Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ và bài học KINH NGHIỆM của CÔNG NGHIỆP TRONG CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế, PHÁT TRIỂN KINH tế ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.01 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
2

Më ®Çu
1

Vị trí và vai trò của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế

1.1 Vị trí của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển kinh tế
1.2 Vai trò của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển kinh tế
2

Quan điểm của Đảng ta về phát triển công nghiệp qua các
kỳ đại hội

3

Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua

3.1 Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua
3.2 Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển
công nghiệp Việt Nam
4

3
3
3


4
9
9
12

Những bài học kinh nghiệm và Phương hướng giải pháp
phát huy vai trò công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu

14

kinh tế, phát triển kinh tế ở Việt nam
4.1

Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát
triển công nghiệp nước ta.

4.2 Phương hướng phát triển công nghiệp trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

14
15

KẾT LUẬN

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22
MỞ ĐẦU


Trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp là ngành có vai trò quan
trọng đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra thu nhập cho
kinh tế quốc dân, đồng thời công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan
trọng trong các ngành sản xuất vật chất. “Công nghiệp trở thành một ngành sản


2
xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội”.
Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay với nhiều thành phần kinh tế
cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì công nghiệp ở nước ta được đánh giá là ngành chủ đạo của nền
kinh tế, một tất yếu khách quan của phát triển kinh tế. Quá trình này diễn ra trong
điều kiện nước ta là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển,
tụt hậu khá xa so với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong
khu vực về trình độ, khó khăn về vấn đề vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận
hành theo nền kinh tế thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới.
Trong điều kiện như vậy cần nghiên cứu vấn đề công nghiệp ở nước ta để có thể
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho nước ta trở thành một nước phát triển
nhờ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở phát triển ngành
công nghiệp được hay không đó là vấn đề rất cần thiết.
Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) nền sản xuất là điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước đang phát
triển muốn vươn lên hàng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao.
Tuy nhiên đây không phải là một quá trình đơn giản, nó không đơn thuần là sự
chuyển tiếp kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp
trên nông nghiệp trong phạm vi toàn quốc, mà là một quá trình phức tạp, lâu dài.
Đây là một quá trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều vấn đề quan trọng của
nền kinh tế vĩ mô mà sự thành công hay không của quá trình này có tính quyết

định đến mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế của đất nước. Với lý do trên em xin
được chọn chủ đề “Vai trò và bài học kinh nghiệm của công nghiệp trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế ở Việt Nam” làm bài thu hoạch của
môn kinh tế phát triển.
1. Vị trí và Vai trò của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển kinh tế
1.1 Vị trí của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế


3
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công
nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công
nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm
tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội.
Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập, là một
trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, trình độ phát
triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển
kinh tế của một quốc gia. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất
công nghiệp hoạt động theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh....
Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy công nghiệp không chỉ
tái sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản xuất
khác nhau trên bước đường phát triển của mình.
1.2 Vai trò của công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển kinh tế
Công nghiệp có vai trò quan trọng quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế

quốc dân đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các
ngành kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa vì:
Công nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế,
công nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu sản xuất, trình độ
phát triển công nghiệp càng cao thì tư liệu sản xuất càng hiện đại, tạo điều kiện
nâng cao năng suất lao động xã hội.
Công nghiệp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đây được coi là nhiệm vụ cơ
bản trong giai đoạn đầu nền kinh tế nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm
cho đời sống nhân dân và nông sản cho xuất khẩu. Công nghiệp vừa là ngành


4
cung cấp cho sản xuất các yếu tố đầu vào vừa có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Công nghiệp cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân. Khác với
nông nghiệp chỉ cung cấp những sản phẩm tiêu dùng tất yếu đáp ứng nhu cầu cơ
bản nhất cho con người, còn công nghiệp cung cấp mọi sản phẩm tiêu dùng cho
sinh hoạt của con người từ ăn mặc, đi lại, vui chơi, giải trí…Công nghiệp càng
phát triển thì các sản phẩm hàng hóa càng đa dạng, phong phú về chủng loại,
mẫu mã, càng nâng cao về chất lượng.
Công nghiệp thu hút lao động nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm
cho xã hội. Công nghiệp tác động vào nông nghiệp làm nâng cao năng suất lao
động nông nghiệp, tạo khả năng giải phóng sức lao động, nâng cao trình độ
chuyên môn và tăng thu nhập cho người lao động.
Công nghiệp tạo ra hình mẫu ngày càng hoàn thiện hơn về tổ chức sản
xuất. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp có trình độ cao hơn các
ngành khác đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Đối tượng lao động của công
nghiệp rất phong phú và đa dạng (cả tự nhiên và nhân tạo). Mặt khác, sản xuất
công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công lao động và hợp tác lao
động chặt chẽ và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ cao nên hình thành các

