Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

So sánh hiệu quả phòng ngừa hội chứng quá kích buồng trứng và chất lượng noãn của phác đồ gây trưởng thành noãn bằng GnRH agonist và hCG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.23 KB, 92 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng quá kích buồng trứng (HCQKBT) là biến chứng nghiêm
trọng nhất của kích thích buồng trứng trong điều trị vô sinh. Hội chứng quá
kích buồng trứng thường xảy ra vài ngày sau khi tiêm thuốc kích thích rụng
trứng (hCG – human Chorionic Gonadotropin) trong các chu kỳ có kích thích
buồng trứng bằng clomiphene citrate hay gonadotropin, có hay không kết hợp
với GnRH agonist hay GnRH antagonist. Có tới 33% chu kỳ thụ tinh trong
ống nghiệm (IVF) đã được báo cáo là có liên quan đến hội chứng quá kích
buồng trứng mức độ nhẹ, trong đó những trường hợp nặng cần nhập viện
chiếm 2 - 6% chu kỳ IVF và có thể dẫn tới tử vong [1].
Human chorionic gonadotropin (hCG) là thuốc gây trưởng thành nang
noãn kinh điển trong vài thập kỷ gần đây nhờ sự tương tự LH nội sinh về cấu
trúc và sinh học. Tuy nhiên, hCG cũng được chứng minh là tác nhân quan
trọng gây ra hội chứng quá kích buồng trứng, sau khi tiêm hCG nồng độ yếu
tố tăng trưởng nội mạch (VEGF - Vascular Endothelial Growth Factor) có
nguồn gốc từ tế bào hạt cũng như ở các tế bào nội mô mạch máu tăng lên, làm
tăng tính thấm thành mạch và tràn dịch đa màng đây là nguyên nhân chính
dẫn đến bệnh cảnh của hội chứng quá kích buồng trứng [2],[3]. Do đó một
trong những giải pháp dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng là không sử
dụng hCG, hoặc hủy chu kỳ điều trị, hoặc thay thế hCG [4],[5].
Trong những năm gần đây, xu hướng sử dụng GnRH agonist gây trưởng
thành nang noãn thay thế hCG trong phác đồ kích thích buồng trứng bằng
GnRH antagonist đã phát triển mạnh trên thế giới. GnRHa kích thích tuyến
yên tạo đỉnh LH nội sinh, sinh lý gây trưởng thành nang noãn và do thời gian
bán hủy của LH nội sinh (4 giờ) ngắn hơn so với thời gian bán hủy của hCG
(24 giờ) nên gần như triệt tiêu hoàn toàn HCQKBT, tuy nhiên do thời gian


2



bán hủy của LH nội sinh ngắn làm giảm hoạt động của hoàng thể và tiêu hủy
hoàng thể sớm dẫn đến làm giảm tỷ lệ có thai và tăng tỷ lệ sảy thai khi chuyển
phôi tươi [6],[7]. Để khắc phục tình hình này một số nghiên cứu ở Việt Nam
và trên thế giới sử dụng phương pháp chuyển phôi tươi kết hợp với liều thấp
hCG (1500 UI) để hỗ trợ hoàng thể, phương pháp này vẫn tiềm ẩn nguy cơ
quá kích buồng trứng [8],[9]. Trữ lạnh phôi toàn bộ là một giải pháp phòng
ngừa HCQKBT trong TTTON nhằm tránh khả năng xuất hiện HCQKBT
muộn hoặc làm HCQKBT nặng lên do hCG nội sinh tạo ra khi có thai. Việc
kết hợp gây trưởng thành nang noãn bằng GnRHa kết hợp với đông phôi toàn
bộ được cho là một giải pháp toàn diện giảm thiểu HCQKBT sớm và muộn
trong TTTON [10],[11].
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về sử dụng GnRH
agonist gây trưởng thành noãn trên phác đồ GnRH antagonist và đông phôi
toàn bộ trên bệnh nhân có nguy cơ quá kích buồng trứng. Tại trung tâm Hỗ
trợ sinh sản quốc gia - Bệnh viện Phụ sản Trung ương phương pháp này mới
được nhóm nghiên cứu đưa vào sử dụng. Do vậy tôi tiến hành đề tài: “So
sánh hiệu quả phòng ngừa hội chứng quá kích buồng trứng và chất lượng
noãn của phác đồ gây trưởng thành noãn bằng GnRH agonist và hCG”
với hai mục tiêu:
1.

So sánh số lượng, chất lượng noãn và phôi của hai phương pháp gây
trưởng thành nang noãn bằng hCG và GnRH agonist trên bệnh nhân
sử dụng phác đồ GnRH antagonist có nguy cơ cao với HCQKBT.

2.

Đánh giá tỷ lệ quá kích buồng trứng của hai phương pháp gây trưởng
thành noãn trên.



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. SINH LÝ SINH SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA TRỤC DƯỚI ĐỒI TUYẾN YÊN - BUỒNG TRỨNG
Chức năng sinh sản của cả nam và nữ giới được điều hòa và kiểm soát
bởi hệ thống thần kinh - nội tiết. Trung tâm của hệ thống sinh sản nữ giới là hai
buồng trứng với hai chức năng sản xuất nội tiết và sản xuất noãn. Sự hoạt động
của các chức năng buồng trứng được gắn với một hệ thống kiểm soát phức tạp,
bao gồm hệ thống thần kinh trung ương, vùng dưới đồi, tuyến yên và bản thân
nội tại buồng trứng. Tất cả các cơ quan tham gia vào quá trình điều hòa này nằm
trong mối tương tác qua lại dưới dạng kích thích hoặc ức chế thông qua các nội
tiết tố hướng sinh dục hoặc nội tiết tố sinh dục [12],[13].
1.1.1. Vùng dưới đồi
Vùng dưới đồi thuộc gian não, nằm quanh não thất 3 và nằm giữa hệ
thống viền, tiết ra hormon giải phóng FSH và LH gọi là Gonadotropin
Releasing Hormone (GnRH). GnRH được bài tiết theo nhịp, cứ 1 đến 3 giờ
GnRH được bài tiết 1 lần, mỗi lần kéo dài trong vài phút.
Tác dụng của GnRH là kích thích tế bào thùy trước tuyến yên bài tiết
FSH và LH theo cơ chế gắn vào các thụ thể làm tăng tính thấm canxi khiến
canxi nội bào tăng và hoạt hóa các tiểu đơn vị của gonadotropin. Khi sử dụng
GnRH liều cao hoặc liên tục sẽ làm nghẽn kênh canxi và dẫn tới giảm thụ thể,
do đó làm gián đoạn hoạt động của cả hệ thống. Vì vậy thiếu GnRH hoặc nếu
đưa GnRH liên tục vào tuyến máu đến tuyến yên thì cả FSH và LH đều không
được bài tiết [14],[15],[16].


