Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bàn về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.74 KB, 9 trang )

Bàn về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự
năm 2015
14/09/2017
Bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây
ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ  thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi
thường cho bên bị  thiệt hại. Theo quy  định tại Điều 275 BLDS năm 2015, một
trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “ gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ
ba BLDS năm 2015 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong
trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ  của bên gây thiệt
hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH)
ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH tạo
ra quan hệ  nghĩa vụ  tương  ứng. Căn cứ  phát sinh trách nhiệm BTTH là cơ  sở
pháp lý mà dựa vào đó, cơ  quan nhà nước có thẩm quyền có thể  xác định trách
nhiệm
 
BTTH.
          Theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015:  “Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”.  Qua nghiên
cứu có thể  thấy, BLDS năm 2015 đã quy định về  căn cứ  làm phát sinh trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho bên bị  thiệt hại. Theo đó,
trách   nhiệm   BTTH   ngoài   hợp   đồng   phát   sinh   khi   có   các   điều   kiện:
Một là, có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố  cấu thành trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH chỉ  phát sinh khi có sự  thiệt hại về  tài sản
hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự  mất mát hoặc giảm sút
về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán
được thành một số  tiền nhất định. Thiệt hại về  tinh thần được hiểu là do tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị  xâm phạm mà người bị  thiệt hại


phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín,
tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất

 
họ
 
phải
 
chịu.
Hai là, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong
trách nhiệm dân sự  là những xử  sự  cụ thể của chủ thể được thể  hiện thông qua
hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: Làm những việc mà pháp luật cấm,
không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn
pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Ba là, có mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả  tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là
nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu
có tính quy luật chứ  không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ  là kết quả  tất yếu của
hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ  thể  khi xảy ra
chứa   đựng   một   khả   năng   thực   tế   làm   phát   sinh   thiệt   hại.


Nếu như BLDS năm 2005 nêu ra 3 nguyên tắc cơ bản về BTTH ngoài hợp đồng,
được quy định tại Điều 605[1] thì BLDS năm 2015 chỉ ra 5 nguyên tắc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, ngoài 3 nguyên tắc bồi thường như Điều 605 BLDS năm
2005   thì   BLDS   năm   2015   đã   bổ   sung   thêm   2   nguyên   tắc:
+ Khi bên bị  thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần   thiệt   hại   do   lỗi   của   mình   gây   ra.

+ Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra
do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
cho
 
chính
 
mình.
Cụ  thể, nguyên tắc bồi thường thiệt hại,  Điều 585 BLDS năm 2015, quy định:
“1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về  mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường   hợp   pháp   luật   có   quy   định   khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể  được giảm mức bồi thường
nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên
gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ  quan nhà nước có thẩm quyền
khác
 
thay
 
đổi
 
mức
 
bồi
 
thường.
4. Khi bên bị  thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần   thiệt   hại   do   lỗi   của   mình   gây   ra.

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra
do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
cho
 
chính
 
mình.”
Nghiên   cứu   nội   dung   quy   định   có   tính   nguyên   tắc   trên,   có   thể   hiểu:
Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có
thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các
bên về  mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu
thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần
chú
 
ý:
Một là, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ,  có nghĩa là khi có yêu cầu
giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm,… phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS
năm 2015 quy định trong trường hợp cụ  thể  đó thiệt hại bao gồm những khoản
nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây
thiệt hại  phải  bồi thường các khoản  thiệt hại tương xứng   đó. Tuy nhiên trong
nhiều trường hợp, việc xác định đâu là thiệt hại thực tế  còn có quan điểm khác
nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến không chỉ  khó khăn trong việc
xác định trách nhiệm hình sự mà còn cả trong trách nhiệm dân sự của người gây
ra   thiệt   hại.   Dưới   đây   là   một   trong   nhiều   trường   hợp   thực   tế   sau:   Ngày
01/02/2017, Nguyễn Văn A mang cưa lốc hiệu STIL 381 vào khoảnh 4 tiều khu
706 thuộc thôn I  xã P là rừng đặc dụng đã cưa hạ  10 cây gỗ  rồi quay về, với ý