nhà máy, các xí nghiệp, các khu công nghiệp tập trung.
Như vậy, sức mạnh của công nghiệp không chỉ có tác dụng củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong bản thân công nghiệp mà còn
có vị trí và vai trò to lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát triển kinh tế.
2. Quan điểm của Đảng về phát triển công nghiệp qua các kỳ đại hội.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ ra con đường để đạt được thành công nhanh nhất
thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và các lợi
thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề
kinh tế - xã hội cấp bách là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở nước ta
được bắt đầu từ năm l960, từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960). Đảng đã
khẳng định: “Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là


5
CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp nặng” (1), chủ trương
CNH là “Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công
nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp và công
nghiệp nhẹ”(2). Chiến lược này được củng cố và bổ sung qua các thời kỳ đại hội
IV(1976), V(1981) và các hội nghị trung ương, đại hội Đảng. Để thực hiện chiến
lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh
thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN, có khoảng thời gian chúng
ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như cơ
khí, luyện kim, điện năng, khai thác than...
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) đề ra đường lối: “Xây dựng kinh
tế XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế công nông nghiệp…”(3).
Sau năm 1975 đất nước thống nhất do đòi hỏi phải có chiến lược CNH thích
hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên. Do chủ

trương nôn nóng chủ quan duy ý chí dẫn tới một số sai lầm trong công tác chỉ
đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1976-1980 nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và
mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu
cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 19761980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%.
Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng
0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng
bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu
những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công
sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, chưa có tích lũy nội bộ.
(1)

Đảng Lao động Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
Đảng Lao động Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
(3)
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976)
(2)


6
Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quồc lần thứ V(1982) đã xác định:
“Nội dung chính của CNH XHCN trong những năm tới là tập trung sự phát triển
mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên
sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng” (4). Sự thay đổi đó bước đầu đã có tác dụng
đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng năm sản xuất công
nghiệp tăng 0,5%; Thu nhập quốc dân tăng từ 20,5% năm 1980 lên 30% năm
1985. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa V của Đảng cộng sản
Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ
trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn

với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao
và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD) và đến Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công
nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả" Đại hội Đảng
VI đã khẳng định: "Tiếp tục nắm vững hai chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa"(5).
Từ năm 1986, đây là thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức
quan điểm và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ quan
điểm và chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong
chặng đường tiếp theo”(6) và “Trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật
sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục
tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” (7). Từ quan
điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng cơ chế và
bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều thành
phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách
(4)

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982)
Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VI.
(6)
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
(7)
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
(5)


7
tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan

liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy nền
kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh
tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số năm 1986:
588,72%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai con số
năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản
phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công
nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá
trị nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu
mỏ, than đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực
tăng nhanh. Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992
tăng 5,4% so với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5%
(1992). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và
có hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực
chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ
trọng tương ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%. Giữa các ngành công
nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự
phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành công nghiệp nhóm
B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn
các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài quốc doanh
đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp quốc
doanh năm 1989 chiếm 57%.
Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng
lần thứ VII(1991) đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo
con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế
- xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại
gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” (8). Đại hội
(8)


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.


8
Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995):
“Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả
nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” (9).
Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng
hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế,
tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán
chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản
phẩm trong nước năm 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng
sản lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng
13,2%. Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở
tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo
hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các
ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền
kinh tế đất nước và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) của Đảng đã
coi Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của
công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi
mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu
bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) Đảng ta đã quán triệt tư
tưởng CNH: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững
và có hiệu quả”(10) và Đại hội VIII xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam
đến năm 2020 và năm 2010 là: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục
tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công
(9)
(10)

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Văn kiện Đại hội Đảng VIII. Trang 33


9
nghiệp có cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp” (11). Đại hội xác định giai đoạn từ nay đến năm
2020 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển- đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X của Đảng đã xác định: “Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN…”(12)
Đại hội lần thứ XI của Đảng đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng. Đây là
“Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn, kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và
niềm hy vọng lớn lao của dân tộc”. Thực tiễn sau gần 30 năm thực hiện công
cuộc đổi mới nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong phát triển kinh tế
3.1 Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua.
Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công

nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm,
sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công
nghiệp nước ta ước khoảng 4.584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ
60%-70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%.
Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần
mức trung bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế,
thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng.

