùy bút các sự kiện khách quan không được trình bày liên tục do mạch
liên tưởng, suy tưởng của tác giả. Ngôn từ trong tùy bút thường giàu hình ảnh và
chất thơ, giọng văn rất mượt mà, quyến rũ, và đặc biệt câu văn tùy bút thường giàu
nhịp điệu, âm điệu hài hòa trầm bổng.
- Tiểu loại tiếp theo cần phân biệt với bút ký là ký sự. Ký sự là thể ký ghi
chép khá hoàn chỉnh một câu chuyện, một sự kiện có thật trong cuộc sống. Điểm
tương đồng giữa hai tiểu loại này là đều phản ánh sự việc, hiện tượng bằng cách sử
dụng nhiều biện pháp và phương tiện nghệ thuật, đều không có cốt truyện chặt
chẽ. Nhưng bút ký phản ánh chân thực cả sự việc và con người với tất cả sự biến
đổi lớn lao trong tính cách và tâm hồn, còn ký sự thiên về phản ánh sự việc, sự
kiện hơn là phản ánh tính cách những người trong cuộc. Ký sự thường đậm yếu tố
tự sự, giàu chất sống thực tế, yếu tố bàn luận cá nhân rất ít xuất hiện. Trong khi
đó, bút ký kết hợp mật thiết giữa tự sự và trữ tình, vừa ghi chép sự việc vừa bày tỏ
thái độ chủ quan của người viết.
- Phân biệt giữa phóng sự và bút ký: Phóng sự là tiểu loại ký ghi chép kịp
thời, cung cấp những tri thức chính xác, phong phú, đầy đủ, nhằm làm sáng tỏ
trước công luận một sự việc, một vấn đề có ý nghĩa thời sự. Nội dung chủ yếu của
-22-


phóng sự là qua việc trình bày chính xác các sự việc, người viết nêu lên một ý kiến
đề xuất và giải quyết mà ít bộc lộ tình cảm, thái độ. Bút ký cũng tái hiện con
người, sự việc khá dồi dào, nhưng qua đó bộc lộ trực tiếp cảm nghĩ của tác giả.

Phóng sự mang đậm chất tự sự và chính luận còn bút ký mang màu sắc trữ tình.
- Hồi ký là thể loại ghi chép sự kiện quá khứ đã trải qua do chính tác giả tự
ghi chép về mình. Hồi ký cung cấp những tài liệu quen thuộc về quá khứ trong khi
đó bút ký ghi chép những sự việc mang tính thời sự của thời đại. Trong hồi ký,
chủ thể trần thuật nhất thiết phải là người trong cuộc còn trong bút ký đôi khi chủ
thể trần thuật chỉ được nghe kể lại chứ không bao giờ có điều kiện chứng kiến trực
tiếp. Mặt khác, hồi ký đòi hỏi người viết phải hết sức tôn trọng tính chân thực của
câu chuyện từ sự việc, số liệu, thời gian đến địa điểm thì yêu cầu đó trong bút ký
không quá khắt khe.

-23-


-24-


1.3. Vài nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
1.3.1. Tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại thành phố Huế
trầm mặc cổ kính và thơ mộng. Nguyên quán của ông là tỉnh Quảng Trị - thành
cổ anh hùng. Ông tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn khóa I, ban Việt - Hán
(1960), là cử nhân triết học Đại Học Văn Khoa Huế. Trong những năm sống
dưới chế độ Mỹ - Ngụy, Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa dạy học vừa tích cực
tham gia phong trào đấu tranh chống đế quốc Mỹ can thiệp và bè lũ ngụy quyền
Sài Gòn.
Ngay từ khi còn bé Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết văn và làm báo. Sau
khi đất nước thống nhất 1975, ông được bầu làm chủ tich hội văn nghệ Quảng
Trị làm tổng biên tập Tạp Chí Sông Hương, sau đó làm tổng biên tập Tạp Chí
Cửa Việt. Hiện nay, ông đang sống tại Huế.
Trong những năm tháng của tuổi trẻ, trái tim của Hoàng Phủ Ngọc Tường

đã rực cháy nên ngọn lửa nhiệt tình với quê hương, đất nước. Ông tham gia
nhiều phong trào kháng chiến và đi đến mọi miền của Tổ Quốc. Đi đến đâu ông
cũng dành cho con người, thiên nhiên nơi đó một tình cảm chân thành và luôn
tìm hiểu khá sâu sắc và tinh tế về mọi điều. Chính những chuyến đi đó đã làm
tăng thêm ngày càng nhiều vốn hiểu biết của ông về mọi miền đất nước, tăng
thêm vốn sống, vốn hiểu biết và tình yêu quê hương trong ông. Những chuyến
đi đó cũng thôi thúc ông viết thật nhiều về tất cả những gì mình đã nghe, đã
thấy, đã cảm nhận. Như một điều tự nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến với
bút ký như một sự sắp đặt. Với bút ký, ông có thể tự do sử dụng ngòi bút của
mình để viết nên những trang văn sống động về hiện thực cuộc sống của những
miền quê đã đi qua và tự do để cảm xúc của mình tràn lên trang viết.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người Huế chính gốc và gắn bó với Huế
bằng cả tâm hồn của một nghệ sĩ. Trong trang viết của ông Huế luôn hiện lên
với tất cả vẻ đẹp dịu dàng và thơ mộng. Quê hương với những nét đẹp hiện hữu
của cảnh vật và còn chất chứa những giá trị về tâm hồn của con người Huế,
-25-


×