định chờ cây khô sẽ thuê người cưa xẻ kéo về  làm nhà ở. Ngày 14/2/2017, Trạm
kiểm lâm L kiểm tra phát hiện và báo cáo cho Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng TM.
Qua xác minh, điều tra của cơ  quan chức năng số  gỗ  bị  đốn hạ  là loại gỗ  thuộc
nhóm III và nhóm VII, có khối lượng 35 m3 gỗ  tròn; diện tích rừng bị  thiệt hại
không đáng kể, vì các cây gỗ ngã nằm liền kề khu vực đất trống. Sau đó, Nguyễn
Văn A đã có đơn báo cáo thừa nhận hành vi trên của mình. Tại Bản kết luận định
giá tài sản số  11/KL­ĐG ngày 21/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố
tụng hình sự  huyện K, kết luận: Giá trị  thiệt hại khối lượng gỗ  do khai thác trái
phép tại khoảnh 4 tiểu khu 706 thuộc xã P, huyện K, tỉnh Q là 60.000.000 đồng và
thiệt hại về  môi trường không đáng kể.  Ngày 01/4/2017, Công an huyện K ra
Quyết định xử  lý vật chứng bằng hình thức chuyển giao cho hạt kiểm lâm rừng
đặc dụng TM tổ  chức thu gom số  gỗ  tròn tận thu được là 25m3, số  gỗ  còn lại
10m3 không tận thu được đã tiêu hủy. Sau khi hoàn tất thủ tục nghiệm thu, ngày
10/4/2017, Hội đồng định giá bán đấu giá 25 m3 gỗ, gồm   120 phách gỗ  xẻ  các
loại, thu được 125.000.000 đồng. Chi phí cho công tác bảo quản, xử lý bán và chi
phí liên quan việc bán tài sản là 85.000.000 đồng. Vấn đề  đặt ra, Nhà nước bị
thiệt hại thực tế  trong vụ  án này là 60.000.000 đồng theo kết luận của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện K, hay là 125.000.000 đồng theo
Hội đồng định giá bán đấu giá tài sản? Đâu là thiệt hại thực tế? Chính sự  khác
biệt quá lớn giữa con số  do Hội đồng định giá tài sản trong tố  tụng hình sự  xác
định với kết quả thu được từ Hội đồng định giá bán đấu giá, dẫn đến có các quan
điểm   khác   nhau   về   trách   nhiệm   BTTH   đối   với   Nguyễn   Văn   A.
+Quan điểm thứ  nhất, thiệt hại về  gỗ  tròn là 35m3 trong đó tận thu được 25m3
tương   đương   giá   trị   thiệt   hại   60.000.000   đồng.   Sau   khi   bán   số   gỗ   tận   thu
125.000.000 đồng, tức là đã vượt mức so với thiệt hại là 60.000.000 đồng, trong
trường   hợp   này   A   không   phải   bồi   thường.
+Quan điểm thứ hai: Theo kết luận của hội đồng định giá tài sản của huyện K, giá
trị 25m3 bị thiệt hại là 60.000.000 đồng, nhưng thực tế, qua bán đấu giá thu được

125.000.000 đồng. Như vậy, cần phải xác định thiệt hại thực tế trong vụ án này là
125.000.000 đồng để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân
sự
 

 
A
 
đã
 
gây
 
ra.
+Quan điểm thứ  ba: Trường hợp này A chỉ  phải bồi thường số  tiền 10.000.000
đồng, vì: Số  tiền bán gỗ  tận thu được 125.000.000 đồng, trừ  đi chi phí phục vụ
việc bán đấu giá 85.000.000 đồng, còn lại 50.000.000 đồng, trong khi số gỗ bị đốn
hạ  35m3, tương đương 60.000.000 đồng. Vậy, 10.000.000 đồng là thiệt hại thiệt
tế   trong   vụ   án   này,   A   có   trách   nhiệm   bồi   thường.
Tác giả  đồng tình với quan điểm thứ  ba, vì: Theo nguyên tắc thiệt hại đến đâu
phải bồi thường đến đó, tương ứng với các Điều 584, 585, 589 BLDS năm 2015.
Trong vụ  án này, Nguyễn Văn A có hành vi cưa hạ  trái phép 10 cây gỗ  tròn (gỗ
nhóm III và nhóm VII), thuộc rừng đặc dụng thuộc lâm phận quản lý của Ban quản
lý khu bảo tồn thiên nhiên TM, với khối lượng 35 m3 có giá trị  60.000.000 đồng,
trong số này, số gỗ tận thu được là 25m3, bán thu được 125.000.000 đồng, trừ đi
chi phí liên quan đến bảo quản, vận chuyển, bán đấu giá,…85.000.000 đồng. Do
vậy, thiệt hại mà A phải bồi thường chỉ  10.000.000  đồng là phù hợp. Còn nếu
như, 10 cây gỗ  mà A đốn hạ  không tận thu được khoảng tiền nào, thì rõ ràng, A
phải bồi thường toàn bộ số tiền 60.000.000 đồng như  kết luận của Hội đồng định
giá   tài   sản   trong   tố   tụng   hình   sự   của   huyện   K   là   chính   xác.