(11)
(12)

Giáo trình Lịch sử Đảng . Trang 174
Trang 182 – Giáo trình Lịch sử Đảng.


10
Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử
dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%).
Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan
điểm rõ ràng việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất
nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì
thế sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được hiện đại
hóa nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương
càng làm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế gay gắt thêm và gây lãng phí lớn
trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi
tỉnh, thành phố có 60%-70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của
một địa phương.
Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế,

nhất là các doanh nghiệp nhà nước đang thích ứng dần với môi trường kinh
doanh mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Điểm nổi bật là hầu
hết các doanh nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều
sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp bắt đầu
làm ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước (như
liên hiệp xí nghiệp xi măng năm 2000 nộp ngân sách gấp 19 lần năm 1991). Đây
là những chuyển biến bước đầu trong công nghiệp và có thể xem xét đánh giá
thực trạng cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong phát triển kinh tế đất nước:
Thời kỳ từ năm 1955-1975.
Đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất của nền công nghiệp nước ta. Sau
hòa bình lập lại ở miền Bắc chúng ta đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến
tranh. Cho đến nay hầu hết nhà máy lớn còn tồn tại và phát huy tác dụng đều
được xây dựng trong thời kỳ này như: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ
khí Trung tâm (Cẩm Phả), Khu Gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc, phân
lân Văn Điển, Apatít Lào Cai... Hàng loạt nhà máy điện được xây dựng mới:
điện Vinh, Lao Cai, Uông Bí, Ninh Bình, Quảng Ninh,... được khôi phục cải tạo
và phát triển. Trong công nghiệp nhẹ, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở tương
đối lớn như khôi phục và mở rộng nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, xây dựng


11
nhà máy dệt kim 8/3…. Do những nỗ lực trên giá trị tổng sản lượng công nghiệp
đã tăng lên với nhịp điệu nhanh. Đó là thời kỳ công nghiệp phát triển công
nghiệp theo chiều rộng với số vốn đầu tư khá lớn và cũng nhanh chóng phát huy
tác dụng, mức huy động công suất máy móc, thiết bị khá cao. Với cơ cấu công
nghiệp như vậy góp phần vào việc phát triển các ngành kinh tế khác, trước hết là
nông nghiệp có tác động trực tiếp vào nâng cao mức sống toàn dân.
Thời kỳ 1976 – 1985.
Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp đã có thay đổi nhất định.
Đây là thời kỳ cả nước có nhiều biến động. Vừa qua khỏi cuộc chiến tranh

kéo dài mấy thập kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây
Nam của Tổ quốc. Nền kinh tế bị bao vây, Trung Quốc cắt viện trợ, các nước
phương Tây tẩy chay chúng ta chỉ còn lại Liên Xô là đang giúp đỡ. Trong thời kỳ
này nhiều dự án đầu tư với số vốn lớn đã không thực hiện được hoặc đang thực
hiện bỏ dở dang. Nhiều máy móc thiết bị toàn bộ nhập về không lắp ráp được
hoặc xây dựng xong phải đóng cửa vì thiếu nguyên vật liệu v.v...
Thành quả lớn nhất của thời kỳ này là đã cố gắng duy trì năng lực sản xuất
của công nghiệp nhẹ và thực phẩm đồng thời xây dựng một số cơ sở như giấy
Bãi Bằng, điện Phả Lại, điện Hòa Bình, Trị An, xi măng Bỉm Sơn và Hoàng
Thạch v.v... Kết quả đã làm cho tài sản cố định tăng 2,5 lần, số lượng xí nghiệp
quốc doanh tăng 1,4 lần, số lượng công nhân tăng 1,3 lần, khối lượng sản phẩm
tăng gấp 2 lần so với trước năm 1975.
Thời kỳ từ 1986 cho đến nay.
Nét nổi bật là hầu hết các cơ sở công nghiệp cấp huyện và một số cấp tỉnh,
thành quản lý đều đứng bên bờ vực của phá sản. Đối với ngành cơ khí chế tạo
máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, mặt hàng không thích hợp với yêu cầu của
người tiêu dùng. Các cơ sở sửa chữa cơ khí hầu hết đều không có việc làm, rơi
vào tình trạng bế tắc. Một số ít cơ sở công nghiệp tìm đường ra bằng cách đa
dạng hóa sản phẩm, chuyển mạnh sang sản xuất theo đơn đặt hàng của các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải
v.v…Ngành luyện kim cả kim loại màu và kim loại đen cũng gặp không ít khó
khăn, chỉ sản xuất cầm chừng.


