Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.27 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa xã
hội khoa học, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với dân
tộc ta, sự nghiệp dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của dân tộc trong trường
kỳ lịch sử suốt mấy nghìn năm. Sự nghiệp ấy chỉ được thắng lợi khi dân tộc ta
một lòng chống giặc giữ nước, khi mọi người cùng quyết tâm chiến đấu với thiên
nhiên xây dựng đất nước. Trong quá khứ, những “vua sáng, tôi hiền” sở dĩ làm
nên sự nghiệp lớn chính là vì hiểu được cái chân lý “lấy dân làm gốc, dân là dân
nước, nước là nước dân”, “đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, vì
vậy phải thực hiện “thân dân”, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rể bền gốc”.
Quả thật không có dân làm gốc thì Việt Nam cũng không thể tồn tại và phát triển
như ngày nay. Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước luôn coi đại đoàn kết dân tộc là
đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc luôn là mối
quan tâm hàng đầu của nước ta nói riêng và cũng là toàn thể mọi quốc gia trên
thế giới nói chung. Với tinh thần đó qua việc tiếp cận những kiến thức quý báu
của quý thầy, cô trong quá trình học tập tác giả mạnh dạn chọn đề tài “ Vấn đề
dân tộc và thực hiện chính sách dântộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
để nghiên cứu. Hi vọng qua đề tài nàybản thân tác giả và quý độc giả có thêm sự
hiểu biết về vấn đề dân tộc ở nước ta và những chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảngvà nhà nước trong giải quyết vấn đề dân tộc, xây đựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và mảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Tuynhiên do khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi
những thiếu sót mong quý thầy, cô cùng bạn đọc quan tâm góp
NỘI DUNG


Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của
Đảng cộng sản
1.1. Dân tộc và hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc


1.1.1.Khái niệm dân tộc và đặt trưng cơ bản của dân tộc
Khái niệm dân tộc:
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Nghĩa thứ nhất: dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặc chẽ và bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù, xuât hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc
người ở bộ tộc, bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cưa
cộng đồng đó.
Nghĩa thứ hai: dân tộc là cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, có quốc gia, có nên kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có
ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung cho suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhât, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai,
dân tộc là toàn thể nhân dân của quốc gia đó_Quốc gia dân tộc. Dưới góc độ
môn chử nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Tuy
nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối quan hệ với nghĩa thứ hai
thì sắc thái nội dung của nó mới được bộc lộ đầy đủ.
- Đặc trưng của dân tộc:
Dân tộc thường được nhận biết thông qua 4 đặc trưng chủ yếu sau đây:
Dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế:
Một dân tộc trong các tập thể của nhân loại muốn tồn tại cần có mối quan
hệ với nhau về mặt kinh tế, tức là có chung một phương thức sinh hoạt kinh thế.
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Bơi các mối quan hệ kinh tế là cơ
sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc
của cộng đồng dân tộc.
Mỗi dân tộc có một lãnh thổ riêng cho mình:



Lãnh thổ là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện của bất kì một tộc người
nào. Mỗi dân tộc luôn luôn có sự thăng trầm trong lịch sử. Các dân tộc mạnh thì
luôn có khái niệm phải mở rộng lãnh thổ để nâng cao sức mạnh, các dân tộc yếu
và nhỏ thì luôn cố gắng bảo vệ lãnh thổ của mình. Dân tộc có thể cư trú tập trung
trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc
anh em. dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ
đất nước.
Mỗi dân tộc có một thứ ngôn ngữ riêng biệt:
Ngôn ngữ là công cụ cơ bản cho sự giao tiếp của các cá nhân bao gồm một
tộc người phù hợp, phân định họ với đại bộ phận các tộc người khác. Nói cách
khác ngôn ngữ là dấu hiệu để người ta phân biệt các dân tộc khác nhau.
Như một qui tắc, tất cả thành viên gắn bó với nhau trong một tộc người thì
cùng nói một thứ tiếng gọi là tiếng mẹ đẻ. Nhưng điều đó không có nghĩa là trên
thế giới có bao nhiêu tộc người thì có bấy nhiêu ngôn ngữ.
Thực tế, có nhiều ngôn ngữ của tộc người khác lại sự dụng với tư cách là
ngôn ngữ tộc người. Có một số ngôn ngữ được nhiều bộ phận cư dân sử dụng
với tư cách là ngôn ngữ tộc người mặc dù họ là những tộc người riêng biệt và
sống ở các quốc gia khác nhau, bên cạnh đó cũng có các dân tộc mà các nhóm
riêng biệt của nó lại nói những thứ tiếng khác nhau.
Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng và cũng có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở
ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực.
Mỗi dân tộc có một tâm lý riêng: Nét tâm lý dân tộc biểu hiện kết tinh trong
nên văn hóa dân tộc (thể hiện qua lối sống, phong trào, tập quán, tín ngưỡng..) và
tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cộng
đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc
trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó với nhau, đồng thời
mỗi đặc trưng có một vị trí xác định, làm cho những nhân tố tộc người đan kết,
hòa quyện vào các nhân tố xã hội.



1.1.2.Hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc và biểu hiện trong
thời đại ngày nay:
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ
nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát
triển các dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà
các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập.
Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào dấu tranh chống áp
bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác
động nổi bật trong giai đoạn của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiểu quốc gia muốn liên kết lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động nổi
bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất
của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản
đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên
mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau.
Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp
nhiều trở ngại, vì nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập tự do bị chính
sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ.
Vì vậy chủ nghĩa Mác_Lênin cho rằng: chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã
hội, khi chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức,
đô hộ các dân tộc khác mới bị xóa bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của
sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin đang phát
huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất đa dạng và phong
phú.
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:



Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng
chều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng
quốc gia và đến tất cả các mối quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh bởi
vì: nó sẽ tạo điều kiện cho dân tộc đó có thêm điều kiện vật chất tinh thần để
hợp tác chặc chẽ hơn với các dân tộc anh em, đồng thời nó cho phép mỗi dân tộc
không chỉ sử dụng tiềm năng của các dân tộc mình mà còn sử dụng gắn kết hữu
cơ với tiềm năng của các dân tộc anh em trong một nước để tiến lên phía trước.
Sự xích lại gần nhau của các dân tộc trong cùng một quốc gia có nghĩa là những
tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó thâm nhập vào nhau, bổ sung cho
nhau, hòa nguyện vào nhau để tạo thành những giá trị chung. Tuy nhiên, sự hòa
nguyện đó không xóa bỏ bản sắc của từng dân tộc, không xóa bỏ những đặc thù
dân tộc, ngược lại, nó bảo lưu , gìn giữ và phát huy những tinh hoa, bản sắc của
từng dân tộc. Trong chế dộ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại trừ
các tư tưởng và hành vi kì thị dân tộc, chia rẻ dân tộc, tự ti dân tộc, dân tộc hẹp
hòi, xung đột dân tộc. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với cũng
cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên nước ta. Sự tăng cường tính cộng
đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp qui luật, nhưng tính cộng đồng tính
thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản
sắc của mỗi dân tộc”.
Mọi sự vi phạm quan hệ biện chứng giữa hai xu hướng khách quan nêu trên
đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan
thể hiện nổi bật:
Thời đại hiện nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ ách
đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy quyền tự quyết định vận mệnh của dân
tộc mình, bao gồm quyền tự chọn chế độ chính trị và con đường phát triển dân



