Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

CHẤT LƯỢNG cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã HUYỆN từ LIÊM THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.85 KB, 75 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của Công tác xây dựng Đảng. Vị trí
công tác cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [47, tr .269] “công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [47, tr. 273]. “Vì vậy huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [47, tr. 276]. Thấm nhuần tư tưởng của
người, trong suốt 84 năm qua Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công
tác cán bộ là những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, công tác cán
bộ luôn gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Xuất phát từ
vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng tới yêu cầu
xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC) nói
riêng, coi đây là vấn đề sống còn, liên quan đến sự tồn vong của chế độ, quyết
định toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định:
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng.
Cấp xã, phường là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong bộ máy chính quyền
được quy định trong Hiến Pháp 2013. CBCC cấp xã có vai trò rất quan trọng
trong tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế, xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư. Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương
khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn đã xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn là một trong ba
vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong đó yêu cầu


xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân


2

dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân không tham
nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán
bộ cơ sở [32, tr . 167-168].
Trong các năm gần đây, đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung và đội ngũ
CBCC cấp xã nói riêng đã có bước phát triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ
này vẫn bộc lộ những yếu kém về kiến thức, năng lực, trình độ, phương pháp tác
phong công tá, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng thậm chí va vấp, vi phạm
trong thực thi nhiệm vụ. Tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến một bộ
phận CBCC ở cấp xã suy thoái về phẩm chất đạo đức, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí…bị kỷ luật, thậm chí bị truy tố,
xét xử theo pháp luật. Những điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng; đồng thời đặt ra nhu cầu bức thiết phải đổi mới,
nâng cao chất lượng CBCC ở cấp xã trước tình hình hiện nay.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thủ đô Hà Nội và cùng với tốc độ đô
thị hóa nhanh, sự phát triển mạnh mẽ về công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn huyện
Từ Liêm, đặc biệt là việc chia tách, nâng cấp từ huyện Từ Liêm lên quận mới
Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm; việc nâng cấp, chia tách từ các xã lên phường đã
đặt ra hàng loạt nhiệm vụ nặng nề, phức tạp về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt, công tác xây dựng, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý đât đai, giải
phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển kinh
tế, văn hóa – xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, quản lý dân cư, đảm bảo an
ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội…
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trên thì huyện Từ Liêm cần có đội

ngũ CBCC nói chung và đội ngũ CBCC cấp xã nói riêng có đủ năng lực chuyên
môn vững vàng; phẩm chất đạo đức, phương pháp công tác tốt, nhạy bén năng
động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong tình hình mới.
Xuất phát từ đội ngũ CBCC hiện nay, vấn đề mấu chốt trong xây dựng
đảng; để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5,


3

khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” và từ chính thực tiễn của quá trình xây dựng và
phát triển huyện Từ Liêm hiện nay, tác giả chọn đề tài “Chất lượng cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn Thạc
sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung, CBCC nói riêng là nội dung được nhiều nhà
lãnh đạo, các cấp ủy Đảng và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. trong số
các bài viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài, công trình nghiên cứu, các luận
văn, luận án đã công bố, liên quan đến các vấn đề cán bộ; nhiều công trình, bài
viết đã có những đóng góp, lý giải và kiến nghị hết sức sâu sắc mang giá trị thực
tiễn cao, tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Côi: “Xây dựng cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ lịch sử, 2002; nội
dung đề cập đến luận cứ khoa học, cái nhìn thực tiễn, kinh nghiệm và đưa ra các
giải pháp nhằm xây dựng cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên trong tình hình hiện nay.
- Nguyễn Mậu Dựng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận án tiến sĩ Lịch sử, 2000, nội
dung đề cập đến các vấn đề lý luận, thực tiễn và đưa ra các giải pháp như

xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Thái
Nguyên hiện nay.
- Trần Duy Hưng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Lịch sử, 2002; nội dung luận văn đề cập lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò cán bộ; nghiên cứu chỉ ra ưu, khuyết điểm,
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cũng như các giải pháp để xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay.


4

- Đề tài cấp nhà nước KX 05 -11: “ Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo trong hệ thống chính trị đổi mới”, 1994 của Học viện Nguyễn Ái Quốc,
Hà Nội đã nghiệm thu đạt kết quả tốt và được in thành sách năm 1998, do PGS,
TS. Trần Xuân Sầm chủ biên; trong đó, tác giả đã nêu lên thực trạng, nguyên
nhân và những luận cứ khoa học và các giải pháp cơ bản để xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị.
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện Nguyễn
Ái Quốc: “Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị
chủ chốt cấp cơ sở”, 1992; Tiến sỹ Phan Văn Tích (chủ biên): “Xác định cơ cấu
và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)”, nhánh
đề tài KT-XH.05-11-06, 1993; Bùi Đình Phong: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài”, Tạp chí lý luận chính trị,
số 1/2003; Trần Văn Phòng: “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay” Tạp chí lý luận chính trị, số 5/2003…nhóm đề tài trên đã
khái quát chỉ ra cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã,
phường, thị trấn) đồng thời làm rõ thực trạng cũng như đề ra các yêu cầu để
nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.

- Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ
CBCC cấp cơ sở: Hồ Bá Thâm: “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, 1994, PGS, Tiến
sĩ Trần Xuân Sầm chủ biên: “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998; Phạm Công Khâm: “Xây dựng cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, 2000;
Vĩnh Trọng: “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở”, Tạp chí Xây dựng
Đảng số 1 và 2/2004; Trần Trung Thực: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
hiện nay” Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005… nhóm đề tài trên đã tập


5

trung làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng và nội dung, phương pháp, cách thức xây
dựng đội ngũ CBCC ở cấp cơ sở đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.
- Phan Thị Thúy Vân: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở
thành phố cần thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ khoa
học chính trị, 2005; tác giả đã nghiên cứu, chỉ rõ lý luận Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, luận bàn về vai trò đội ngũ cán bộ, chỉ ra thực trạng,
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thực
tiễn ở địa phương.
- Sách “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô”, 2013, do TS. Cao Khoa Bảng chủ biên, trong đó tác
giả đã làm rõ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ diện Ban Thường
vụ Thành ủy Hà Nội quản lý; đồng thời đề cập đến thực trạng, nguyên nhân, kinh
nghiệm bước đầu và một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ diện Ban
Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong thời gian tới.

Từ nhiều góc độ, các công trình trên đã đề cập ở mức độ khác nhau về
chất lượng CBCC cấp xã, phường. Song chưa có công trình nào được nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống và đề cập cụ thể đến về chất lượng
CBCC cấp xã khi mà thực tiễn đã phát triển ở huyện Từ Liêm sau khi nâng cấp
và chia tách thành hai quận mới: Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm từ đó đưa ra
những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này đáp
ứng yêu cầu cao tình hình thực tiễn đặt ra. Tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài
này trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình trên nhằm hệ thống lại những
kiến thức đã học và đóng góp một phần nhỏ bé để giải quyết vấn đề thực tiễn
của việc nâng cao chất lượng CBCC cấp xã trước việc xây dựng và phát triển
huyện Từ Liêm trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng về chất
lượng CBCC cấp xã huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề


6

xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng CBCC cấp xã ở huyện Từ
Liêm nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ
- Giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan tới chất lượng
CBCC cấp xã.
- Nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng, làm rõ nguyên nhân về chất lượng
CBCC cấp xã thuộc huyện Từ Liêm giai đoạn 2008 đến nay.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng CBCC cấp xã ở huyện Từ Liêm trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng Nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng CBCC cấp xã ở huyện

Từ Liêm thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chất lượng CBCC cấp xã ở huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
Các tư liệu, số liệu phục vụ cho luận văn từ năm 2008 đến tháng 12/2013
và phương hướng, giải pháp cho thời gian tiếp theo tại hai quận Nam Từ Liêm
và Bắc Từ Liêm.
5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận, thực tiễn

Đề tài được xây dựng trên cơ sở hệ thống những quan điểm, nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, các nghị quyết của huyện ủy
Từ Liêm; không trình bày toàn bộ các vấn đề lý luận về cán bộ và công
tác cán bộ mà tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến vai trò của
đội ngũ cán bộ và những quan điểm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp cơ sở.
Cơ sở thực tiễn: Thực trạng đội ngũ CBCC nói chung và chất lượng
CBCC cấp xã của huyện Từ Liêm nói riêng là cơ sở thực tiễn của đề tài.


7

Đồng thời, đề tài còn đi sâu nghiên cứu tham khảo các công trình nghiên
cứu, các đề tài khoa học đã được nghiệm thu, công bố, các số liệu điều tra
khảo sát thực tế của các xã ở huyện Từ Liêm (từ năm 2008 đến
31/12/2013).
5.2.


Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng,
luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành và khoa học liên ngành trong đó chú trọng các phương pháp: phân
tích, tổng hợp kết hợp lịch sử và lôgics, so sánh, điều tra xã hội học, tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung và chất
lượng đội ngũ CBCC, cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho các cấp ủy, tổ
chức đảng, các ban nghành, đoàn thể trực thuộc huyện lãnh đạo, chỉ đạo chất
lượng CBCC cấp xã ở huyện Từ Liêm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả thi
góp phần nâng cao chất lượng CBCC cấp xã thuộc huyện Từ Liêm trong giai
đoạn tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
quận ủy, UBND các quận: Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm; các đoàn thể chính trị
của quận; cho đảng ủy, UBND, các đoàn thể chính trị các phường trực thuộc
quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm trong công tác cán bộ. Công tác xây dựng
Đảng và Xây dựng HTCT. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trung tâm bồi dưỡng cán bộ quận, huyện
và Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong của Hà Nội.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, vai trò cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.1. Khái niệm về cán bộ chủ chốt cấp xã
Hiện nay đang có nhiều khái niệm khác nhau về CBCC cấp xã. Để nhận
thức đúng đắn và đầy đủ vấn đề này, cần làm rõ một số khái niệm sau đây:
* Khái niệm “cán bộ”
Theo cuốn Đại từ điển Tiếng việt, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội 1998,
do Nguyễn Như Ý chủ biên thì:
Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đoàn thể. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người không có chức vụ [68, tr.613].
Theo điều 1 của Pháp lệnh Công chức do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành ngày 9/3/1998: “Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách”.
Hiện nay, theo Luật cán bộ, công chức từ “cán bộ” tùy theo từng tổ chức
(Đảng, đoàn thể, hệ thống nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, v.v)
được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng, đoàn thể, từ “cán bộ” được dùng với hai nghĩa:
Một là, để chỉ những người được bầu (hoặc bổ nhiệm) vào các cấp lãnh
đạo, quản lý từ cơ sở đến Trung ương, để phân biệt cán bộ lãnh đạo có chức vụ
với cán bộ, công chức không có chức vụ và đảng viên thường với đoàn viên, hội
viên; hai là, để chỉ những người làm công tác chuyên trách, có hưởng lương
trong biên chế các tổ chức đảng, đoàn thể.
Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ cơ bản trùng với từ “công chức”, chỉ
những người làm việc trong cơ quan, tổ chức bộ máy nhà nước, đoàn thể chính
trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Đồng thời, cán bộ cũng có thể hiểu là những người có chức vụ, phụ trách, lãnh