12
Ngành dệt và may còn duy trì và phát triển được do nhập nguyên liệu từ
nước ngoài. Nhiều cơ sở đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị như dệt khổ rộng,
nâng cấp sản phẩm, tạo nguyên liệu cho ngành may có điều kiện sản xuất những
loại quần áo đáp ứng nhu cầu thị hiếu nước ngoài.
Ngành năng lượng nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước đã phát triển khá

mạnh do đưa vào sử dụng những cơ sở năng lượng quy mô lớn. Bên cạnh đó là
những thành tựu về khai thác dầu lửa ở thềm lục địa phía Nam góp một tỷ trọng
đáng kể trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
Quá trình biến đổi cơ cấu ngành công nghiệp trên cho ta thấy đây mới chỉ là
những buổi ban đầu của công nghiệp, khó khăn vẫn còn lớn, nhiều xí nghiệp đang
đứng trước quy mô phá sản, thua lỗ kéo dài, không có khả năng hoàn trả vốn.
3.2 Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công
nghiệp Việt Nam.
Những thành tựu do công nghiệp đạt được thật vô cùng to lớn góp phần
phát triển nền kinh tế nâng cao thu nhập quốc dân, giúp cho các ngành khác phát
triển, bản thân ngành công nghiệp cũng đạt được những thành quả lớn, đã từng
bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, dần dần hình thành các khu công
nghiệp hóa. Bên cạnh đó những hạn chế về sự phát triển công nghiệp cũng
không nhỏ như trình độ kỹ thuật chưa cao, chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của
mình trong nền KTQD, mà một trong những nguyên nhân đó là :
Trong quá trình tham gia phát triển kinh tế, công nghiệp nước ta phải
đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến tranh đã
gây nên nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nói chung, trong đó công nghiệp chịu
một phần không nhỏ. Nhiều nhà máy bị phá hủy gây nên tình trạng nền công
nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Quá trình quản lý kinh tế chúng ta đã mắc phải một số sai lầm, chủ quan
duy ý trí, nóng vội trong chủ trương CNH, HĐH đất nước bằng con đường đẩy
mạnh phát triển công nghiệp nặng. Do vậy làm cho công nghiệp khó phát huy
được vì không thể một chốc một lát phát triển ngay công nghiệp nặng mà muốn
phát triển công nghiệp phải qua phát triển công nghiệp nhẹ trước mới phù hợp


13
với điều kiện ở nước ta. Tiếp đó là cơ chế kinh tế tập trung bao cấp kéo dài đã
gây không ít khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta chưa

xác định rõ ràng hướng đi của CNH cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất
nước. Nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện và đồng nhất cách đi rập
khuôn máy móc lý luận và mô hình CNH ở Liên Xô. Do vậy quá trình CNH ở
nước ta diễn ra chậm. Mà quá trình CNH có quan hệ đến quá trình phát triển công
nghiệp làm cho quá trình phát triển công nghiệp cũng chậm lại.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình
thành và phát triển công nghiệp nước ta. Từ chiến lược đề ra cơ cấu công nghiệp
hợp lý nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng của đất nước về lao động, tài
nguyên, tiền vốn, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất xã hội với hiệu quả cao.
Quá trình phân công lao động ở nước ta chưa thực sự phát huy tác dụng,
việc chuyên môn hóa bước đầu được thực hiện nhưng chưa cao, các mối liên hệ
giữa các ngành đã được hình thành nhưng chưa chặt chẽ. Việc đưa khoa học kỹ
thuật vào nước ta còn ồ ạt, thiếu chọn lọc. Quá trình chuyển giao công nghệ
không lựa chọn được công nghệ phù hợp nhập vào trong nước những công nghệ
quá lạc hậu hoặc quá hiện đại mà chúng ta không sử dụng được do yếu về trình
độ. Có những công nghệ nhập về lại phải mời chuyên gia về gây tốn kém và
không sử dụng hết công suất của máy.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, nền kinh tế là nền kinh tế mở do vậy
thị trường không còn bó hẹp trong nước mà đã mở rộng ra khu vực và thế giới.
Nhưng sản phẩm công nghiệp của nước ta không chinh phục được thị trường,
chưa được thị trường chấp nhận, do vậy sản phẩm sản xuất không bán được ra
thị trường thế giới.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển đều có một trình độ của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng do vậy công nghiệp phải thường xuyên
thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp điều kiện lịch sử.
Từ những nguyên nhân trên nên công nghiệp nước ta hiện nay chưa phát
huy hết vai trò của mình đối với phát triển kinh tế.