4


1.1.2. Tuyến yên
Tuyến yên gồm 2 phần có nguồn gốc cấu tạo từ thời kỳ bào thai hoàn
toàn khác nhau đó là thùy trước và thùy sau. Thùy trước tuyến yên được cấu
tạo bởi những tế bào có khả năng chế tiết nhiều loại hormon khác nhau, trong
đó có các tế bào chế tiết hormon hướng sinh dục FSH và LH dưới tác dụng
của GnRH [14].
 FSH: Có tác dụng kích thích nang noãn trong buồng trứng phát triển và
trưởng thành, kích thích phát triển lớp tế bào hạt để từ đó tạo thành lớp
vỏ của nang noãn.
 LH: Có tác dụng phối hợp với FSH làm phát triển nang noãn tiến tới
trưởng thành, phối hợp FSH gây hiện tượng phóng noãn, kích thích tế
bào hạt và vỏ còn lại phát triển thành hoàng thể đồng thời duy trì sự tồn
tại của hoàng thể, kích thích lớp tế bào hạt của nang noãn và hoàng thể
bài tiết progesterone và tiếp tục bài tiết estrogen.
1.1.3. Buồng trứng
1.1.3.1. Cấu tạo buồng trứng
Có hai buồng trứng hình bầu dục nằm ở 2 bên tử cung với kích thước
mỗi buồng trứng: 4 x 2 x1 cm. Ở người trưởng thành, người ta chia buồng
trứng làm hai phần theo cấu trúc và chức năng là vùng vỏ và vùng tủy buồng
trứng. Các nang noãn nguyên thủy tập trung chủ yếu ở phần vỏ buồng trứng
chúng bao gồm các noãn bào được bao quanh bởi các tế bào hạt ngoài cùng là
các tế bào vỏ. Vùng tủy buồng trứng chủ yếu là các tế bào của tổ chức liên kết
không có chức năng sinh sản.
Trẻ sơ sinh gái có từ 1,2 - 1,5 triệu nang noãn nguyên thủy. Nhưng từ
tuổi dậy thì đến mãn kinh chỉ có khoảng 400 - 500 nang noãn trưởng thành, số
còn lại thoái hóa và teo đi [12],[17].


5


1.1.3.2. Chức năng của buồng trứng.
Buồng trứng hoạt động chịu sự kiểm soát của tuyến yên qua 2 hormon
hướng sinh dục là FSH và LH. Buồng trứng có 2 chức năng: chức năng ngoại
tiết tạo ra noãn và chức năng nội tiết tạo các hormon sinh dục.
a. Chức năng ngoại tiết: tạo noãn
Nang noãn nguyên thủy có đường kính 0,05 mm. Dưới tác dụng của FSH
nang noãn lớn lên, chín. Nang noãn chín có đường kính xấp xỉ 20mm, noãn
chứa trong nang này cũng chín và chịu tác dụng phân bào. Noãn chín có
đường kính khoảng 100µm. Dưới tác dụng của LH nang noãn chín phóng ra
noãn chín có thể thụ tinh được vào giữa chu kỳ kinh nguyệt [18].
b. Chức năng nội tiết: buồng trứng chế tiết ra 3 hormon chính:
 Estrogen do các tế bào hạt các lớp áo trong nang noãn bài tiết trong nửa
đầu chu kỳ kinh nguyệt và nửa sau do hoàng thể tiết ra.
 Progesterone do các tế bào hạt của hoàng thể tiết ra.
 Androgen do các tế bào ở rốn của buồng trứng chế tiết ra.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NANG NOÃN
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của dòng noãn
Sự phát triển của noãn là sự hình thành, lớn lên và trưởng thành của noãn.
Quá trình này bắt đầu từ rất sớm trong bào thai và chấm dứt vào tuổi mãn
kinh của người phụ nữ, gồm có 4 giai đoạn:
- Nguồn gốc ngoài cơ quan sinh dục của tế bào mầm nguyên thủy và sự
di chuyển các tế bào mầm vào cơ quan sinh dục.
- Sự gia tăng số lượng các tế bào mầm bằng gián phân.
- Sự giảm chất liệu di truyền bằng giảm phân.
- Sự trưởng thành về cấu trúc và chức năng của noãn


6


Hình 1.1. Sơ đồ quá trình tạo noãn [19]
Vào tháng thứ 3 đến tháng thứ 5 của phôi thai, quá trình phân chia giảm
phân đã bắt đầu để tạo ra các noãn có n nhiễm sắc thể, để khi kết hợp với tinh
trùng cũng có n nhiễm sắc thể lúc thụ tinh, sẽ hình thành một hợp tử có 2n
nhiễm sắc thể. Quá trình giảm phân tế bào mầm ở người phụ nữ là một quá
trình rất dài, gồm có 2 pha: giảm phân I và giảm phân II.
Có 2 block xảy ra trong quá trình giảm phân của tế bào mầm: block thứ
nhất khi tế bào mầm bước vào giai đoạn tiền kỳ (prophase) của giảm phân I,
tế bào mầm lúc này được gọi là noãn sơ cấp ở giai đoạn germinal vesicle
(GV). Cho đến khi sinh ra, buồng trứng của bé gái chỉ chứa các noãn phát
triển đến giai đoạn GV. Các noãn chỉ vượt qua được giai đoạn này khi có sự
xuất hiện của đỉnh LH, tức là khi đến tuổi dậy thì. Tuy nhiên, chỉ vài giờ sau
đỉnh LH, noãn lại bước vào block thứ hai khi ở giai đoạn trung kỳ
(metaphase) của giảm phân II, noãn lúc này được gọi là noãn thứ cấp ở giai