9

đạo một tổ chức, một bộ phận cụ thể cơ quan chính quyền các cấp từ Trung
ương đến địa phương và cơ sở.
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có ba đặc
trưng cơ bản:
+ Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác
trong HTCT lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
+ Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của
HTCT.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn
thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung,
chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Đề cập đến khái niệm cán bộ, trong tác phẩm “sửa đổi lề lối làm việc” chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ
hiểu. Theo người “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ, giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”
[48, tr. 269].
Như vậy, từ nghiên cứu các định nghĩa “cán bộ” nói chung và quan điểm
Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể khái quát: cán bộ là người có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ quan, đơn vị của hệ thống
chính trị, là người giữ chức vụ trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
Họ được hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra
trường, từ bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
* Khái niệm “chủ chốt”

Theo từ điển tiếng việt – 2000 của nhà xuất bản Đà Nẵng, từ “chủ chốt” là
“quan trọng nhất” có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của Phong trào”
[67, tr.174].
* Khái niệm “cán bộ chủ chốt”


10

Từ những nộ dung trình bày nêu trên, có thể hiểu “cán bộ chủ chốt” là
người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong
các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm
đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về lĩnh vực công tác được giao.
Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định
trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các
quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên
giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc,
bổ sung điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh
nhiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, CBCC còn
là người giữu vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh.
+ Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ
yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng,
chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những người chịu
trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn
vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
Từ nhận thức đó và theo quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5, khóa
IX về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn;

Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính Phủ về cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn; Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của
Bộ trưởng Bộ nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn; tác giả luận văn đề cập đến đội ngũ CBCC cấp xã bao gồm các chức
danh: + Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên
hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông dân.


11

* Khái niệm “chất lượng”
Đại từ điển tiếng việt định nghĩa: Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá
trị của một con người, một sự vật, một sự việc hay chất lượng là cái tạo nên bản
chất của một con người, một sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia, phân
biệt với số lượng. Nói cách khác, chất lượng là hệ thống những yếu tố đặc trưng cơ
bản để hình thành những giá trị, tính chất tốt đẹp của từng con người, từng sự vật.
Từ điển triết học chỉ rõ “Chất lượng (chất) là tính quy định bản chất của
sự vật, tính quy định đó, sự vật là sự vật như nó đang tồn tại, chứ không phải sự
vật khác, tính quy định đó phân biệt sự vật ấy với sựu vật khác”.
Từ điển Bách khoa thì cho rằng: Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối
của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác.
Từ cách tiếp cận về “chất lượng” nêu trên cho thấy nội hàm về “chất
lượng” gồm hai vấn đề cơ bản:
Một là, chất lượng là tổng hợp những phẩm chất giá trị, những đặc tính
tạo nên bản chất của một người, một sự vật, một sự việc.
Hai là, Những phẩm chất, đặc tính, giá trị đó đáp ứng đến mức độ nào,
những yêu cầu đã được xác định về con người sự vật, sự việc đó trong một thời

gian và không gian nhất định. Những vấn đề này có tính ổn định tương đối có
thể thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan.
* Khái niệm “chất lượng cán bộ”
Chất lượng cán bộ là chất lượng của từng cán bộ thể hiện ở trình độ phẩm
chất, năng lực, phong cách làm việc của người cán bộ so với yêu cầu chức trách,
nhiệm vụ; đồng thời, thể hiện ở chất lượng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của
người cán bộ.
Như vậy chất lượng cán bộ được tạo nên bởi nhiều yếu tố, thể hiện tính
đồng bộ, thống nhất, các yêu tố chất lượng cán bộ như: phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ năng lực công tác, phong cách làm
việc...thể hiện ở kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, chiều hướng,
khả năng phát triển của người cán bộ đó.