14
4. Những bài học kinh nghiệm và Phương hướng giải pháp phát huy
vai trò công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế ở
Việt nam
4.1. Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển
công nghiệp ở Việt nam
Từ thực trạng của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của
công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của quá trình đổi mới, từ việc
xem xét và đánh giá một cách toàn diện hơn quá trình xây dựng cơ cấu công
nghiệp trong mấy chục năm qua nhất là từ năm 1976 đến nay, có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm sau:
Vốn đầu tư bỏ ra không xem xét một cách toàn diện và khoa học, không
đánh giá đúng tình hình thực tiễn, không dự báo sát xu thế phát triển, không lựa
chọn để ưu tiên vào các ngành, dự án để khai thác có hiệu quả, nhanh thu hồi vốn.
Một nền công nghiệp khép kín mang nặng tính tự cung, tự cấp được hình
thành, việc phát triển hướng nền xuất khẩu không được quan tâm đúng mức.
Các xí nghiệp không được chuyên môn hóa đầy đủ, thiết bị lạc hậu thiếu
đồng bộ, thiếu sự hợp tác với nhau, đặc biêt thiếu sự liên kết ngang, ít có quan hệ
giữa các đơn vị và với các ngành kinh tế khác.
Yếu tố thị trường bị xem nhẹ, vì vậy công tác cải tiến kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới để nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm không được quan tâm
đầy đủ.
Chưa có biện pháp và chính sách thỏa đáng đối với tiểu thủ công nghiệp và
sử dụng các thành phần kinh tế khác để có thể khai thác có hiệu quả hơn tiềm
năng và các ngành nghề truyền thống cũng như thu hút lực lượng lao động vào
sản xuất.
Đúng như Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định, chúng ta đã đề ra
những chỉ tiêu quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi
trọng đúng sự việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công
nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung giải quyết về vấn



15
đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Trên những bài học kinh nghiệm trên ta rút ra phương hướng, biện pháp
phát triển đối với quá trình CNH, HĐH và phát triển công nghiệp nước ta.
4.2. Phương hướng phát triển công nghiệp trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Nhận thức và đánh giá đúng vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền
kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt phương pháp luận và về tổ
chức chỉ đạo thực tiễn. Từ kinh nghiệm của các nước có điểm xuất phát giống
như nước ta, phương hướng phát triển công nghiệp trong thời gian tới là:
Thứ nhất, phương hướng chủ yếu và quan trọng nhất là xây dựng một cơ
cấu kinh tế công nghiệp hợp lý. Cơ cấu công nghiệp là số lượng ngành công
nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu
hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với
nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp phản ánh những tác dụng chủ yếu sau:
Trình độ phát triển và mức độ hoàn chỉnh công nghiệp của đất nước: Công
nghiệp càng phát triển và cơ cấu càng hoàn chỉnh thì càng phát huy vai trò chủ
đạo đối với nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép xác lập nên những cân đối mới
mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn cho công nghiệp góp phần phát triển kinh tế
đất nước. Sự xuất hiện ngày càng nhiều số lượng các ngành chuyên môn hóa và
sự liên hệ giữa chúng với nhau bảo đảm cho việc sản xuất ngày càng nhiều với
chất lượng cao, các mặt hàng về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho
nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tăng cường tiềm lực kinh tế.
Trình độ năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất công
nghiệp với cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh cho ta thấy được năng suất lao động
ngày càng tăng lên. Bởi vì trong quá trình sản xuất chúng ta đã áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tận dụng hết công suất máy móc,

làm cho tốc độ tăng sản lượng lớn hơn tốc độ tăng đầu tư, giá thành sản hàng
năm hạ xuống, năng suất lao động tăng lên.