Hai là, để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh
chóng yêu cầu đòi BTTH trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có
thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp
luật   tố   tụng   để   giải   quyết   yêu   cầu   cấp   bách   của   đương   sự.
Thứ  hai, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể  được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh
tế của mình. Người gây thiệt hại chỉ có thể  được giảm mức bồi thường khi có đủ
hai   điều   kiện   song   song   với   nhau,   sau   đây:
(i).   Do   không   có   lỗi   hoặc   có   lỗi   vô   ý   mà   gây   thiệt   hại;
(ii). Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả  năng kinh tế  trước mắt và lâu dài  của
người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ  có trách nhiệm bồi thường
so với hoàn cảnh kinh tế  trước mắt của họ cũng như  về  lâu dài họ  không thể  có
khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó. Ví dụ: Ông Trần Đ
hành nghề   chạy xe ba gác với thu nhập mỗi tháng khoảng 3 đến 4 triệu đồng,
nhưng đã vô ý để  đầu các tấm tol trên xe ba gác đâm vào người anh Nguyễn
Hoàng Th., khi anh này đang đứng chờ  xe buýt trên đường. Hậu quả, anh Th. bị
tử vong sau đó tại bệnh viện. Mọi chi phí hợp lý để cấp cứu, điều trị nạn nhân; chi
phí lo mai táng; nuôi con anh Th. (hiện mới 03 tuổi); …ước tính khoảng 250 triệu.
Số  tiền này rõ ràng là quá lớn so với mức thu nhập của ông Đ đã ngoài 65 tuổi.
Trong trường hợp này, ông Đ có thể được giảm mức bồi thường bởi đáp ứng đủ
điều
 
kiện
 
nói
 
trên
Thứ  ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế  thì bên bị  thiệt hại
hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm

quyền
 
khác
 
thay
 
đổi
 
mức
 
bồi
 
thường.
Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế,  có nghĩa là do có sự
thay đổi về  tình hình kinh tế, xã hội, sự  biến động về  giá cả  mà mức bồi thường
đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự  thay
đổi về  tình trạng thương tật, khả  năng lao động của người bị  thiệt hại cho nên
mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự  thay đổi đó hoặc do có sự
thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại. Ví dụ: Tại thời điểm hai bên
thỏa thuận tài sản bồi thường là 35 chỉ  vàng 24K, nhưng thời gian sau đó, giá
vàng trong nước đột biến tăng mạnh, từ đó, so với thời điểm thỏa thuận, làm cho
người vi phạm khó có thể  thực hiện nghĩa vụ  bồi thường. Như  vậy bên gây thiệt
hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ  quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi
mức
 