12

Chất lượng đội ngũ cán bộ phản ánh là người có trình độ kiến thức, được
đào tạo cơ bản về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ lý luận chính trị, ngoại ngữ,
tin học và kỹ năng lãnh đạo, quản lý; có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng,
đạo đức cách mạng trong sáng; có lối sống trong sạch lành mạnh, có kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn; có năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức, điều hành
thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
* Khái niệm “chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã”
Chất lượng CBCC cấp xã là chất lượng của từng cán bộ thể hiện ở trình
độ, phẩm chất, năng lực, phong cách làm việc của người cán bộ so với yêu cầu
chức trách, nhiệm vụ; đồng thời thể hiện ở chất lượng hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ của người cán bộ; chất lượng xây dựng và kết quả hoàn thành nhiệm
vụ của các tổ chức, đoàn thể ở xã mà người cán bộ đó phụ trách.
CBCC cấp xã là người có trình độ kiến thức được đào tạo cơ bản về kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học và kỹ năng lãnh

đạo, quản lý; có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng
trong sáng; có lối sống trong sạch, lành mạnh; có kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn; có năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức, điều hành thực hiện tốt chức trách
nhiệm vụ được giao.
Như vậy chất lượng CBCC cấp xã thể hiện ở các yếu tố cơ bản về: trình
độ, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và phong cách làm việc; chất lượng
xây dựng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các tổ chức, đoàn thể mặt trận tổ
quốc ở xã mà cán bộ phụ trách. Chiều hướng, khả năng phát triển của người cán
bộ đó.
1.1.2. Vai trò cán bộ chủ chốt cấp xã
Luận bàn về vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ. Hai ông
khẳng định: “ Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn” [46, tr.184].
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho phong
trào cách mạng; có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp vận dụng lý


13

luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng
thực hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải là những người tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, có trách
nhiệm cao và được quần chúng noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về Đảng của
giai cấp công nhân, V.I. Lênin đã đề ra những quan điểm quan trọng về cán bộ
trong quá trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Theo V.I.Lênin,
vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là chỗ đảm bảo tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì họ vừa là người xây dựng đường
lối, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra

quá trình vận động cách mạng hướng tới mục tiêu đã đề ra. Vì thế, người nhấn
mạnh: “Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người” [42, tr.132] và:
Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo ra được, trong hàng ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [41,
tr.473].
V.I.Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
Nga, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và lãnh đạo Cách
mạng tháng 10 Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành được chính quyền, đảng
kiểu mới của V.I.Lênin trở thành Đảng cầm quyền. Lúc này, vấn đề cán bộ càng
trở nên quan trọng và cấp bách hơn. ở giai đoạn này, nhiệm vụ mới vô cùng khó
khăn của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế, xã hội nhằm xây dựng thành công xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin
yêu cầu đội ngũ cán bộ phải nỗ lực cao hơn thời nội chiến để hoàn thành sứ
mệnh mới là quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người khẳng định: “Nghiên cứu
con người, tìm ra cán bộ có bản lĩnh; hiện nay đó là then chốt, nếu không thì tất
cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn. [43, tr.449].
Để có được đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I.Lênin đã coi trọng


14

công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cương vị công tác,
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý giáo dục, rèn
luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho cán bộ,
chống bệnh quan liêu, xa dân, kiêu ngạo, thoái hóa biến chất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi trọng công tác cán bộ nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc đưa cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Người coi: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [47, tr.269].
Vai trò của người cán bộ, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trong
bốn mối quan hệ chủ yếu: cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức
bộ máy, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của
Người, cán bộ không chỉ là người vạch ra đường lối mà còn có vai trò quyết
định trong việc tổ chức thực hiện đường lối. Người nói: “Cán bộ là người đem
chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân nếu cán bộ dở
thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”; “cán bộ là dây truyền của bộ
máy. Nếu dây truyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt” [48, tr.54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng nắm
bắt kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
với Đảng và nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng
dân. Đối với cơ sở, điều này càng đặc biệt quan trọng. Người chỉ rõ: “Sự lãnh
đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng mà ra
và trở lại nơi quần chúng” [49, tr. 290]. Và người kết luận: “ Muôn việc thành
công hay thất bại , đều do cán bộ tốt hay kém” [47, Tr. 273]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải là người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng nhân dân
thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là người tận tụy phục vụ nhân dân, đem
lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong di chúc, người căn dặn toàn đảng ta rằng mỗi Đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần , kiệm, liêm chính, chí


15

công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, vững mạnh, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân [53, tr. 131].

Thấm nhuần của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề cán bộ trong suốt 84 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú
trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của
từng thời kỳ cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đảng ta xác định phải “có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng
lực xây dựng đường lối chính trị đứng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường
lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [21,
tr.27]. Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH,
Đảng ta nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH: “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng” [22, tr. 66]. Theo quan điểm của Đảng trong khi phải
xây dựng đội ngũ cán bộ một cách đồng bộ, đáp ứng với yêu cầu của từng giai
đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ CBCC các cấp, nhất
là cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Như vậy, bất kỳ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ CBCC cũng rất quan
trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của CBCC
càng đặc biệt quan trọng. Vai trò của CBCC cấp xã được thể hiện ở những điểm
sau:
Một là, CBCC cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc triển khai tổ chức
thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước tại cơ sở. Là những người giữ vai trò trụ cột, có tác dụng chi phối mọi hoạt
động tại cơ sở, CBCC cấp xã không những phải nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể cấp trên để tuyên
truyền, phổ biến, dẫn dắt, tổ chức cho quần chúng thực hiện mà còn phải am
hiểu sâu sắc đặc điểm, tình hình của xã để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể hóa đường lối, chủ trương chính sách ấy cho phù hợp với điều kiện đặc thù
của cơ sở.