16
Việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp gắn với quá trình CNH là một nội
dung quan trọng trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Nó thể hiện mức độ hoàn
chỉnh hợp lý của sự phát triển của bản thân công nghiệp về mặt phân công lao
đông thể hiện cách thức thực hiện mối quan hệ cân đối theo những tỷ lệ nhất
định trong quá trình từng bước xây dựng một nền công nghiệp tương đối hoàn
chỉnh trong khuôn khổ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Thứ hai, để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước chúng ta phải xây dựng
một cơ cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, cân đối và hiện đại và phải phấn
đấu tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp tiên tiến, đảm bảo thỏa mãn nhu
cầu của nền kinh tế với chi phí lao động xã hội ít nhất và thời gian ngắn nhất đảm
bảo nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ sản xuất xã hội. Do đó phải kế hoạch
hóa cơ cấu của công nghiệp, cần phải biết phân loại đúng đắn các ngành công
nghiệp, phải xác định mối liên hệ sản xuất và vị trí của ngành đó cũng như những
nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công
nghiệp nhưng có sáu nhân tố cơ bản là tiến bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ và
tính chất phát triển công nghiệp, trình độ và tính chất phát triển nông nghiệp, tình
hình tài nguyên thiên nhiên, điều kiện lịch sử kinh tế chính trị xã hội và trình độ
phân công lao động quốc tế. Các nhân tố này tạo nên một hệ thống phức tạp có
quan hệ mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ
cấu ngành công nghiệp. Như vậy cơ cấu ngành công nghiệp hơp lý và có hiệu
quả phải là cơ cấu ngành đảm bảo cho năng suất lao đông xã hội tăng nhanh
thỏa mãn mục đích của nhân dân mà quy luật kinh tế cơ bản yêu cầu.
Một trong những hướng phát triển trong công nghiệp nước ta là phát triển
công nghiệp chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. Việc hình thành và
phát triển hệ thống công nghiệp chế biến không nên phân bố theo địa lý hình

thành mà nên theo vùng lãnh thổ trên cơ sở tiềm năng và ưu thế của từng vùng.
Như vậy sẽ hình thành các loại xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, chế
biến các sản phẩm nông nghiệp chế biến thủy sản.
Cùng với quá trình hình thành hệ thống công nghiệp chế biến là quá trình
phân công lại lao động trong công nghiệp, thu hút một bộ phận đáng kể lao động


17
vào hoạt động chế biến, bảo quản và vận chuyển. Đồng thời từng bưóc hoàn
thiện cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động chế biến có hiệu quả hơn. Đối với
những xí nghiệp chế biến sản phẩm xuất khẩu cần đầu tư thiết bị đông bộ và
hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, tạo lập uy tín dtrên
thị trường thế giới giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dưới dạng
nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hợp tác gia công làm hàng
xuất khẩu. Phương châm đúng là tận dụng khả năng của các thành phần kinh tế,
sử dụng lao động, tạo ra sản phẩm tiêu dùng nội địa ngày càng nhiều, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nhân dân cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Mở rộng hình thức gia công, liên doanh hợp tác với nước ngoài để làm
hàng xuất khẩu là biện pháp và sách lược quan trọng nhất để từng bước hiện đại
hóa các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Chú trọng các ngành may mặc, dệt da
cao su, chất dẻo, sứ thủy tinh, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ điện tử và cơ khí nhỏ.
Trong quá trình phát triển cần sử dụng nhiều loại hình công nghệ, nhiều
loại quy mô khác nhau phát triển rộng khắp ở trong nước với sự tham gia của
các thành phần kinh tế, hình thành một số khu chế xuất do nước ngoài đầu tư
kinh doanh.
Công nghiệp năng lượng nhiên liệu là ngành công nghiệp nước ta có nhiều
tiềm năng. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho ngành này, đặc biệt là năng lượng điện.
Trong thời gian tới chúng ta vẫn phát triển mạnh nguồn điện, ưu tiên thủy điện,
bảo đảm sự đồng bộ và chất lượng của hệ thống truyền tải phân phối và thiết bị

bảo vệ để giảm bớt mức tổn hao điện, đáp ứng nhu cầu điện ở Miền trung và
Miền Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong việc thăm dò và
khai thác, chế biến dầu khí. Tiếp tục xây dựng và phát triển công nghiệp lọc dầu,
sản xuất một số sản phẩm từ dầu khí. Từng bước đưa ngành dầu khí thành ngành
công nghiệp mũi nhọn của đất nước.
Đối với công nghiệp cơ khí, trước hết cần sắp xếp lại các xí nghiệp hiện có.
Những xí nghiệp làm ăn thua lỗ, chất lượng kém, cần được tổ chức lại một cách