7

đoạn metaphase II (MII). Noãn trưởng thành và có phóng noãn là noãn ở
giai đoạn MII. Noãn chỉ vượt qua được giai đoạn MII khi có sự thụ tinh của
tinh trùng, và sau đó sẽ tiếp tục phát triển thành hợp tử [20].
1.2.2. Sinh lý sự phát triển nang noãn
Sự phát triển của nang noãn gồm một chuỗi các sự kiện xảy ra một
cách có trật tự dẫn tới sự phóng noãn ở giữa chu kỳ, bao gồm: sự huy động
các nang noãn (recruitment), sự chọn lọc nang noãn (selection), sự vượt trội
của một nang noãn (dominance), sự thoái hoá của nang noãn (atresia) và sự
phóng noãn (ovulation).
Khi một nang noãn được lựa chọn để phát triển thì kích thước và vị trí
của nó thay đổi. Các nang noãn tăng trưởng, phát triển qua các giai đoạn:
nang nguyên thủy, nang tiền hang (nang sơ cấp và nang thứ cấp), nang hang

(nang cấp 3), nang tiền phóng noãn (nang de Graff). Một chu kỳ phát triển
nang noãn trung bình kéo dài 85 ngày và thông thường chỉ có một nang
trưởng thành và phóng noãn trong một chu kỳ kinh.
 Sự liên quan giữa kích thước của nang noãn và sự
trưởng thành của noãn:
Các nang noãn ở các giai đoạn phát triển khác nhau đều chứa noãn sơ
cấp ở giai đoạn GV. Đây là noãn ở giai đoạn chưa trưởng thành. Bên cạnh sự
kiểm soát nội tiết, đặc biệt là đỉnh LH ở giữa chu kỳ, khả năng của một noãn
sơ cấp (noãn GV) có thể tiếp tục phân chia giảm phân để tiến tới giai đoạn
trưởng thành MII và phóng noãn phụ thuộc mật thiết vào kích thước của nang
chứa noãn đó. Các thí nghiệm in vitro và cả các nghiên cứu in vivo đều cho
thấy noãn sơ cấp (GV) không thể nào tiếp tục phân chia giảm phân được nếu
noãn được chứa trong nang nguyên thủy hay nang sơ cấp. Chỉ có những noãn
GV chứa trong nang trước phóng noãn có kích thước bình thường mới có khả
năng tiếp tục phân chia giảm phân để trưởng thành. Những noãn GV chứa


8

trong nang thứ cấp chỉ có thể tiếp tục phân chia giảm phân đến giai đoạn
metaphase I, sau đó dừng lại luôn ở giai đoạn này [20].
1.3. THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
1.3.1. Định nghĩa
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF - In vitro fertilization): là chọc hút một
hay nhiều noãn đã trưởng thành từ buồng trứng cho thụ tinh với tinh trùng (đã
lọc rửa) trong ống nghiệm. Sau khi noãn thụ tinh phát triển thành phôi, chuyển
phôi tốt vào buồng tử cung để phôi làm tổ và phát triển thành thai nhi [21].
1.3.2. Chỉ định và chống chỉ định của TTTON
1.3.2.1. Chỉ định TTTON
- Các trường hợp vô sinh do tắc vòi tử cung.

- Vô sinh do lạc nội mạc tử cung.
- Vô sinh do bất thường về phóng noãn (không phóng noãn, kém phóng
noãn, buồng trứng đa nang, người bệnh lớn tuổi).
- Vô sinh do tinh dịch đồ bất thường.
- Vô sinh không rõ nguyên nhân.
- Đã áp dụng bơm tinh trùng vào buồng tử cung nhưng không có kết quả.
1.3.2.2. Chống chỉ định TTTON
Các trường hợp vô sinh do nguyên nhân buồng tử cung chưa được xử lý.
1.3.3. Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm
- Thăm khám cặp vợ chồng.
- Làm các xét nghiệm cơ bản cần thiết.


9

- Đánh giá dự trữ buồng trứng (xét nghiệm nội tiết, siêu âm đếm nang
thứ cấp đầu chu kỳ kinh).
- KTBT (phác đồ dài, phác đồ ngắn, phác đồ antagonist).
- Theo dõi sự phát triển nang noãn bằng siêu âm và định lượng hormon
estradiol, progesterone, LH.
- Tiêm hCG giúp trưởng thành nang noãn khi đủ điều kiện.
- Lấy noãn qua đường âm đạo dưới hướng dẫn của siêu âm sau mũi tiêm
hCG từ 34 đến 36 giờ.
- Sử dụng progesterone hỗ trợ pha hoàng thể ngay sau lấy noãn.
- Đồng thời lấy mẫu tinh trùng, chuẩn bị mẫu tinh trùng bằng phương
pháp lọc rửa.
- Cho tinh trùng thụ tinh với noãn theo phương pháp TTTON cổ điển
hoặc bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI).
- Nuôi cấy trong tủ cấy 37oC và 5% CO2 hoặc 6% CO2 tùy loại môi
trường yêu cầu.

- Kiểm tra sự thụ tinh sau 16 đến 18 giờ.
- Tiếp tục nuôi phôi trong tủ cấy đến ngày 2, ngày 3 hoặc ngày 5.
- Chuyển phôi ngày 2, ngày 3 hoặc chuyển phôi ngày 5 (phôi nang).
- Tiếp tục sử dụng progesteron hỗ trợ pha hoàng thể.
- Xét nghiệm βhCG 14 ngày sau chuyển phôi hoặc 12 ngày sau chuyển
phôi blastocyte, có thai sinh hóa khi β hCG ≥ 25 IU/L.
- Siêu âm đường âm đạo sau 28 ngày chuyển phôi nếu có thai sinh hóa.
1.3.4. Các thuốc sử dụng trong TTTON
1.3.4.1. GnRH đồng vận (GnRH agonist)


10

a. Cấu tạo
GnRHa là những chất tổng hợp có cấu trúc gồm một chuỗi polypeptid
gồm 10 acid amin, tương tự như GnRH trong cơ thể người chỉ khác ở 2 acid
amin số 2 và số 6.
b. Biệt dược
GnRHa thường được đóng dưới dạng: dạng tiêm mỗi ngày và dạng
phóng thích chậm, liên tục trong 1 tháng. Liều lượng sử dụng tùy thuộc vào
hoạt tính sinh học của từng loại. Các chế phẩm GnRHa hiện có: Decapeptyl
0,1 mg, Decapeptyl Depot 3 mg, Suprefact 6 ml, Diphereline 0,1 mg.
c. Tác dụng không mong muốn
Nóng bừng, suy nhược, khô âm đạo, nguy cơ loãng xương khi dùng kéo dài.
1.3.4.2. GnRH đối vận (GnRH antagonist)
a. Cấu tạo
GnRH đối vận được cấu tạo bằng cách thay đổi phần lớn các acid amin trong
số 10 acid amin của GnRH. Hiện tại GnRH đối vận thế hệ thứ 3 được dùng phổ
biến hơn do tính an toàn hơn so với các chế phẩm ở thế hệ thứ nhất và thứ hai.
b. Biệt dược:

Ganirelix (Orgalutran 0, 25 mg); Cetrorelix acetate (Cetrotide 0, 25mg).
c. Cơ chế tác động
GnRH đối vận gắn kết cạnh tranh với thụ thể của GnRH tại tuyến yên,
khiến cho GnRH do vùng dưới đồi tiết ra không thể tác dụng được lên tuyến
yên để gây tiết FSH và LH. Vì vậy sự gia tăng của nồng độ estrogen trong
máu không thể tác động được để gây đỉnh LH. So với GnRH đồng vận,
GnRH đối vận có tác động tức thì, khoảng 4 - 6 giờ sau tiêm và phục hồi
nhanh sau ngưng thuốc [22].


11

1.3.4.3. FSHr (Follicle Stimulating Hormone recombinant)
Nước tiểu người thường chứa nhiều các tạp chất, không thể loại được
hoàn toàn trong quá trình chiết xuất. Người ta cũng lo ngại sự tạp nhiễm trong
nước tiểu người trong quá trình thu thập, quản lý và chiết xuất gonadotropins.
Đồng thời để đảm bảo nguồn cung cấp FSH ổn định phục vụ nhu cầu sử dụng
ngày càng tăng, vào đầu những năm 90, FSH tinh khiết được tổng hợp bằng
công nghệ tái tổ hợp đã được giới thiệu và đưa vào sử dụng KTBT.
FSHr được sản xuất dưới dạng ống, dùng tiêm dưới da, với liều lượng rất
đa dạng từ 50 IU (đơn vị quốc tế) đến 600 IU dưới các tên biệt dược: Puregon
(của Organon), Gonal - F (của Serono).
Sử dụng FSH tái tổ hợp có tác dụng: kích thích phát triển các nang noãn,
tránh được LH ngoại sinh, giảm sự xuất hiện đỉnh LH, tránh được hiện tượng
hoàng thể hóa sớm, cải thiện được chất lượng noãn
Liều thuốc sử dụng phụ thuộc yếu tố tiền sử, tuổi, chức năng của buồng
trứng và cân nặng của bệnh nhân.

 Chống chỉ định:
- U buồng trứng, u vú, u tử cung, u tuyến yên, u vùng dưới đồi.

- Phụ nữ có thai, cho con bú.
- Xuất huyết âm đạo không rõ nguyên nhân.
- Dị ứng thành phần của thuốc.
- Suy buồng trứng nguyên phát.
- Nang buồng trứng hoặc buồng trứng to bất thường không phải do
buồng trứng đa nang.
- Dị dạng cơ quan sinh dục không thích hợp cho việc có thai
* Tác dụng không mong muốn
- Hội chứng quá kích buồng trứng.
- Phản ứng tại chỗ tiêm: thâm tím, đau, đỏ, sưng, ngứa.


12

1.3.4.4. hCG (Human Chorionic Gonadotropin)
hCG là một gonadotropin do rau thai tiết ra, do cấu trúc hoá học có chứa
chuỗi  hoàn toàn tương tự như LH, nên có thể gây đáp ứng tương tự LH lên
nang noãn và noãn. Mặt khác, hCG dễ chiết xuất, tác dụng sinh học mạnh hơn
và thời gian tác dụng kéo dài hơn, nên thường được sử dụng thay thế LH để
kích thích sự phát triển của noãn và gây phóng noãn.
hCG thường được cho vào thời điểm nang noãn đã phát triển tốt và chuẩn
bị phóng noãn. Liều sử dụng thường 5.000 hoặc 10.000 IU.
Các chế phẩm hCG hiện có: Pregnyl (của Organon), Profasi (của Serono),
hCG tái tổ hợp (Ovitrell hãng Serono 250µg)
 Chống chỉ định: Nghi ngờ khối u phụ thuộc androgen.

 Thận trọng: Suy tim, suy thận, cao huyết áp, động kinh, đau nửa đầu,
đa phóng noãn, hội chứng quá kích buồng trứng.

 Tác dụng không mong muốn: Giữ nước và muối, nổi sẩn ngoài da.

 Dược động học của hCG
Sau khi tiêm bắp hCG nước tiểu hàm lượng trong huyết thanh tăng trong
2 giờ hàm lượng đỉnh đạt được trong vòng 6 giờ và kéo dài khoảng 36 giờ.
Hàm lượng của hCG giảm lúc 48 giờ và tiếp cận mức cơ sở sau khoảng 72
giờ. Sau khi tiêm bắp hCG khoảng 10 - 12% liều bài tiết vào nước tiểu trong
24 giờ thuốc có thể tiếp tục phát hiện trong nước tiểu từ 3- 4 ngày [23].
1.4. CÁC PHÁC ĐỒ KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG TRONG TTTON
Mục đích sử dụng thuốc để kích thích buồng trứng là nhằm đạt số lượng
nang noãn trưởng thành tối đa. Sau đó sử dụng hCG để kích thích giai đoạn
phát triển cuối cùng của các nang noãn đồng thời dự tính được thời điểm hút
noãn. Một vấn đề lớn trong kích thích buồng trứng là sự xuất hiện của đỉnh
LH khi các nang noãn chưa trưởng thành thì sẽ bước qua giai đoạn thoái triển,
hoàng thể hóa sớm và làm giảm chất lượng noãn. Do vậy việc ức chế đỉnh LH


13

trong kích thích buồng trứng để làm IVF là một trong những bước tiến lớn
trong phác đồ kích thích buồng trứng [21].
1.4.1. Phác đồ dài
GnRH đồng vận 0,1mg tiêm dưới da trong 14 ngày liên tục bắt đầu từ ngày
21 hoặc từ ngày đầu của chu kỳ kinh, định lượng nội tiết nếu nếu nồng độ E 2 < 50
pg/ml và LH < 5 IU/l thì dùng FSH, liều FSH thay đổi tùy từng bệnh nhân đồng
thời giảm liều GnRH đồng vận còn 0,05mg. Thời gian phối hợp này thường kéo
dài 10 đến 12 ngày. Tiêu chuẩn để tiêm hCG đối với phác đồ dài tại bệnh viện
Phụ sản Trung ương là khi có ít nhất 3 nang có đường kính ≥ 17mm hoặc 2
nang ≥ 18mm.
Thực hiện hút noãn 36 giờ và chuyển phôi vào ngày 2 hoặc 3. Phác đồ
này là phác đồ chuẩn áp dụng cho các bệnh nhân tiên lượng đáp ứng bình
thường đối với kích thích buồng trứng [24].