16

Cán bộ chủ chốt cấp xã là những người trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân
dân, sống, làm việc và hằng ngày có mối quan hệ chặt chẽ với dân. Họ thường
xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của nhân dân. Trong quá trình triển khai, vận
động, dẫn dắt nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước họ tạo ra cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thông qua họ mà ý Đảng, lòng dân tạo thành một khối thống nhất, làm cho
Đảng, Nhà nước, “ăn sâu, bám rễ” trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ. Như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà Nước có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực sinh động hay không tùy
thuộc phần lớn vào sự tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân thực hiện của
đội ngũ CBCC cấp xã.
Hai là, CBCC cấp xã có vai trò quyết định trong việc xây dựng, củng cố
tổ chức bộ máy của HTCT cấp xã vững mạnh phát động, lãnh đạo, phát triển
phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở xã. Thực tế, cho thấy, sự mạnh,
yếu của HTCT và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của
đội ngũ CBCC. Họ là trụ cột, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn
của các tổ chức trong HTCT cấp xã, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi tiềm
năng, nguồn lực ở địa phương, động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức thi đua
hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Đội ngũ CBCC cấp xã có
vai trò quan trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ xã,
đối với năng lực và hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền xã và mọi hoạt
động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở xã. Cán bộ chủ chốt
cấp xã là người dẫn dắt, định hướng các phong trào quần chúng ở cơ sở, tổng kết
rút kinh nghiệm, biểu dương và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, quản lý đô thị, xây dựng đời sống văn hóa, phòng
chống các tệ nạn xã hội ... tại cơ sở. Qua đó họ đóng góp tích cực vào việc xây
dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng

như những chủ trương chính sách chung của Đảng ở cơ sở.


17

Ba là, Cán bộ chủ chốt cấp xã còn là một trong những nguồn quan trọng
cung cấp nguồn cán bộ lãnh đạo cho huyện, quận. Qua thực tế có thể khẳng định
rằng, xã là môi trường thực tiễn để rèn luyện, giáo dục tạo điều kiện cho cán bộ
phấn đấu, tu dưỡng và trưởng thành thông qua hoạt động ở xã cán bộ tích lũy
được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức không ngừng được bổ sung năng
lực lãnh đạo, quản lý, phương pháp, phong cách công tác được nâng lên rõ rệt
những cán bộ đã kinh qua công tác ở xã khi được luân chuyển về huyện, quận
được phân công đảm nhiệm các vị trí công tác cao hơn thường vững vàng, có
bản lĩnh, thích ứng nhanh với nhiệm vụ mới và có khả năng hoàn thành tốt
nhiệm vụ mới được giao khi đề cập đến vấn đề này. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng CBCC “cơ sở” không những là cái khâu liên hệ. Mà còn là cái kho dồi dào
cho Đảng lấy thêm lực lượng mới. Nếu đội ngũ này phát triển và củng cố thì
Đảng sẽ phát triển và củng cố. Bằng không Đảng sẽ khô héo” [51, tr.273].
Với ý nghĩa đó, có thể xây dựng CBCC cấp xã là một mắt xích quan trọng
thúc đẩy quá trình đổi mới CNH, HĐH ở xã, huyện, tỉnh, thành phố và cả nước
xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã có tầm quan trọng đặc biệt và nhiều mặt góp
phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của các xã và đóng góp cơ bản vào
việc hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng xây dựng Đảng và HTCT của cấp huyện theo định
hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện bởi các xã là địa bàn quan trọng
bậc nhất của huyện để thực hiện tốt vai trò, vị trí của mình CBCC cấp xã cần
phải thường xuyên nghiên cứu học tập nâng cao trình độ, kiến thức về lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý và kinh nghiệm
thực tiễn; luôn tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị. Đạo đức, lối sống trong
sạch, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng quan liêu, lãng phí thực hành tiết

kiệm nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trước nhân dân; đoàn kết gắn bó có
mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
1.2. Những điều kiện và tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt
cấp xã
1.2.1. Những điều kiện đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã


18

1.2.1.1. Những điều kiện khách quan để đánh giá chất lượng của cán bộ
chủ chốt cấp xã
Chất lượng của từng cán bộ được tạo thành bởi trình độ, phẩm chất năng
lực, phong cách làm việc và kết quả hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao.
Vì vậy, chất lượng CBCC cấp xã được cấu thành gồm các yếu tố cơ bản: trình
độ, phẩm chất năng lực và phong cách làm việc.
Đó là các yếu tố cơ bản quan trọng để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ.
Các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau, hỗ trợ bổ sung cho
nhau. Quyết định đến chất lượng CBCC cấp xã.
* Về số lượng cán bộ chủ chốt cấp xã
Về số lượng đội ngũ cán bộ là yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng đội
ngũ cán bộ phù hợp với nhu cầu biên chế, yêu cầu nhiệm vụ của các tổ chức
Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong xã là điều
kiện. Cơ sở nâng cao chất lượng CBCC cấp xã nếu số lượng cán bộ không hợp
lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ không chỉ tại một thời
điểm mà có thể trong nhiều năm.
Điều đó thể hiện ở chỗ. Một khi số lượng CBCC cấp xã không hợp lý với
nhu cầu biên chế, yêu cầu nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động của các tổ chức
Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, tổ chức đoàn thể cấp xã, sẽ dẫn đến hai
trường hợp.
Thứ nhất, số CBCC cấp xã quá thiếu thậm chí nếu bị kéo dài. Không đáp