18
thích hợp, Trọng tâm của ngành là sản xuất các loại phụ tùng, linh kiện thaty thế
nhập khẩu để trang bị và sửa chữa cho các ngành khác chế tạo các loại thiết bị
canh tác nhỏ thích hợp với nhu cầu và quy mô sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Sản xuất các loại thiết bị chế biến nông lâm sản và các loại dịch vụ kỹ thuật
khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác với nước ngoài sản xuất, lắp ráp
một số máy móc và thiết bị hiện đại có nhu cầu lớn, hoặc để xuất khẩu, trong đó
coi trọng ngành sửa chữa và đóng tàu thủy.
Công nghiệp điện tử và tin học là một trong những ngành còn mới và non
trẻ ở nước ta nhưng đa mang lại hiệu quả đáng kể do đã biết đi tắt đón đầu. Vì
vậy cần có sự lựa chọn và phát huy hơn nưa năng lực và công nghệ trong nước
kết hợp mở rộng ra thị trường ngoài nước. Tranh thủ hợp tác quốc tế để phát
triển công nghệ cao hướng vào đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc an ninh –
quốc phòng, bảo vệ vùng trời, vùng Biển toàn vẹn lãnh thổ đồng thời nâng cao
phương tiện kiểm toán, giám sát kinh tế, đồ điện tử dân dụng.
Phát triển công nghiệp nguyên liệu, vật liệu áp dụng công nghệ và quy mô
thích hợp với điều kiện tài nguyên khoáng sản của ta, Trong thập kỷ tới phát
triển sản xuất một số sản phẩm hóa chất cơ bản như xút, Sôda, axítsunphuric....
Mở rộng khai thác Apatit và tăng sản lưọng sản xuất phân lân, thuốc trừ sâu, vật
liệu xây dựng, một số kim loại chủ yếu. Hợp tác với nước ngoài khai thác chế

biến đất hiếm, bôxit quặng sắt, vật liệu xây dựng cao cấp, đáp ứng yêu cầu cho
xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đảm bảo kết hợp giữa công nghiệp
dân dụng và công nghiệp quốc phòng để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,
vừa tăng cường tiềm lực phát triển đất nước.
Việc xác định phương hướng và biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp theo hướng CNH, HĐH phải quán triệt quan điểm hiệu quả,
quan điểm định hướng CNH nền kinh tế mà nội dung cơ bản của nó là chuyển từ
trạng thái công nghiệp lạc hậu với năng suất lao động thấp lên công nghiệp tiên
tiến với năng suất lao động cao trong tất cả các ngành.


19
Việc quán triệt các quan điểm đòi hỏi phải hình thành một cơ cấu công
nghiệp có lựa chọn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH ở nước ta cơ cấu đó
có thứ tự ưu tiên là ngành công nghiệp chủ yếu, ngành công nghiệp mũi nhọn và
các ngành công nghiệp khác.
Ngành công nghiệp chủ yếu là ngành có vị trí hàng đầu trong phát triển
công nghiệp. Ngành chế biến lương thực, thực phẩm là ngành công nghiệp chủ
yếu trong giai đoạn này. Trong thời kỳ 1986-1991 ngành này vẫn giữ được tỷ
trọng 22%-28% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và cho đến nay vẫn là
ngành quan trọng. Ngành công nghiệp dệt may: chiếm khoảng 12%-15% giá trị
tổng sản lượng công nghiệp. Ngành công nghiệp năng lượng: trước đây là ngành
không quan trọng nhưng những năm gần đây nó sẽ là ngành quan trọng. Năm
1991 chiếm khoảng 12,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong đó điện lực
2,37% và công nghiệp nhiên liệu 7,42%. Riêng ngành dầu khí, dự kiến tốc độ
phát triển bình quân mỗi năm sẽ trên 20%. Công nghiệp cơ khí và công nghiệp
hóa chất hiện là các ngành giữ vị trí chủ yếu trong công nghiệp, mỗi ngành
chiếm trên dưới 10% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Những năm gần đây
đang có xu hướng chững lại và giảm dần do có khó khăn về thị trường tiêu thụ,

công nghệ và vốn đầu tư.
Những ngành công nghiệp mũi nhọn là các ngành có tốc độ phát triển cao,
quy mô lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, có sản phẩm ngày càng nhiều, chất
lượng cao xâm nhập vào thị trường thế giới góp phần lớn cho ngân sách Nhà
nước. Ngành mũi nhọn thường là ngành dựa khả năng khai thác tài nguyên sử
dụng, trình độ tay nghề cao của người lao động và cũng có thể dựa vào các biện
pháp huy động vốn đầu tư của nước ngoài để phát triển sản xuất và ứng dụng
khoa học hiện đại.
Công nghiệp khai thác và chế dầu khí: dựa vào khả năng tài nguyên và khả
năng thu hút vốn, kỹ thuật từ nước ngoài, có khả năng xuất khẩu lớn. Công
nghiệp chế biến lương thực (gạo là chủ yếu) và thủy sản, ta có khả năng sản xuất
thị trường tiêu thụ đang mở rộng. Công nghiệp điện tử: có đội ngũ lao động kỹ
thuật đông đảo, có khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế.