½ liều GnRHa

GnRHa

FSH

Ngày 21
CKKN

Ngày 2
CKKN

Tiêm hCG

Chọc hút
noãn

Chuyển
phôi

Hình 1.2. Sơ đồ phác đồ dài trong thụ tinh ống nghiệm [25]
1.4.2. Phác đồ ngắn
Phác đồ này áp dụng cho bệnh nhân có nguy cơ đáp ứng kém với kích
thích buồng trứng.
FSH

GnRHa

Ngày 2/ Ngày 3
CKKN


Tiêm
hCG

Chọc hút
noãn

Chuyển
phôi


14

Hình 1.3. Sơ đồ phác đồ ngắn [25]
Diphereline được dùng đồng thời với FSH từ ngày 2 của chu kỳ kinh.
Theo dõi sự phát triển của nang noãn, hút noãn và chuyển phôi giống như
phác đồ dài.
1.4.3. Phác đồ GnRH antagonist
Phác đồ cố định: Hay còn gọi là phác đồ theo chương trình, trong đó
gonadotropin được sử dụng vào ngày 2 hoặc ngày 3 của vòng kinh. Liều GnRH
antagonist đầu tiên được cho vào ngày 5 hoặc ngày 6 của FSH cho những bệnh
nhân có đáp ứng bình thường với liều 0,25 mg/ngày. Theo dõi đáp ứng của bệnh
nhân trên siêu âm và xét nghiệm nội tiết, khi đủ điều kiện cho hCG kích thích
rụng trứng.
Phác đồ linh hoạt: Trong phác đồ cố định, đáp ứng buồng trứng có thể
không đạt tối ưu. Do đó, thời điểm bắt đầu sử dụng GnRH đối vận được
điều chỉnh theo sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Bệnh nhân cũng được sử
dụng FSH vào ngày 2 hoặc 3 của vòng kinh. Liều GnRH antagonist đầu
tiên được cho khi có nang lớn nhất 12 – 14 mm và/hoặc nồng độ estradiol >
400 ng/dL. Tuy nhiên không bắt đầu sử dụng thuốc trễ hơn ngày thứ 7 của

KTBT hoặc không trễ hơn thời điểm có nang 14 mm (khi đó LH bắt đầu
tăng, sự chọn lọc nang trội xảy ra, FSH giảm và androgen tăng làm các
nang khác đáp ứng kém với KTBT, từ đó thu được ít trứng và chất lượng
trứng kém hơn).

Antagonist

FSH

N2/N3
vòng kinh

Ngày 6
của FSH

nagn

Tiêm hCG

Chọc hút
noãn

Chuyển
phôi


15

Hình 1.4. Sơ đồ phác đồ antagonist cố định [25]


1.5. HỘI CHỨNG QUÁ KÍCH BUỒNG TRỨNG
Hội chứng quá kích buồng trứng là biến chứng nghiêm trọng nhất của
kích thích buồng trứng trong điều trị vô sinh. Hội chứng quá kích buồng trứng
thường xảy ra vài ngày sau khi tiêm thuốc kích thích rụng trứng (hCG) trong các
chu kỳ có kích thích buồng trứng bằng clomiphene citrate hay gonadotropin, có
hay không có phối hợp với GnRH đồng vận hay đối vận [26].
Hội chứng quá kích buồng trứng là tình trạng hai buồng trứng bị kích
thích quá mức khi dùng các thuốc kích thích buồng trứng làm cho 2 buồng
trứng căng to, các noan noãn phát triển nhiều, nồng độ E2 tăng cao, và bệnh
cảnh của tràn dịch đa màng [27],[28].
1.5.1. Cơ chế bệnh sinh
Sự hiện diện của buồng trứng và hCG là 2 yếu tố bắt buộc vì sẽ không có
hội chứng quá kích buồng trứng khi cắt bỏ 2 buồng trứng hay khi không có sự
hiện diện của hCG. Human chorionic gonadotropin thường được sử dụng để
kích thích rụng trứng thay cho LH trong điều trị vô sinh. So với LH nội sinh,
hCG có thời gian bán hủy dài hơn (> 24 giờ so với 60 phút của LH). Thời gian
có tác dụng của hCG có thể kéo dài đến 6 ngày. Liều hCG sử dụng cho kích
thích rụng trứng có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng sớm và hCG từ


16

một thai kỳ tiến triển có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng muộn hay
làm kéo dài và nặng hơn ở những bệnh nhân đa thai so với đơn thai.
Cơ chế sinh lý bệnh của hội chứng này là sự chế tiết quá mức của các
chất trung gian gây viêm, làm tăng tính thấm thành mạch. Tràn dịch vào các
khoang cơ thể, nếu không được điều trị kịp thời dẫn đến giảm tưới máu thận,
làm thiểu niệu, mất cân bằng điện giải, toan máu, nặng hơn là tình trạng cô
đặc máu. Mặt khác giảm thể tích lòng mạch làm tụt huyết áp, giảm áp lực tĩnh
mạch trung tâm dẫn đến tắc mạch [29].