tộc, quyền được bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục
tiêu chính trị chủ yêu của thời đại_ mục tiêu độc lâp dân tộc_là xu hướng khách
quan, là chân lí thời đại, là sức mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển cả
mỗi nên dân tộc, sẽ làm tiêu tan tất cả nhưng cản trở nó.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau để trở lại
hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành
trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức mạnh hút các dân tộc vào các liên minh
được hình thành trên cơ sở lợi ích chung nhất định. Các dân tộc có những lợi ích
mang tính khu vực, dựa trên những yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về một
số giá trị văn hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung bên ngoài.
Nhận thức rõ điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính sách
độc lập tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại đồng
thời phải tìm được giải pháp hữu hiệu để gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc mình.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phòng trào dân tộc
trong thời đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định: “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi
với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”. là
nguyên tác thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
1.2. Nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng cộng sản:
Nội dung cương lĩnhdân tộc của Đảng cộng sản dựa trên cơ sở:Tư tưởng
của C.mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh
của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Ngavà phân tích sâu sắc hai xu
hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản, nhất là khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng cộng sản với
nội dung sau:
1.2.1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đó là quyền thiêng liêng của các dân tộc (kể cả cá cộng đồng bộ tộc) trong

mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn được bình đẳng có nghĩa là


các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ
phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân
tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật
pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống sự kì thị dân tộc, chống sự tự ti dân tộc, nêu
cao lòng tự hào dân tộc, chống sự áp bức, bóc lột của nước tư bản chủ nghĩa đối
với các nước kém phát triển.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở dể thực hiện quyền
dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
1.2.2. Các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các
dân tộc. Thực chất quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ mỗi dân tộc, quyết
định đối với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do
độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của dân
tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược tự bên ngoài,
giữ vững độc lập chủ quyền và có thềm những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển quốc gia dân tộc.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, có quan điểm biện chứng, ủng hộ những phong
trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của các
thế lực để quốc và phản động can thiệt vào công việc nội bộ của các nước, giúp

đở các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi li
khai và đòi đi vào quỉ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.


1.2.3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, là tư tưởng chủ đạo, nội dung cơ bản trong
cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, phản ánh mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, phản ánh sự
thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp.
Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc qui định mục tiêu hướng đến, đường
lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình
đẳng dân tộc. Đồng thời là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và
các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình
Đoàn kết, Liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp nông dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong công cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
C.Mác và Anwgghen đã khẳng định rằng: xóa bỏ nạn người bóc lột người
thì nạn dân tộc này đi áp bức dân tộc khác sẽ không còn nữa, khi mâu thuẫn giai
cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch trong các dân tộc cũng
theo đó mất đi.
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính
sách dân tộc của Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là một trong
những vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc sẽ
tạ ên sức mạnh to lớn, bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



Chương 2. Thực trạng của vấn đề dân tộc ở Việt Nam và chính sách
dân tộc của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
2.1.Đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Xuất phát từ đặc thù riêng đó là chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm,
các cộng đồng người ở Việt Nam đã tự nguyện cố kết nhau lại, trở thành truyền
thống đoàn kết, gắn bó từ lâu. Sự cố kết đó đã hình thành những đặc điểm riêng
của dân tộc Việt Nam
.2.1.1. Dân tộc Việt Nam là đại gia đình 54 dân tộc anh em.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh
chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rãi rác trên địa
phận cả nước. Trong đó:
Có 10 dân tộc có dân số từ 100 ngàn đến dưới 1 triệu người đó là: Tầy,
Nùng, Thái, Mường, Khơ me, Mông, Dao, Gia rai, Bana, Ê đê.
Có 20 dân tộc có dân số dưới 100 ngàn người.
Có 16 dân tộc có dân số từ 1 ngàn đến dưới 10 ngàn người.
Có 6 dân tộc có dân số dưới 1 ngàn người: Cống, Sila, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ
Đu, Brâu.
2.1.2. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Đây là đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta. Trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam nhiều đân tộc có chung cội nguồn, cũng có dân tộc
khác nhau về nguồn gốc lịch sử như: La Hủ, Lô Lô, Vân Kiều, Sán Dùi… Song
dù cùng hay không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lí,
phong tục, tập quán…thì đều là người trong một nước, con trong một nhà, vận


mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau.