ứng được nhu cầu định biên sẽ dẫn đến hẫng hụt đội ngũ cán bộ kế cận và kế
tiếp. Phá vỡ cơ cấu, làm cho cơ cấu đội ngũ CBCC bất hợp lý cả về tuổi đời,
tuổi Đảng, học vấn, giới tính, cơ cấu thành phần xuất thân....làm suy giảm chất
lượng đội ngũ cán bộ này. Bởi lẽ, do thiếu cán bộ, cơ cấu không hợp lý nên khi
có yêu cầu bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, điều động luân chuyển cán bộ từ huyện ủy
và Ban tổ chức huyện ủy sẽ lúng túng. Có trường hợp phải chiếu cố, vận dụng
các tiêu chuẩn, thậm chí là “bỏ qua, châm trước” một số hạn chế về phẩm chất
năng lực, phong cách làm việc của cán bộ để có cán bộ làm việc.


19

Thứ hai, trường hợp CBCC quá thừa so với nhu cầu biên chế, yêu cầu
nhiệm vụ và khả năng phát triển của hệ thống tổ chức bộ máy cấp xã sẽ dẫn đến
tình trạng buộc phải xếp chồng nhiều chức vụ cho một chức trách trong đó nhiều
cán bộ xếp chồng để chờ đợi có đủ thời gian và điều kiện nghỉ chính sách...
* Về cơ cấu cán bộ chủ chốt cấp xã
Cơ cấu cán bộ là yếu tố tác động trực tiếp, thường xuyên đến chất lượng
từng người cán bộ các chỉ số về cơ cấu cán bộ phản ánh trung thực chất lượng
đội ngũ cán bộ. Cơ cấu cán bộ là một trong những căn cứ quan trọng để xây
dựng quy hoạch cán bộ, xác định điều kiện, tiêu chuẩn, chức trách cán bộ, yêu
cầu về phẩm chất năng lực, phong cách làm việc của từng cán bộ và từng loại
cán bộ, cơ cấu phù hợp sẽ bảo đảm cho đội ngũ cán bộ phát triển cân đối nhịp
nhàng, đồng bộ, vững chắc, tránh được sự hụt hẫng, ùn tắc.
Trong việc nâng cao chất lượng CBCC cấp xã, nên chỉ chú ý đến số lượng
đội ngũ và chất lượng từng người cán bộ, mà không chú trọng bảo đảm sự phù
hợp về cơ cấu đội ngũ cán bộ thì không những không nâng cao được chất lượng
CBCC mà còn để lại những hậu quả nặng nề trong nhiều năm mà công tác cán
bộ chưa khắc phục hết.
Cơ cấu CBCC cấp xã gồm: thành phần xuất thân, tuổi đời, tuổi Đảng,

trình độ học vấn, chức danh CBCC đảm nhiệm, giới tính, nghành nghề đào tạo...
Cơ cấu cán bộ được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của bộ máy tổ
chức về Đảng, chính quyền đoàn thể yêu cầu nâng cao chất lượng cán bộ; chức
trách, nhiệm vụ cán bộ; yêu cầu nhiệm vụ của xã, tổ chức đảng chính quyền,
đoàn thể chính trị, xã hội ở địa phương.
Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan tham mưu về công tác tổ
chức, cán bộ cần nghiên cứu, tính toán cơ cấu CBCC cấp xã cho phù hợp từng
nhiệm kỳ và giai đoạn tiếp theo.
Số lượng cơ cấu CBCC cấp xã là những vấn đề thuộc quan điểm nguyên
tắc, phương châm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, những vấn đề đó được
cụ thể hơn hiện thực hóa ở phẩm chất, trình độ năng lực, phong cách làm việc
của mỗi người cán bộ. Vì thế suy cho cùng phẩm chất trình độ năng lực, phong


20

cách làm việc của cán bộ quyết định chất lượng cán bộ điều đó thể hiện ở chỗ
nếu số lượng và cơ cấu hợp lý những trình độ, phẩm chất, năng lực, phong cách
làm việc của đội ngũ cán bộ mặc dù vẫn đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn, điều
kiện... nhưng ở mức độ “trung bình” “tầm tầm”, “vừa phải”... thì chất lượng cán
bộ chủ chốt không thể cao, khó đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, không thể phát triển
đông bộ và vững chắc. Mặt khác, nếu phẩm chất, trình độ, năng lực, phong cách
làm việc của CBCC cấp xã hạn chế không đáp ứng yêu cầu với cương vị chức
trách và yêu cầu nhiệm vụ được giao cũng sẽ dẫn đến những khó khăn, vướng
mắc trong giải quyết về số lượng và cơ cấu cán bộ chủ chốt cấp xã.
Từ sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu
thành chất lượng cán bộ chủ chốt là: số lượng, cơ cấu và phẩm chất trình độ
năng lực, phong cách làm việc của CBCC cấp xã rất chặt chẽ không thể tách rời
hay xem nhẹ, bỏ qua yếu tố nào. Để nâng cao chất lượng CBCC cấp xã đòi hỏi
phải tác động tổng thể, đồng bộ vào các yếu tố, giải quyết một cách hài hòa mối

quan hệ các yếu tố đó trong xây dựng CBCC cấp xã, gắn với các khâu, các bước
trong thực hiện công tác cán bộ ở cơ sở.
1.2.1.2. Những điều kiện chủ quan để đánh giá chất lượng cán bộ chủ
chốt cấp xã
- Việc tự học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực,
phong cách làm việc của cán bộ chủ chốt cấp xã
Quan điểm của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán và đề
cao việc tự học, rèn luyện của cán bộ, nhất là CBCC để nâng cao trình độ, phẩm
chất, năng lực và phong cách làm việc. Đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng về công tác giáo dục đào tạo qua các giai đoạn, thời kỳ cách mạng đều coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu và quan tâm tới việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài; đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới, Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII của Đảng ta đã xác định
đổi mới căn bản nền giáo dục đào tạo, trong đó xác định đổi mới căn bản, toàn
diện về nội dung chương trình, phương pháp, cách thức giáo dục đào tạo.