 Vai trò của yếu tố phát triển nội mạch (VEGF – Vascular endothelial
growth – factor):
Yếu tố nội mạch có tác dụng kích thích sự phát triển của mạch máu mới
là yếu tố quyết định trong tăng tính thấm thành mạch khi tương tác với thụ thể
VEGF – 2. Yếu tố phát triển nội mạch là chất trung gian tạo mạch phụ thuộc
hCG. Người ta nhận thấy, khi tiêm hCG tế bào hạt đã được hoàng thể hóa chế
tiết nhiều VEGF hơn, và tăng tiết VEGF ở các tế bào nội mô mạch tăng lên
làm tăng tính thấm thành mạch, gây nên bệnh cảnh của tràn dịch đa màng.
Dấu hiệu lâm sàng của QKBT: gồm các triệu chứng của tình trạng
thoát dịch ra khoang thứ ba và giảm thể tích lòng mạch: tụt huyết áp, giảm áp
lực tĩnh mạch trung tâm, nhịp tim nhanh. Bụng căng đau do dịch báng và
buồng trứng lớn. Có thể có biểu hiện suy hô hấp, rối loạn đông máu, rối loạn
chức năng gan thận và dẫn đến tử vong nếu không điều trị hiệu quả.
 Hội chứng quá kích buồng trứng theo thời gian xuất
hiện phân thành 2 loại:
- Hội chứng quá kích buồng trứng sớm xảy ra trong vòng 7 ngày sau
tiêm hCG


17

- Hội chứng quá kích buồng trứng muộn xảy ra từ ngày 12 - 17 sau tiêm
hCG do hCG nội sinh sản xuất từ nhau thai.
Nếu bệnh nhân có thai trong chu kỳ điều trị, các triệu chứng của QKBT
sẽ nặng nề hơn.

Hình 1.5. Sơ đồ tóm tắt cơ chế bệnh sinh QKBT [29]
1.5.2. Các yếu tố nguy cơ
- Bệnh nhân trẻ < 35 tuổi
- Bệnh nhân có buồng trứng đa nang

- Thể trạng gầy
- Tiền sử quá kích buồng trứng
- Số lượng nang noãn nhiều > 20 nang


18

- Hàm lượng estradiol > 3000 pg/ml.
- Nồng độ estradiol tăng nhanh trong quá trình kích buồng trứng
- Thụ thai trong chu kỳ điều trị
- Hỗ trợ pha hoàng thể bằng hCG.
1.5.3. Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng
1.5.3.1. Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng tiên phát:
- Xác định các yếu tố nguy cơ của hội chứng quá kích buồng trứng [30]
- Lựa chọn phác đồ kích thích buồng trứng phù hợp cho từng bệnh nhân
1.5.3.2. Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng thứ phát
- Hủy chu kỳ điều trị [31]
- Coasting (Ngưng sử dụng FSH vài ngày trước khi cho kích thích rụng
trứng) [32],[33].
- Sử dụng Albumin truyền tĩnh mạch vào ngày chọc hút trứng [34].
- Trữ phôi toàn bộ: Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng muộn [35].
- Sử dụng các chất thay thế hCG trong kích thích rụng trứng: GnRHa [36]
1.6. GnRH AGONIST GÂY TRƯỞNG THÀNH NANG NOÃN THAY
THẾ hCG DỰ PHÒNG HCQKBT TRÊN BỆNH NHÂN KÍCH THÍCH
BUỒNG TRỨNG BẰNG PHÁC ĐỒ ANTAGONIST
1.6.1. Tác dụng gây trưởng thành nang noãn và dự phòng HCQKBT của
GnRH agonist
GnRH agonist vào cơ thể sẽ gắn với các receptor của GnRH của tuyến
yên và kích thích tuyến yên giải phóng ra FSH và LH (hiệu ứng flare - up). Tác
dụng này đạt cao nhất vào pha noãn. Sau đó khi sử dụng GnRH agonist kéo dài

từ một đến hai tuần thì sẽ đạt được tác dụng ức chế tuyến yên, do thuốc làm
giảm số lượng các receptor của GnRH (điều hòa giảm down regulation) dẫn tới
giảm hàm lượng FSH và LH.


19

Nhờ hiệu ứng flare – up của GnRH agonist kích thích tuyến yên giải
phóng LH nội sinh, sinh lý mà có thể sử dụng GnRHa để thay thế hCG gây
trưởng thành nang noãn trên bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng
phác đồ GnRH antagonist. GnRH agonist chỉ có tác dụng gây trưởng thành
nang noãn trên phác đồ GnRH antagonist vì với phác đồ kích thích buồng
trứng bằng GnRH agonist (dài, ngắn) tuyến yên đã bị trơ hóa do tác dụng điều
hòa giảm thụ thể (down regulation) của GnRH agonist nên không còn khả
năng tiết ra FSH, LH nữa.
Việc kích thích tuyến yên giải phóng LH nội sinh với thời gian bán hủy
ngắn (60 phút) của GnRH agonist so với hCG (> 24 giờ) đã làm triệt tiêu gần
như hoàn toàn HCQKBT.
Để tìm ra liều GnRH agonist gây trưởng thành nang noãn thích hợp
Vương Ngọc Lan và cộng sự (2016) đã tiến hành nghiên cứu trên 165 ca chia
làm 3 nhóm, nhóm thứ nhất được gây trưởng thành noãn bằng 0,2 mg
triptorelin; nhóm thứ hai nhận liều 0,3 mg triptorelin; nhóm thứ ba nhận liều
0,4 mg triptorelin. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa 3 nhóm về số
lượng noãn MII (16.0 ± 8.5, 15.9 ± 7.8 và 14.7 ± 8.4 tương ứng) và chất
lượng phôi (16.0 ± 8.5, 15.9 ± 7.8 và 14.7 ± 8.4 tương ứng) [36].
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 0,2 mg Diphereline để gây
trưởng thành nang noãn so sánh với nhóm dùng rhCG.
1.6.2. Tác dụng không mong muốn khi gây trưởng thành nang noãn bằng
GnRH agonist
Vấn đề cần quan tâm nhất trong gây trưởng thành nang noãn bằng GnRH

agonist là khiếm khuyết giai đoạn hoàng thể do trong chu kỳ thai tự nhiên sự
gia tăng nồng độ LH nội sinh bao gồm 3 pha với tổng thời gian 48 giờ, còn
trong chu kỳ trưởng thành nang noãn bằng GnRHa sự gia tăng nồng độ LH chỉ
có 2 pha với tổng thời gian từ 24 – 36 giờ làm giảm đáng kể nồng độ LH. Mặt