bồi
 
thường
 
cho

 
phù
 
hợp. 
Thứ  tư, khi  bên  bị  thiệt hại có  lỗi  trong  việc gây  thiệt hại thì  không được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Với lý lẽ  công bằng, gây thiệt hại
đến đâu bồi thường đến đó, nhưng trong nhiều trường hợp bên bị  thiệt hại lại là
bên có phần lỗi dẫn đến thiệt hại. Luật quy định bên bị thiệt hại sẽ không được bồi
thường   phần   thiệt   hại   do   lỗi   của   mình   gây   ra.   Vậy,   thiệt   hại   không   được   bồi
thường ở đây được hiểu như thế nào cho đúng? Với trường hợp mỗi bên đều có
lỗi cố  ý, đều bị  thiệt hại về  tài sản, sức khỏe,… thì không có gì đáng nói. Nhưng
với trường hợp, cả 2 bên đều có lỗi cố ý, nhưng thiệt hại mà bên bị thiệt hại gây ra
cho bên gây thiệt hại không đáng kể  (có thiệt hại xảy ra nhưng không lớn), còn
thiệt hại mà bên gây ra thiệt hại cho bên bị thiệt hại tính toán được bằng con số cụ
thể, thì vấn đề  đặt ra, Tòa án có xem xét mức độ  lỗi của bên bị  thiệt hại khi  ấm
định mức BTTH đối với bên gây ra thiệt hại không? Xoay quanh vướng mắc này,


thực   tế   thường   xảy   ra   hai   trường   hợp   sau:
Một là, thiệt hại hoàn toàn do người bị thiệt hại gây ra, như vậy, người bị thiệt hại
sẽ  không nhận được bồi thường, tức là người gây ra thiệt hại không có lỗi thì họ
không   phải   BTTH.   Ví   dụ:   Một   người   cố   ý   lao   vào   ô   tô   để   tự   tử;..
Hai là, thiệt hại một phần do người bị  thiệt hại gây ra, còn một phần do lỗi của
người gây thiệt hại, như vậy, người bị thiệt hại vẫn được bồi thường phần thiệt hại
không phải do lỗi của mình. Nghĩa là, họ vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với
mức độ  lỗi của mình. Trong trường hợp này, Tòa án cần xác định rõ mức độ  lỗi
của mỗi bên để ấn định trách nhiệm bồi thường cho tương xứng. Vì người bị thiệt
hại cũng có lỗi, và chính yếu tố lỗi của họ là là chất xúc tác, là nguyên nhân, dẫn
phản ứng tiêu cực của bên gây ra thiệt hại và hậu quả thực tế xảy ra, nhưng họ lại
là người bị thiệt hại, do vậy, họ phải tự “ bồi thường” cho mình tương ứng với mức

độ  lỗi đó. Tuy nhiên, việc xác định mức độ  lỗi của người gây thiệt hại trong thực
tiễn giải quyết án không phải dễ, nhất là việc phân chia tỉ  lệ  % thiệt hại xảy ra
trong những trường hợp “hỗn hợp lỗi”, như: Phạm tội thuộc trường hợp tinh thần
bị kích động do hành vi trái pháp luật của người bị thiệt hại hoặc người khác gây
ra hoặc thiệt hại xảy ra thuộc trường hợp người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định
tương  ứng tại các điểm đ, c khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ  sung
năm 2009) hoặc chỉ đơn thuần là người bị hại có lỗi, trong các vụ án về giao thông
hay khi Tòa án xét xử về tội “ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ” (Điều 105); tội “Cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng
 
vệ
 
chính
 
đáng”
 
(Điều
 
106).
BLDS năm 2015 đã có hiệu lực thi hành từ  ngày 01/01/2017, trước đó, Bộ  Tư
pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã biên soạn nhiều tài liệu về  những nội
dung cơ  bản và  quy định mới trong BLDS này để  tuyên truyền trong nhân dân;
tập huấn chuyên sâu cho cán bộ  làm công tác tư  pháp trong phạm vi cả  nước.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định về  nguyên tắc bồi thường thiệt hại (Điều
585 BLDS năm 2015) của các cơ  quan tư  pháp nói chung, một số  Tòa án địa
phương nói riêng cho thấy về vấn đề này chưa có sự thống nhất về nhận thức và
áp dụng, từ  đó, tạo ra có sự  khác biệt trong đường lối xử  lý, dẫn đến tính pháp