21

Thực tế đội ngũ CBCC cấp xã thời gian qua ngoài việc được tham dự các
lớp đào tạo, tập huấn bồi dưỡng theo chương trình, kế hoạch đào tạo hằng năm,
phần lớn đã tự bố trí, sắp xếp thời gian để học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên
môn, được tham quan, học tập kinh nghiệp thực tiễn ở các địa phương, đơn vị bạn, qua
đó đã góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của CBCC cấp xã.
- Việc sắp xếp, bố trí cán bộ chủ chốt cấp xã của các cơ quan chức năng
huyện ủy.
Đây là việc làm quan trọng cấp thiết của cơ quan chức năng huyện ủy
thông qua việc xây dựng quy hoạch bố trí sắp xếp hằng năm đội ngũ CBCC cấp
xã được bố trí, sắp xếp hợp lý, phù hợp với năng lực, sở trường của cán bộ.
Thông qua quy hoạch để có hướng, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển

cán bộ hợp lý trong từng năm và cả nhiệm kỳ đại hội đảng bộ xã, nhiệm kỳ
HĐND xã.
Thực tế cho thấy ở đâu cấp ủy quan tâm, cơ quan chức năng của huyện ủy
bố trí sắp xếp khoa học, xây dựng quy hoạch đồng bộ và có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng gắn với quy hoạch đào tạo có “địa chỉ” thì ở đó có đội ngũ CBCC cấp
xã vững mạnh và ngược lại, nếu bố trí sắp xếp không khoa học, hợp lý; quy
hoạch thiếu đồng bộ và đào tạo, bồi dưỡng không gắn với quy hoạch thì ở đó
chất lượng CBCC cấp xã sẽ có nhiều khuyết điểm, vấp váp trong điều hành, xử
lý tình huống, thậm chí là không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay
Theo từ điển tiếng việt “tiêu chí” được định nghĩa là: “Đặc trưng, dấu
hiệu làm cơ sở, căn cứ để nhận biết xếp loại các sự vật, các khái niệm” [68,
tr.1640].
Như vậy, muốn đánh giá đúng chất lượng CBCC cấp xã phải nghiên cứu
những căn cứ khoa học để xác định tiêu chí, từ đó đưa ra các tiêu chí cơ bản để
đánh giá đúng chất lượng CBCC cấp xã.
1.2.2.1. Căn cứ để xác định tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt
cấp xã


22

Để xác định tiêu chí đánh giá chất lượng CBCC bảo đảm tính khoa học,
sát thực thực tiễn và có tính khả thi cao cần căn cứ vào các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, vị trí, vai trò, đặc điểm của CBCC cấp xã và yêu cầu nâng cao
chất lượng CBCC cấp xã trong thực tiễn hoạt động. Đây chính là yêu cầu tất yếu
và là đòi hỏi khách quan của việc nâng cao chất lượng CBCC cấp xã trước yêu
cầu của thời kỳ đổi mới.
Thứ hai, Tình hình đặc điểm, nhất là những xã có đặc thù về địa bàn; chức
trách, nhiệm vụ và tiêu chuẩn chức danh của từng cán bộ và của CBCC cấp xã.

Đây chính là yêu cầu về mặt nguyên tắc không thể thiếu được đối với CBCC cấp
xã.
Thứ ba, chất lượng của CBCC cấp xã. Đây chính là yêu cầu thực tiễn và
cũng là tiêu chí, nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết định để đánh giá chất
lượng CBCC cấp xã.
Thứ tư, chất lượng CBCC cấp xã hiện nay.
Thứ năm, các văn bản quy định và hướng dẫn của Ban chấp hành Trung
ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư và của thành ủy Hà Nội, đặc biệt là các nghị
quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương về công tác cán bộ, như Nghị
quyết TW3, khóa VIII; Nghị quyết TW7, khóa VIII; kết luận hội nghị TW6,
khóa IX; Kết luận hội nghị TW9, khóa X; các nghị quyết của Bộ chính trị như
Nghị quyết số 42-NQ/TW về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước; Nghị quyết số 11-NQ/TW về luân chuyển cán bộ
lãnh đạo và quản lý; Nghị quyết đại hội XI của Đảng; các hướng dẫn của Ban tổ
chức Trung ương về công tác cán bộ và nhiều chương trình, đề án, chuyên đề và
các văn bản hướng dẫn của Thành ủy, Huyện ủy về công tác cán bộ và nhiều
chương trình, đề án, chuyên đề và các văn bản hướng dẫn của Thành ủy, huyện
ủy về công tác cán bộ và đánh giá đội ngũ CBCC cấp xã.
1.2.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã
Tiêu chí đánh giá chất lượng CBCC cấp xã là tập hợp các yếu tố, điều
kiện, đặc trưng cũng như các chỉ số định tính, định lượng làm căn cứ để nhận
biết, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ này trên thực tế. Từ căn cứ để xác định