20

khác, sau trưởng thành nang noãn bằng GnRHa mức độ lưu hành của
progesterone và estradiol thấp hơn đáng kể trong suốt giai đoạn hoàng thể so với
những chu kỳ được gây trưởng thành noãn bằng hCG do thời gian bán hủy của
LH nội sinh thấp (60 phút) so với hCG (>24 giờ) điều này dẫn đến giảm tỷ lệ
làm tổ và tỷ lệ thai lâm sàng nếu chuyển phôi tươi trong chu kỳ đó [6].
Youssef (2010) tiến hành một nghiên cứu gộp 11 nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng so sánh tác dụng gây trưởng thành noãn
của GnRHa với hCG trên bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng phác
đồ antagonist. Kết quả cho thấy tỷ lệ thai diễn tiến 30% ở nhóm hCG, tỷ lệ
này ở nhóm GnRHa từ 12% đến 22% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Tác giả khuyến nghị không nên dùng GnRHa gây trưởng thành noãn
thường quy mà chỉ nên dùng với nhóm đối tượng có nguy cơ cao với hội
chứng quá kích buồng trứng [37].
Để khắc phục nhược điểm khiếm khuyết giai đoạn hoàng thể có 3 phác
đồ được đưa ra: (1) Tăng cường hỗ trợ hoàng thể; (2) Bổ sung 1.500 IU hCG
vào ngày chọc hút noãn; (3) Trữ lạnh toàn bộ noãn hoặc phôi và chuyển phôi
đông lạnh ở các chu kỳ sau.
1.6.3. Một số nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới về hiệu quả dự
phòng hội chứng quá kích buồng trứng bằng phương pháp gây trưởng
thành nang noãn bằng GnRH agonist
1.6.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới
 Nghiên cứu của J-Itskovitz – Eldor; S.kol và B.Mannaert (2000)

Nghiên cứu này sử dụng một liều duy nhất GnRHa thay thế hCG kích
hoạt trưởng thành noãn trên 8 bệnh nhân có nguy cơ cao bị hội chứng quá
kích buồng trứng (số nang noãn >20 nang ≥11mm và/ hoặc Estradiol huyết
thanh ít nhất là 3000 pg/ml) đã được kích thích buồng trứng bằng phác đồ


21

GnRH antagonist. Chọc hút noãn sau 35 giờ, hỗ trợ hoàng thể bằng 50 mg
progesterone tiêm bắp và 2 mg estradiol đường uống hàng ngày.
Kết quả: Vào ngày gây trưởng thành nang noãn bằng GnRHa, số lượng
trung bình của các nang ≥ 11 mm là 25,1 ± 4,5 và nồng độ E2 huyết thanh
trung bình là 3675 pg/ml (khoảng 2980 - 7670). Số lượng tế bào trứng trung
bình thu được là 23,4 ± 15,4 trong đó 83% là số noãn trưởng thành (MII), 1
bệnh nhân bị hội trứng nang rỗng, 7 bệnh nhân có số lượng phôi trung bình
thu được là 15,4 ± 6,6 cho mỗi bệnh nhân trong đó có 88 phôi tốt, 7 phôi tươi
được chuyển cho 6 bệnh nhân, số còn lại đông phôi, không có bệnh nhân nào
có dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng quá kích buồng trứng. Nghiên cứu
cho thấy hiệu quả cao của GnRH agonist gây trưởng thành nang noãn và
phòng chống được hội chứng quá kích buồng trứng trên những bệnh nhân có
nguy cơ cao bị hội chứng quá kích buồng trứng đã sử dụng phác đồ GnRH
antagonist [38].
 Nghiên cứu của L. Newit; S.Kol, D.Manor và J-Itskovitz (1996)
Đây là một nghiên cứu hồi cứu so sánh giữa GnRHa và hCG. 16 bệnh
nhân được gây trưởng thành nang noãn bằng hCG có hội chứng quá kích
buồng trứng nặng trong chu kỳ trước sẽ được gây trưởng thành nang noãn
bằng GnRHa trong chu kỳ tiếp theo.
Kết quả: không gặp ca nào quá kích buồng trứng nặng ở nhóm GnRHa.
Việc sử dụng GnRHa không ảnh hưởng đến số lượng noãn và chất lượng noãn
được hút ra, tỷ lệ mang thai trong mỗi chu kỳ là như nhau ở hai nhóm. Nghiên

cứu cho thấy: sử dụng GnRHa để gây rụng trứng ở những bệnh nhân thụ tinh
trong ống nghiệm trên những bệnh nhân có nguy cơ cao với hội chứng quá
kích buồng trứng có thể loại bỏ được nguy cơ quá kích buồng trứng mà không
ảnh hưởng đến thông số khác của chu kỳ kích thích [39].


22

Những nghiên cứu trên cho thấy tăng cường hỗ trợ hoàng thể cho chu kỳ
trưởng thành nang noãn bằng GnRHa khắc phục được khiếm khuyết giai đoạn
hoàng thể làm tăng tỷ lệ làm tổ của thai tương đương với nhóm hCG, tuy nhiên
những nghiên cứu trên còn hạn chế ở số lượng bệnh nhân cho mỗi nghiên cứu
nhỏ, cần tiến hành trên một số lượng bệnh nhân lớn hơn và vẫn tiềm ẩn nguy cơ
của hội chứng quá kích buồng trứng muộn nếu chuyển phôi tươi.
 Nghiên cứu của Radesic B và cộng sự (2010)
Radesic B đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu với 71 bệnh nhân có
nguy cơ cao với hội chứng quá kích buồng trứng được gây trưởng thành noãn
bằng GnRHa và bổ sung 1500 IU hCG vào ngày chọc noãn, kết quả tỷ lệ có
thai sinh hóa: 60,6%; tỷ lệ có thai lâm sàng: 52,1% trong đó có 1 ca đã phải
nhập viện với hội chứng quá kích buồng trứng nặng [40].
 Nghiên cứu của Shapiro BS (2011)
Đây nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân chuyển phôi tươi sau khi trưởng
thành noãn bằng GnRHa, một nhóm trưởng thành nang noãn bằng GnRHa và
tăng cường hỗ trợ hoàng thể bằng progesterone và estradiol với một nhóm gây
trưởng thành noãn bằng GnRHa và hỗ trợ hoàng thể bằng liều thấp hCG. Tỷ lệ
mang thai được tăng lên đáng kể với hỗ trợ hoàng thể bằng hCG, tuy nhiên tỷ lệ
mắc hội chứng quá kích buồng trứng là 0,0% ở nhóm chỉ nhận GnRHa và 0,5%
(1/182) ở những bệnh nhân với GnRHa đồng thời với liều thấp hCG [41].
Nghiên cứu của Radesic B và Shapiro cho thấy bệnh nhân vẫn có nguy
cơ quá kích buồng trứng khi bổ sung liều thấp hCG để tăng cường hỗ trợ

hoàng thể cho phác đồ gây trưởng thành nang noãn bằng GnRH agonist.
1.6.3.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam

 Nghiên cứu của Giang Huỳnh Như, Giang Ngọc Lan (2012):


23

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng GnRHa thay thế hCG cho những
bệnh nhân có nguy cơ cao HCQKBT để khởi động trưởng thành noãn ở
những chu kỳ sử dụng phác đồ GnRH antagonist.
Đây là nghiên cứu tiến hành trên 33 bệnh nhân. Các bệnh nhân được
KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận. Vào ngày tiêm hCG những bệnh nhân có
số nang noãn > 20 nang kích thước ≥ 15mm và nồng độ E2 > 10000pg/mL
được dùng 0, 2mg triptorelin thay cho hCG để kích thích trưởng thành noãn.
Chọc hút noãn tiến hành 36 tiếng sau triptorelin. Chuyển phôi tiến hành 48
tiếng sau chọc hút noãn. Hỗ trợ giai đoạn hoàng thể với progesterone đường
âm đạo và tiêm bắp, estradiol uống từ ngày chọc hút noãn.
Kết quả: Có 33 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu. Số trứng chọc hút
được là 20,27 ± 6,56. Tất cả bệnh nhân đều được chuyển phôi tươi. Tỉ lệ làm
tổ là 18,61%. Tỉ lệ thai lâm sàng và sẩy thai lần lượt là 45,5% (15/33) và
6,06% (2/33). Không có bệnh nhân nào có HCQKBT [4].
Nghiên cứu này chỉ ra rằng: Sử dụng GnRHa để kích thích trưởng thành
noãn trong phác đồ GnRH antagonist an toàn và hiệu quả trong dự phòng
HCQKBT mà không ảnh hưởng đến kết quả TTTON.

 Nghiên cứu của Lê Việt Hùng, Lê Viết Nguyên Sa (2015)
Phương pháp nghiên cứu: 140 phụ nữ thực hiện chu kỳ GnRH
antagonist để thụ tinh trong ống nghiệm tại đơn vị hỗ trợ sinh sản – thụ tinh
trong ống nghiệm, bệnh viện Trung ương Huế được đưa vào nghiên cứu.

Bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm A (nhóm nghiên cứu, n = 71) được
khởi động trưởng thành noãn bằng hCG 1500IU + triptorelin và nhóm B
(nhóm chứng, n = 69) được khởi động trưởng thành nang noãn bằng duy nhất
hCG 5000 IU. Phân tích thống kê bằng T – test, chi – square với mức ý nghĩa
thống kê p < 0,05
Kết quả: các thông số về phôi học bao gồm số lượng noãn trưởng thành, tỉ
lệ thụ tinh, số lượng phôi chất lượng tốt cao hơn không có ý nghĩa thống kê ở


24

nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ ó thai sinh hóa, tỉ lệ có thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ được
cải thiện ở nhóm nghiên cứu nhưng không có ý nghĩa thống kê. Không có một
trường hợp nào bị quá kích buồng trứng nặng ở nhóm nghiên cứu so với 3 ca
(4,3%) phải nhập viện điều trị vì quá kích buồng trứng ở nhóm chứng.
Tác giả đưa ra kết luận: khởi động trưởng thành noãn bằng GnRH
agonist phối hợp hCG liều thấp trong các chu kỳ kích thích buồng trứng bằng
phác đồ antagonist cải thiện tỉ lệ có thai và giảm nguy cơ quá kích buồng
trứng nặng nhưng cần phải được kiểm chứng qua nhiều thử nghiệm với cỡ
mẫu lớn hơn [42].

 Tại trung tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia, bệnh viện Phụ sản Trung ương
Đây là nghiên cứu đầu tiên dùng GnRHa để gây trưởng thành nang noãn
ở bệnh nhân có nguy cơ cao với hội chứng quá kích buồng trứng được KTBT
bằng phác đồ antagonist
1.7. ĐÔNG PHÔI TOÀN BỘ VỚI BỆNH NHÂN CÓ NGUY CƠ CAO
VỚI HỘI CHỨNG QUÁ KÍCH BUỒNG TRỨNG ĐƯỢC GÂY
TRƯỞNG THÀNH NOÃN BẰNG GnRH AGONIST
HCQKBT muộn xảy ra do hCG do thai tiết ra. HCQKBT muộn thường
nặng và kéo dài hơn do hCG tăng nhiều và kéo dài. Sau khi chọc hút noãn và

thụ tinh trong ống nghiệm để tạo phôi, có thể đông lạnh toàn bộ phôi để giảm
nguy cơ HCQKBT muộn. Các phôi sẽ được rã đông và cấy vào tử cung các
chu kỳ sau đó. Nhược điểm của phương pháp này là tỉ lệ làm tổ của phôi có
thể giảm sau rã đông và bệnh nhân phải tốn thời gian và chi phí cho chu kỳ
chuyển phôi đông lạnh. Đông lạnh phôi bằng thủy tinh hóa ra đời giúp tăng tỉ
lệ sống và tỉ lệ làm tổ phôi sau rã đông, từ đó làm tăng tỉ lệ thành công của
chuyển phôi đông lạnh.


25

Việc kết hợp của gây trưởng thành noãn bằng GnRH agonist kết hợp với
đông phôi toàn bộ đem lại hiệu quả cao trong dự phòng HCQKBT trên bệnh
nhân được kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist và được
nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và áp dụng.
Nghiên cứu của Paul Atkitson [2014]
Đây là một nghiên cứu hồi cứu của tất cả phụ nữ khám vô sinh tại IVF
Australia Sydney, được kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH
antagonist, được gây trưởng thành noãn bằng GnRH agonist và đông lạnh tất
cả phôi. Mục đích chính để xác định tỷ lệ hội chứng quá kích buồng trứng
(OHSS) và tỷ lệ thụ thai lâm sàng. Kết quả thu thập dữ liệu cho thấy không có
trường hợp nào bị hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) sớm và muộn. Tỷ
lệ có thai là 31,7% sau khi chuyển phôi chu kỳ đông lạnh đầu tiên, tỷ lệ có
thai tích lũy sau 2 lần chuyển phôi đông lạnh là 50%. Nghiên cứu này ủng hộ
giả thuyết rằng GnRH đồng vận gây trưởng thành nang noãn và đông lạnh
toàn bộ là các phương pháp ngăn ngừa hội chứng quá kích buồng trứng với
một tỷ lệ mang thai tốt [10].



×