chế  xã hội chủ  nghĩa không được đề  cao. Tác giả  một số  trường hợp, trong rất
nhiều trường hợp tương tự  mà Tòa án đã xet xử  để  minh chứng cho nhận định
này.
+Trường hợp thứ  nhất: Tại tiệc liên hoan cuối năm tổ  chức tại Công ty X, giữa
Trần Văn M. và Đặng Thành H. (đều là công nhân của Công ty, trụ  sở  số  17,
Nguyễn An Ninh, phường Kiến Hải, thành phố  M, tỉnh T) trong tiệc rượu anh H.
hay nói chuyện lớn tiếng, quơ tay nên anh M. góp ý, từ  đó, phát sinh việc cự cãi,
nhưng được mọi người can ngăn và cuộc vui tiếp tục đến 21 giờ thì giải tán. Trên
đường về  nhà, anh M. dừng xe Honda ghé vào tiệm tạp hóa ven đường mua
thuốc hút. Khi vừa định bước vào tiệm, thì bất chợt từ phía sau lưng, anh H. dùng
tay đấm mạnh vào mặt Đ., làm Đ. té xuống đóng gạch bê tông cạnh đó. Liền lúc
này, hai tay của Đ. cầm cục gạch có kích thước 25 x 19 x 12cm ném thẳng vào
người H. đứng cạnh đó chừng 02 mét. Hậu quả, anh H. bị gãy hỡ 3 xương sườn
bên trái và nhiều xây xát vùng hông trái. Riêng anh M. chỉ  bị  bầm   mặt bên phải


không đáng kể. Tỉ  lệ tổn thương cơ thể của anh H. qua giám định 13%. Tại Bản
án hình sự  sơ  thẩm số 17/2016/HSST ngày 27/4/2017 của của TAND thành phố
M. đã tuyên phạt Trần Văn M. 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Ngoài việc
áp dụng quy định về  bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại, HĐXX còn áp
dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 để “giảm” mức bồi thường thiệt hại do
phía anh Đặng Thành H. có “lỗi” nên không được bồi thường thiệt hại do lỗi của
mình
 
gây
 
ra.
+Trường hợp thứ hai: Anh Phạm Huỳnh H. và chị Võ Quế M. đang ngồi tâm sự tại
công viên của khu dân cư  T, phường K, thị xã B, tỉnh T. Khoảng 20 giờ 20 phút,
Lê Phúc Ng. điều khiển xe đạp chạy lòng vòng khu vực công viên và trêu chọc

nhiều người, trong đó có anh H. và chị M. Khi bị anh H. phản ứng thì Ng. lớn tiếng
đe dọa, sau đó, anh H. và chị  M. lên xe đi về. Đến đoạn rẽ  ra Quốc lộ  72, thì bị
Trần Hữu Đ. chặn xe lại; Ng. từ  trong lề  đường bước ra, gây sự  với H.. Kế  đến,
Ng. tát mạnh vào mặt của H., là anh bị té ngã xuống đường; Ng. còn lấy chiếc nón
bảo hiểm của H. để   ở  xe ném về  chổ  H. nhưng không trúng, rồi đi về  phía Đ.
đang ngồi trên xe Honda cách đó chừng 5 m. Liền lúc này, H. đứng dậy, rút con
dao Thái Lan (lưỡi 02cm x 15cm; cán dao màu vàng) trong túi quần, chạy theo
đâm vào vai phải phía sau, rồi lên xe chở  M. về  nhà. H. được Đ. đưa đến bệnh
viện cấp cứu điều trị vết thương, 07 ngày sau ra viện. Tỉ lệ tổn thương cơ thể của
Ng. qua giám định 16% . Tại Bản án số 08/2017/HSST ngày 15/5/2017 của TAND
thị xã B, xử phạt Phạm Huỳnh H. 18 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”, đồng
thời buộc bồi BTTH cho Ng. số tiền gần 22 triệu đồng, dù áp dụng tình tiết “ người
bị hại có lỗi” khi lượng hình phạt, nhưng HĐXX không áp dụng khoản 4 Điều 585
BLDS năm 2015 khi xem xét quyết định trách nhiệm dân sự  BTTH đối với H..
+Trường hợp thứ  ba: Trần Minh L. do thiếu quan sát khi điều khiển mô tô qua
đường, dẫn đến va chạm giữa xe mô tô do Trần Văn Th. điều khiển, làm cả 02 xe
bị ngã, L. và Th. đều bị xây xát nhẹ. Tuy nhiên, L. không thừa nhận lỗi của mình,
nên buộc Th. bồi thường cho mình số  tiền 800.000 đồng để  sửa chữa xe. Th.
không đồng ý và đề nghị báo Cảnh sát giao thông để giải quyết. Thấy vậy, L. dùng
nón bảo hiểm của mình xông vào đánh trúng mặt và đầu của Th. gây chảy máu.
Phản  ứng lại, Th. rút cập côn nhị  khúc từ  trong ba lô, đánh trả  lại gây ra các vết
thương vùng mặt,  đầu và hông trái của L.. Tại Bản kết luận giám định pháp y về
thương tích số  129/2017/TgT, tỉ  lệ  tổn thương cơ  thể  của L. 32%; B ản kết luận
giám định pháp y về thương tích số 130/2017/TgT, tỉ lệ tổn thương cơ thể của Th.
11%. L. yêu cầu Th. bồi thường cho mình số  tiền 91.380.000 đồng. Th. cũng có
đơn yêu cầu L. BTTH số tiền 17.090.000 đồng. TAND huyện B đã lần lượt xét xử
02 vụ án này. Theo đó, tại Bản án số 12/2017/HSST, Tòa nhận định L. là người có
lỗi và áp dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 để  tuyên buộc bị  cáo Th. bồi
thường cho L. số tiền 45.900.000 đồng. Tại Bản án số  14/2017/HSST, Tòa nhận
định lỗi hoàn toàn thuộc về  bị  cáo L. và tuyên buộc bồi thường cho Th. số  tiền