20
Công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng: nước ta sẵn tài nguyên, thị
trường trong và ngoài nước đang có nhu cầu lớn.
Những ngành công nghiệp khác là những ngành có vị trí khác nhau trong
cơ cấu nông nghiệp. Đối với nước ta trong giai đoạn đầu quá trình CNH, HĐH
việc phát triển các ngành này phải nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân
dân, bao gồm cả hàng thay thế nhập khẩu, thỏa mãn nhu cầu tư liệu sản xuất
cho nông, lâm, ngư nghiẹp và công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất hàng sản
xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm cho người lao động và nhu cầu khác.
Với cơ cấu công nghiệp như trên, chúng ta không lựa chọn một kiểu chiến
lược đơn thuần hướng ra xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu mà là sự kết hợp một
cách tối ưu hai hướng đó trong một nền kinh tế mở, giao lưu thông suốt trong
nước và liên kết hợp tác hòa nhập với bên ngoài.
Tùy những điều kiện cụ thể chúng ta áp dụng những công nghệ và quy mô
thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động tạo ra những sản phẩm và đạt hiệu quả

kinh tế - xã hội cao. Thời gian trước mắt chúng ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn
thử thách gay go và những tác động của diễn biến quốc tế phức tạp. Do song quá
trình phát triển, chúng ta cần tính toán đến tất cả các yếu tố nói trên để tìm ra
hướng đi cũng như các giải pháp hữu hiệu trong thế chủ động bằng nguồn lực và
các yếu tố mà mình có thể làm ra và tự chủ được để không ngừng phát triển kinh
tế đất nước, thực hiện tốt các mục tiêu của chiến lược ổn định, phát triển kinh tế
- xã hội và Đảng đã đề ra.
KẾT LUẬN
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu công nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH phát triển kinh tế ở Việt Nam là quá trình cụ thể hóa những quan
điểm cơ bản, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc vận dụng
các quy luật khách quan vào điều kiện cụ thể của đất nước. Trong quá trình
CNH, HĐH đất nước như nước ta hiện nay, việc phát triển công nghiệp là một
yếu tố hàng đầu, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Công
nghiệp ngày nay giữ một vai trò quan trọng, là ngành kinh tế chủ đạo trong nền


21
kinh tế quốc dân do vậy nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành
khác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp đã có sự thay
đổi và sự thay đổi đó ngày càng hợp lý hơn, phù hợp hơn và ngày càng có nhiều
đóng góp cho nền kinh tế phát triển.
Từ nhận thức được vai trò to lớn của công nghiệp, chúng ta thấy rằng phát
triển công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH đất nước là tất yếu khách quan. Có
phát triển công nghiệp mới đẩy mạnh được quá trình công nghiệp hóa và quá
trình CNH, HĐH chỉ thực hiện được khi có sự phát triển công nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng vào việc
phát triển công nghiệp mà mục tiêu là chuyển dịch cơ cấu công nghiệp hợp lý.
Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều định hướng và biện pháp để công nghiệp hóa
đất nước theo hướng chuyển dịch đó. Đây cũng chính là quan điểm chiến lược

trong đường lối phát triển nền kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động
quyết định hiệu quả của nền sản xuất xã hội nhằm phát triển công nghiệp Việt
Nam theo hướng CNH, HĐH đất nước. Chúng ta tin tưởng và hy vọng trong
chặng đường tiếp theo công nghiệp sẽ ngày càng phát triển đưa nước ta tiến kịp
với các nước công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Với những thành tựu đạt được
trên bước đường vừa qua, với kinh nghiệm được tích luỹ trong chặng đường
xây dựng và phát triển thì mục tiêu đưa Đất nước trở thành một nước công
nghiệp phát triển chắc chắn sẽ trở thành hiện thực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng khóa III, IV, V, VI,
VII, VIII, IX, X, XI.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1991; 2011
3. Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb ĐH KTQD HN.2005
4. Giáo trình Kinh tế chính trị – tập 2, Nxb CTQG . HN. 2008


22
5. Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb ĐH KTQD HN.2012
6. Kinh tế công nghiệp, ĐH TCKT Hà Nội -1997
7. Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb ĐH KTQD HN.2005
8. Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb ĐH TC HN.2013



×