23

tiêu chí đánh giá chất lượng CBCC cấp xã nêu trên, từ đặc điểm lãnh đạo của
đảng bộ huyện để đánh giá đúng thực trạng chất lượng CBCC cấp xã cần dựa
vào bốn tiêu chí cơ bản sau:
Một là, số lượng cán bộ chủ chốt cấp xã

Đây là tiêu chí để phân tích số lượng cán bộ của từng loại cán bộ và
CBCC cấp xã. Từ đó chỉ ra mức độ về số lượng cán bộ đã phù hợp hay chưa phù
hợp, phù hợp nhiều hay ít so với yêu cầu biên chế, tổ chức bộ máy và nhiệm vụ
của đội ngũ cán bộ này trong thực tiễn ... qua đó phản ánh chất lượng CBCC cấp
xã cao hay thấp, đồng bộ hay chưa đồng bộ.
Hai là, cơ cấu cán bộ chủ chốt cấp xã
Đây là tiêu chí cơ bản để phân tích cơ cấu CBCC cấp xã gồm các nội
dung về cơ cấu độ tuổi; cơ cấu tuổi Đảng, cơ cấu về thành phần giai cấp; dân
tộc, cơ cấu về giới tính...từ đó đối chiếu với yêu cầu, nhiệm vụ và đặc điểm của
CBCC cấp xã để đánh giá mức độ hợp lý của cơ cấu đội ngũ cán bộ và đánh giá
chất lượng đội ngũ cán bộ này ở mức độ nào.
Ba là, Trình độ, phẩm chất, năng lực và phong cách làm việc của cán bộ
chủ chốt cấp xã; kiến thức, năng lực quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết
của Đảng, chính sách, luật pháp của nhà nước người cán bộ chủ chốt
Đây là tiêu chí trọng tâm để đánh giá thực trạng về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực và phong cách làm việc của CBCC cấp xã.
Từ đó, xem xét, phân tích, đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu, chức trách, nhiệm
vụ của đội ngũ cán bộ này.
Bốn là, kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của cán bộ chủ
chốt cấp xã, gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các tổ chức, mặt trận tổ
quốc và đoàn thể mà người đó đứng đầu phụ trách. Sự quyết đoán trong giải
quyết công việc, năng lực xử trí tình huống các vấn đề phức tạp nảy sinh ở xã,
uy tín, tín nhiệm và xây dựng đoàn kết quy tụ, tập hợp cán bộ, đảng viên và
nhân dân của cán bộ chủ chốt cấp xã.


24

Đây là tiêu chí quan trọng nhất, phản ánh sát thực trạng chất lượng CBCC
cấp xã. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của CBCC cấp xã thể hiện qua các nội

dung sau:
Thứ nhất, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ lãnh đạo với cương vị
chức trách đang đảm nhiệm cả về công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Thứ hai, kết quả lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ
chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và đoàn thể chính trị xã hội ở địa
phương mà người CBCC đứng đầu phụ trách.
Thứ ba, kết quả xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và
đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương; xây dựng cấp ủy, chi bộ, đảng bộ và các
tổ chức quần chúng vững mạnh toàn diện.
Thứ tư, tính quyết đoán trong giải quyết công việc và kết quả xử lý các vụ
việc, tình huống phức tạp nảy sinh ở xã, giải quyết công việc hành chính khi tiếp
xúc với nhân dân của đội ngũ CBCC cấp xã.
Thứ năm, xây dựng đoàn kết, quy tụ tập hợp đội ngũ cán bộ đảng viên và
nhân dân; uy tín, tín nhiệm của CBCC cấp xã đối với cấp dưới thuộc quyền và
với nhân dân ở địa phương.
Các tiêu chí trên là một thể thống nhất có mối quan hệ chặt chẽ. Bổ sung
và hỗ trợ lẫn nhau, để đánh giá đúng thực trạng chất lượng CBCC cấp xã cần cụ
thể hóa nội dung, yêu cầu của từng tiêu chí. Trên cơ sở đó tiến hành điều tra,
khảo sát, tổng kết thực tiễn một cách công phu, nghiêm túc, có luận cứ khoa học để
đánh giá trung thực, khách quan thực trạng; chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm,
phân tích nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác này.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn có nội dung khái quát, nêu lên những vấn đề lý
luận liên quan tới đề tài nghiên cứu, tác giả đã tập trung trình bày các khái niệm
về: “cán bộ”, “chủ chốt”, “cán bộ chủ chốt”, “chất lượng đội ngũ cán bộ” “chất
lượng cán bộ chủ chốt cấp xã”, lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của đội ngũ CBCC, các yếu


25


tố cấu thành nên chất lượng CBCC cấp xã và đưa ra những tiêu chí đánh giá chất
lượng CBCC cấp xã.
Hệ thống lý luận đó tạo cơ sở và phương pháp luận cho việc đánh giá
chính xác, khách quan chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Từ Liêm
thành phố Hà Nội sẽ được tiến hành nghiên cứu ở chương sau.

Chương 2


×