15.090.000
 
đồng.
Đối với trường hợp thứ  ba có lẽ  không phải bàn luận gì thêm vì quá rõ, hành vi
gây thiệt hại của mỗi bên được HĐXX xem xét đánh giá mức độ  lỗi ở  từng vụ án
là khác nhau, nên có sự lựa chọn áp dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 cho
phù hợp. Tuy nhiên, từ  kết quả  xét xử  02 vụ  án thuộc trường hợp thứ  nhất và
trường hợp thứ hai của cấp xét xử sơ thẩm thuộc TAND tỉnh T, cho thấy, giữa 02
vụ  án này có điểm chung giống nhau, đó là, người bị  thiệt hại đều có lỗi và bên


gây ra thiệt hại, thực tế không bị thiệt hại gì đáng kể do hành vi có lỗi của người bị
thiệt hại gây ra. Nhưng với trường hợp thứ nhất, HĐXX của TAND thành phố  M,
đã áp dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 để ghi nhận bên bị thiệt hại có lỗi,
buộc bên gây thiệt hại chỉ phải bồi thường tương  ứng mức độ lỗi của mình gây ra
bồi thường số tiền 11.700.000 đồng trên tổng số thiệt hại 19.500.000 đồng (tương
ứng tỉ  lệ  6/4). Với trường hợp thứ hai, HĐXX TAND thị  xã B, tỉnh T lại không áp
dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015, theo đó, Bản án số  08/2017/HSST có
nhận định: “Tuy người bị hại có lỗi, nhưng thực tế  không gây ra thiệt hại gì đáng
kể cho bị  cáo và bị  cáo cũng không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không phát
sinh   nghĩa   vụ   bồi   thường   thiệt   hại   cho   H….”
Từ  thực tiễn xét xử, xoay quanh quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015,
nhiều   ý   kiến   đồng   tình   với   quan   điểm   của   HĐXX   thể   hiện   tại   Bản   án   số
08/2017/HSST của TAND thị xã B, đó là: Khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015, chỉ
có thể được áp dụng khi và chỉ khi chứng minh được rằng có thiệt hại thực tế xảy
ra do phía bên bị thiệt hại đã gây ra cho người gây ra thiệt hại. Nghĩa là, phải có
thương tích cụ thể hoặc thiệt hại về vật chất mà có thể  cân, đông, đo đếm được.
 Ngược lại, cũng không ít người cho rằng, với trường hợp thứ hai, HĐXX không
áp dụng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 là không đứng về lẽ phải, không bảo
đảm sự  công bằng, bởi, nếu như  Lê Phúc Ng. không có hành vi đánh H. làm té