Là một nền nông nghiệp lúa nước, nằm ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi
song điều kiện tự nhiên cũng rất khắc nghiệt, hằng năm thường bị lũ lụt, hạn hán,
vì thế cư dân phải gắn kết lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây
dựng các hệ thống thủy lợi, đê điều nhằm bảo đảm cho sự phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỉ dựng nước và giữ nước, sư gắn bó trong lao động sản xuất
của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn đạo đức.
Bên cạnh đó, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc ngoại xâm vô cùng
oanh liệt. Đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm
liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực
thù địch hùng mạnh, hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân
tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đúng lên chống giặc, đánh thắng
quân xâm lược.
Chính nhờ truyền thống đoàn kết đó mà đất nước ta đã đạt được những
thành tựu rất to lớn và đáng tự hào, từ đó thấy được khối đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát
triển đất nước làm cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng tăng cường.
Tuy nhiên, bên cạnh sự đoàn kết là căn bản, có nơi vẫn xảy ra những va
chạm trong mối quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại
luôn luôn dùng thủ đoạn chia rẽ dân tộc và can thiệt vào nội bộ nước ta. Dó đó,
việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và
hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người
dân Việt Nam.
2.1.3.Các dân tộc Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn
chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như
một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng,
ven biển và trung du. Còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền


núi và vùng cao. Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, xen kẽ với

các dân tộc khác. Ở miền núi hầu như không có tỉnh huyện nào chỉ có một dân
tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới 20 dân tộc cư trú như: Lai Châu, Lào Cai… Phần
lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ nhau giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt
có điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hòa hợp và xích lại gần nhau, mặt
khác cần đề phòng trường hợp do chưa hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập
quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của
các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc cũng
như sự hỗ trợ giúp đỡ nhau, từ đó có thêm điều kiện đoàn kết và hòa hợp giữa
các dân tộc anh em.
2.1.4.Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng
núi, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi
trường sinh thái.
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm ¾ diện tịch
cả nước. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế, ngoài ra còn có vai trò
đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hòa khí
hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Thực
dân Pháp, Đế quốc Mỹ, các thế lực thù địch ngoài đều sử đựng địa bàn miền núi
để xâm lược, phá hoại đất nước ta. Vì vậy, hiện nay miền núi_biên giới là thành
lũy vững chắc của tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh tỏng
việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc các nước
láng giềng, nên quan khách có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn
hóa giữa các dân tộc hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Đảng và
nhà nước ta là vì lợi ích của cả nước, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về
chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.


2.1.5.Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ kinh tế - xã hội không đồng

đều.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân
tộc Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế không đồng đều. Các dân tộc sống ở
vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở
trình độ thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của người
dân dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, trình trạng nghèo kéo dài, thuốc chữa bệnh
khan hiếm, nạn mù chữ còn ở nhiều nơi. Đường giao thông và phương tiện đi lại
nhiều vùng rất khó khăn, điện nước phục vụ cho sản xuất đời sống nhiều vùng
còn rất thiếu, thông tin, bưu biện nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống,
nhất là vùng cao vùng xa xôi hẻo lánh.
Bên cạnh đó còn có nguyên nhân chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc
lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục đối phó với chiến
tranh xâm lược trong nhiều năm. Đây là nguồn gốc của sự không bình đẳng của
các dân tộc trong thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn
đấu tích cự, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ
chung.
2.1.6.Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng,
mỗi dân tộc anh em có giá trị và sắc thái văn hóa riêng.
Cùng với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc
đều có nền văn hóa mang bản sắc riêng từ lâu dài, phản ánh truyền thống, lịch sử
và niềm tự hào dân tộc. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn
ngữ, văn hóa, nghệ thuật, phong tục, tập quán,… được sáng tạo trong quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hóa mỗi dân tộc
cũng làm phong phú nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống
nhất trong đa dạng và nét riêng, độc đáo của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.