ngã xuống đường, mặc dù, tát tay đó không gây ra thương tích gì, nhưng không
có   nghĩa   là   không   có   thiệt   hại   xảy   ra.   Suy   cho   cùng,   Ng.   là   người   có   lỗi.
Tác giả đồng tình với quan điểm này. Thực tế có nhiều trường hợp người bị thiệt
hại có lỗi và lỗi này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả  mà họ  phải gánh
chịu do người phạm tội gây ra. Chẳng hạn, Nguyễn Văn C. và Trần Thị Ph. đều ở
cùng thôn, dù biết rằng chị  Ph. là vợ  của anh Nguyễn Văn Q., nhưng mỗi khi ra
đường gặp Ph., C. đều buông lời ve vãn, tán tỉnh. Tại tiệc cưới bạn của hai người
vào đêm 20/2/2017, lợi dụng đêm tối và chỗ đông người, C. cố ý đụng chạm vào
những vùng nhạy cảm trên thân thể của Ph., dù bị Ph. phản ứng quyết liệt nhưng
C. vẫn không buông tha. Không kiềm chế được sự tức giận, Q. cầm chai thủy tinh
đựng rượu (dung tích 75ml) đánh mạnh vào đầu C.. Tỉ  lệ  tổn thương qua giám
định 12%. Trường hợp này, rõ ràng C. là người có lỗi vì đã đẩy tinh thần của Q.
vượt lên mức bình thường, nghĩa là, chính hành vi của C. là nguyên nhân trực
tiếp làm cho tinh thần của Q. bị kích động. Tuy nhiên, có ai chứng minh được rằng
thiệt hại thực tế về danh dự mà Ph. phải gánh chịu do bị C sàm sỡ  tương ứng là
bao nhiêu? Nếu không cân, đong, đo, đếm được thì liệu Tòa án có áp dụng khoản
4 Điều 585 BLDS năm 2015 khi Tòa án xét xử để ấn định trách nhiệm dân sự đối
với Q. không? Nếu Tòa án không áp dụng, rõ ràng pháp luật không được các cơ
quan   thực   thi   pháp   luật   tuân   thủ   triệt   để.
Điều 617 BLDS năm 2005 có quy định về  bồi thường thiệt hại trong trường hợp
người bị  thiệt hại có lỗi:“Khi người bị  thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại
thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương  ứng với m ức độ lỗi
của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây
thiệt hại không phải bồi thường.”. Một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt
trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Bộ luật dân sự năm 2015, là ghi nhận và bảo
vệ  tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự  ; bảo đảm
tính kế  thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật
dân sự. Nội dung quy định tại Điều 617 BLDS năm 2005, được nhà làm luật sắp



xếp lại theo hướng phù hợp hơn với cơ  cấu từng điều trong bộ  luật mới, do vậy,
có thể  thấy, nội dung khoản 2 Điều 584 và khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015
chính là nội dung quy định của Điều 617 BLDS năm 2005. Do vậy, theo tác giả,
quan điểm cho rằng khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 là quy định mới được bổ
sung, điều kiện áp dụng phải có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra đối với bên gây ra
thiệt   hại   trong   trường   hợp   người   bị   hại   có   lỗi   là   chưa   thật   sự   phù   hợp.
Lỗi không tự  nó có vị  trí độc lập với các yếu tố  khác trong việc xác định trách
nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi cũng không phải là không thể  xác
định. Theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng, phía bên
gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho phía bên bị thiệt hại
thì người đó thì phải bồi thường toàn bộ  thiệt hại do hành vi có lỗi của mình gây
ra. Không vì người gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý trong khi gây thiệt hại mà
mức bồi thường tăng hay giảm tương  ứng theo tính chất lỗi, mà không xem xét
thêm các yếu tố khác. Tương tự như vậy, cũng không vì lý do thiệt hại thực tế mà
bên bị  thiệt hại gây ra cho phía bên gây thiệt hại không đáng kể  (có thiệt hại
nhưng không lớn), thì buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, dù người
bị  thiệt hại có lỗi do cố  ý. Vì như  vậy sẽ  mâu thuẫn ngay chính trong phán quyết
của HĐXX, đó là, khi lượng hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ :người bị
hại có lỗi”, nhưng khi xem xét đến trách nhiệm dân sự của bên gây ra thiệt hại (bị
cáo), thì lại không đề  cập đến quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015.
Trường hợp người bị  thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì người gây
thiệt hại chỉ  phải bồi thường tương  ứng với mức độ  lỗi của mình. Trong BLDS
năm 2015, không có quy định cụ  thể  về  mức độ  lỗi, vì vậy, việc xác định trách
nhiệm dân sự “hỗn hợp lỗi”trong trường hợp cả  người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương
ứng với mức độ lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa
trên những cơ  sở  lý luận pháp luật hình sự  trong việc phân biệt mức độ  lỗi vô ý
hoặc lỗi cố  ý của một người mà gây ra thiệt hại thì tương  ứng với nó mức bồi
thường thiệt hại có khác nhau. Như cách đặt vấn đề ở phần trên, lỗi phản ánh yếu
tố  tâm lý của con người, có tác động trực tiếp đến hành vi của người đó và thiệt