Xuất phát từ tình hình đặc điểm của dân tộc Việt Nam, Đảng và nhà nước ta
luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc xem xét nó như là vấn đề xã

hôi – chính trị rộng lớn, toàn diện gắn liền với các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2.Thực trạng của vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đến nay Đảng ta luôn luôn đánh giá
đúng đắn vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống
sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, Đảng đã có những chính sách dân
tộc phù hợp cho từng thời kì cách mạng ở Việt Nam.
Tầm quan trọng, vị trí của vấn đề dân tộc, trước hết xuất phát từ tầm quan
trọng, vị trí của các tộc người thiểu số - với tư cách là một bộ phận quan trọng
hợp thành động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng
đặt ra cho từng thời kì.
Hầu hết các kì Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt các văn kiện Đảng
trong thời kì đổi mới đã đề cao, coi trọng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc.
Trong văn kiện Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát triển về mọi mặt
của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên
đất nước ta.Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp
qui luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất ấy không mâu thuẫn, không bài
trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”.
Văn kiên Đại hội VIII của Đảng cũng chỉ rõ: “ vấn đề có vị trí chiến lược.
Thục hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi
mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vị trí, tầm quan trọng có ý nghĩa
chiến lược của vấn đề dân tộc đặc biệt được chú ý coi trọng những năm gần đây,
khi đời sống chính trị - xã hội diễn biến phức tạp, liên quan trực tiếp đến các
xung đột dân tộc, xung đột tôn giáo, can thiệp lật đỗ khủng bố.
Tầm quan trọng, vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc được đặt trong mối
quan hệ với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã sớm xác định xây dựng


khối đại đoàn kết dân tộc là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Khối đại đoàn kết của dân tộc của nước ta hiện nay như sau:
Phương hướng: “Đoàn kết bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc,
cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản
sắc tốt đẹp của dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta”.
Chủ trương cụ thể:
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù
hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào
các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các
dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm các hành vi miệt thị
và chia rẽ dân tộc.
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Trong thư gởi cho Đại hội đại biểu các dân tộc miền Nam, Bác viết: “Dân
tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân lí đó không bao giờ thay đổi”, “Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay
Dao, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là
con cháu Việt Nam, đề là anh em ruột thịt, chúng ta sống có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau”, không kẻ thù nào có thể chia rẽ, phá hoại được
khối đại đoàn kết mà ta đã xây dựng nên.
Vì vậy, Đảng ta quan điểm rằng: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn
đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của
cách mạng Việt Nam”.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những thành quả đạt được trong công
tác dân tộc, hàng loạt vấn đề liên quan đến quan hệ dân tộc được đặt ra: kinh tế ở
miền núi và các vùng dân tộc còn chậm phát triển, tập quan canh tác còn lạc hậu,



chất lượng, hiểu quả giáo dục còn thấp, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan
có xu hướng phát triển…nếu không có những biện pháp hữu hiệu thì sẽ không có
lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, vấn đề dân tộc ở nước ta đòi hỏi phải được xem
xét và giải quyết theo nhiều phương diện, đối nội và đối ngoại. Bởi vậy, một mặt
bản thân quan hệ dân tộc, di điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội đã rất
phức tạp, mặt khác, do vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc là vấn đề nhạy cảm liên
quan đến tâm lí, tình cảm của dân tộc, ý thức tự giác dân tộc, cho nên các thế lực
thù địch luôn luôn lợi dụng những khó khăn về đời sống của đồng bào các dân
tộc thiểu số, lợi dụng, khai thác những hạn chế, yếu kém của chúng ta trong thực
hiện chính sách dân tộc để kích động phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc, gây
mất ổn định chính trị, thực hiện “Diễn biến hòa bình”. Điển hình là cuộc xung
đột dân tộc Tây Nguyên ở miên Trung Việt Nam và tháng 2/2001, là sự kiện gây
náo động trong dư luận quốc tế. Đây là cuộc xuống đường phản đối của dân tộc
Tây Nguyên đòi trả tự do cho hai tín đồ Tin Lành người Giarai, đó là ông Rahlan
Pon và Rahlan huyện Chư Prong, với tội “kích động gây chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc” vì truyền bá giáo lí Tin Lành bằng thổ ngữ qua đài Chân Trời Mới
phát thanh từ Philippines, một đài mà chính quyền cộng sản tìm cách phá sóng
mà không được. Vì sao dân tộc Tây Nguyên theo đạo Tin Lành? Vì họ tìm được
sự an ủi tâm hồn trong đời sống còn khó khăn, còn thực tế là họ muốn nâng cao
mức sống và muốn được giúp đỡ vật chất như những mục sư Tin Lanh Mỹ trước
năm 1975 đã từng làm, vì theo đạo này só phận của họ sẽ không bị lãng quên.
Thực chất, việc xuống đường của dân tộc Tây Nguyên đòi trả tự do cho hai
tín đồ Tin Lành chỉ là cái cớ, nguyên nhân cụ thể là đời sống của người dân Tây
Nguyên đang trong tình trạng xuống cấp, nếu không muốn nói là đang trên bờ
vực tuyệt vọng. Bên cạnh về đời sống vật chất quá thiếu thốn thì điều mà người