hại xảy ra do hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự  tin hoặc cố  ý trực tiếp, cố  ý
gián tiếp gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý chủ  quan của người đó. Việc
xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ  vào mức độ  lỗi của mỗi bên đã có tính
thuyết   phục,   bởi   tính   hợp   lý   của   cách   xác   định   đó.
Từ   những   phân   tích   trên,   theo   quan   điểm   của   tác   giả:
i). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị  thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý
hay cố ý, mà bên gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì bên gây thiệt hại không
phải
 
bồi
 
thường.
ii). Bên gây thiệt hại có lỗi vô ý, bên bị thiệt hại rõ ràng có lỗi cố ý thì bên gây thiệt
hại
 
không
 
phải
 
bồi
 
thường.
iii). Bên gây thiệt hại và bên bị  thiệt hại đều có lỗi cố  ý trong việc gây ra thiệt hại
thì trách nhiệm dân sự  phải được xem xét theo hướng mức độ  bồi thường thiệt
hại   tương   ứng   với   mức   độ   lỗi   của   mỗi   bên.
Thứ  năm, bên có quyền, lợi ích bị  xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt
hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để  ngăn chặn, hạn
chế
 
thiệt

 
hại
 
cho
 
chính
 
mình.
Quy định này đễ  thấy nhất khi hành khách di chuyển bằng đường hàng không.


Theo đó, phía bên cung cấp dịch vụ vận chuyển sẽ không chịu bất kỳ trách nhiệm
nào về  thiệt hại đối với vật dụng bị  cấm theo qui định mà do hành khách mang
theo trong hành lý; hoặc trong hành lý ký gửi của hành khách bao gồm: Thiệt hại
đối   với   các   đồ   vật   dễ   vỡ,   hàng   mau   hỏng   (đồ   tươi   sống,   thực   phẩm   dễ   hư
hỏng…), tác phẩm nghệ  thuật, máy  ảnh, máy quay phim, tiền, đồ  trang sức, kim
loại quí, đồ  làm bằng bạc, đá quí, thuốc chữa bệnh, hàng hoá nguy hiểm, máy
tính, các thiết bị điện tử, giấy tờ có giá trị chuyển đổi thành tiền, chứng khoán, tài
liệu đàm phán, hợp đồng, tài liệu kinh doanh, hàng mẫu, hộ chiếu, giấy tờ tùy thân
khác, … để trong hanh ly ky gửi ma không khai bao vận chuyển theo dạng hanh ly
co gia trị cao và thi ệt hại đối với các đồ  vật tương tự  khác cho dù phía bên cung
cấp dịch vụ có biết hay không biết. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của chính mình,
theo quy định tại khoản 5 Điều 585 BLDS năm 2015, hành khách có thể  kê khai
giá trị hoặc có thể tự mua thêm bảo hiểm riêng cho hành lý của mình trong trường
hợp giá trị thực tế hoặc chi phí thay thế của hành lý ký gửi hoặc hành lý xách tay
vượt   quá   mức   giới   hạn   trách   nhiệm   của   phía   nhà   cung   cấp   dịch   vụ. 
 
Ths.LS Lê Văn Sua
 
 

   
 
[1] Điều   605. Nguyên   tắc   bồi   thường   thiệt   hại
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ  và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện
một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều l ần, tr ừ tr ường h ợp
pháp
 
luật
 

 
quy
 
định
 
khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt   hại   quá   lớn   so   với   khả   năng   kinh   tế   trước   mắt   và   lâu   dài   của   mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ  quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường



×