gốc Tây Nguyên không được đó là sự khinh miệt của người Kinh. Ngoài ra,

nước ta còn có những cuộc xung đột dân tộc ở Tây Bắc, Nam Bộ…
Qua sự việc trên, Đảng và nhà nước ta cần phải đẩy mạnh thực hiện nhiệm
vụ xóa bỏ khoảng cách, chênh lệch trong phát triển và hưởng thụ thành quả về
kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Muốn thực hiện nhiệm vụ này, cần chú trọng
phát triển nâng cao sức sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước chính là tạo tiền đề cơ sở vật chất vững chắc cho việc
giải quyết vấn đề dân tộc tiến tới thực hiện tốt sự bình đẳng, tiến bộ và phát triển.
Mặc khác, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần XI của Đảng, cần
xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách và các chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi cho phù hợp với
thời kì mới. Đó cũng chính là việc làm thiết thực để cũng cố niềm tin của các dân
tộc thiểu số đối với Đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và là nhân tố quan trọng
để củng cố, nâng cao sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
2.3. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Chính sách dân tộc là một hệ thống những quan điểm chính sách của một
giai cấp, đại diện là chính đảng và nhà nước để giải quyết vấn đề dân tộc và mối
quan hệ giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách dân
tộc ở Việt Nam là cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước nhằm khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ đời sống nhân
dân các dân tộc, thực hiện từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xoá đói
giảm nghèo, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nguyên tắc cơ
bản: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Các nội dung đó


có quan hệ hữu cơ với nhau,tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống
nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Có bình đẳng thì mới thực
hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, thương yêu, tôn trọng giúp nhau cùng

phát triển thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc.
Chính sách dân tộc có các nội dung cụ thể phản ánh các yêu cầu, nhiệm vụ
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh- quốc phòng.
Về chính trị: nội dung cơ bản của chính sách dân tộc trong lĩnh vực chính
trị là thực hiện chủ trương của Đảng về bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích
cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu
số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục
tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới.
Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh
tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện định canh, định
cư, giao đất, giao rừng, phát triển kinh tế trang trại, chuyển giao công nghệ, trao
đổi kinh nghiệm và bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển kinh tê-xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ
địa cách mạng.


Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát
triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa
cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết
chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc .
Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia các khu vực và trên thế

giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư
tưởng- văn hóa ở nước ta hiện nay.
Về xã hội: thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng
thông qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm
nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chủ ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân
tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị-xã hội
ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Về an ninh quốc phòng, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú phần
lớn là vùng núi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có vị trí quan trọng về
quốc phòng, an ninh. Vì vậy chính sách dân tộc phải đảm bảo nội dung an
ninh, quốc phòng trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị,
thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng
toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.


Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển
toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh-quốc phòng các địa bàn
vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, rừng núi, hải đảo của tổ quốc.
2.4. Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu thực hiện chính
sách dân tộc ởnước ta hiện nay
2.4.1. Những quan điểm cơ bản
Đại hội XI (2011) nhấn mạnh: “Đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hội nghị ban
chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá IX và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ những quan điểm cơ bản sau:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;


giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo
vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính
trị.
2.4.2. Một số giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp,
các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình

hình mới. Xem việc quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước cho mọi cán bộ, đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi cho đồng
bào các dân tộc thiểu số.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc và miền núi ; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những


chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu
cầu phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn
mới.
Thứ ba, huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng
dân tộc và miền núi. Ưu tiên đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh
kinh tế - xã hội, giải quyết những khó khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc
và miền núi ; trước hết tập trung cho các vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện
nghiêm chỉnh việc công khai hóa các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư...
để đồng bào biết và tham gia quản lý, giám sát quá trình thực hiện.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ ở vùng dân tộc
và miền núi.
Thứ năm, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm
trước mắt, cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công
tác ở vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc
phòng ; coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ
quân sự làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở ; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn
tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng
dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng

cao.
Thứ sáu, kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm
công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường số lượng và chất
lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc để làm tốt công tác tham mưu cho cấp
ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Một số bộ,
ngành cần tổ chức bộ phận và có cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc.


Thứ bảy, tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm
thực hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân trong việc tham gia triển khai, thực hiện công tác dân tộc, chính sách
dân tộc. Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của
những người có uy tín trong đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân
tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,
vững chắc ; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc,
từng địa phương. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi phải quán triệt và
thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận : "Trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân, có trách nhiệm với dân".
Thực hiện các giải pháp nêu trên nhằm thúc đẩy phát triển kinh tê-xã hội,
từng bước nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc miền núi, góp phần phát triển
kinh tế-xã hội của cả nước. Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực hiện “Bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn
trọng và giúp nhau cùng tiến bộ,” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là một nhiệm vụ vô cùng quan trong nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.



KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và xây dựng chính sách dân tộc là những vấn đề có tính lý
luận và thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước ta. Phân tích quá trình phát triển nhận
thức, lý luận của Đảng ta về vấn đề dân tộc và kinh tế dân tộc trong thời kỳ đổi
mới khẳng định vị trí có ý nghĩa chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách
của công tác dân tộc hiện nay. Mặc khác, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện,
lịch sử cụ thể khi nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở
Việt Nam qua từng thời kì cách mạng, nhằm không ngừng củng cố, giữ vững và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và xây dựng chính sách dân tộc là những vấn đề có tính lý
luận và thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước ta. Phân tích quá trình phát triển nhận
thức, lý luận của Đảng ta về vấn đề dân tộc và kinh tế dân tộc trong thời kỳ đổi
mới khẳng định vị trí có ý nghĩa chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách
của công tác dân tộc hiện nay. Mặc khác, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện,
lịch sử cụ thể khi nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở
Việt Nam qua từng thời kì cách mạng, nhằm không ngừng củng cố, giữ vững và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT LUẬN


Vấn đề dân tộc và xây dựng chính sách dân tộc là những vấn đề có tính lý
luận và thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước ta. Phân tích quá trình phát triển nhận
thức, lý luận của Đảng ta về vấn đề dân tộc và kinh tế dân tộc trong thời kỳ đổi

mới khẳng định vị trí có ý nghĩa chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách
của công tác dân tộc hiện nay. Mặc khác, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện,
lịch sử cụ thể khi nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở
Việt Nam qua từng thời kì cách mạng, nhằm không ngừng củng cố, giữ vững và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và xây dựng chính sách dân tộc là những vấn đề có tính lý
luận và thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước ta. Phân tích quá trình phát triển nhận
thức, lý luận của Đảng ta về vấn đề dân tộc và kinh tế dân tộc trong thời kỳ đổi
mới khẳng định vị trí có ý nghĩa chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách
của công tác dân tộc hiện nay. Mặc khác, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện,
lịch sử cụ thể khi nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở


×