Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ lý LUẬN HÀNG hóa sức LAO ĐỘNG TRONG tác PHẨM tư bản của các mác, và VIỆC vận DỤNG lý LUẬN đó vào PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.08 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
“Tư bản” là công trình khoa học nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản (CNTB)
thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước Anh từ
thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và vạch rõ những mâu thuẫn trong lòng CNTB
tất yếu sẽ thúc đẩy nó quá độ lên một phương thức sản xuất cao hơn. Những nội
dung của nó cung cấp cho người đọc không chỉ những tri thức về phương thức
sản xuất TBCN, về kinh tế thị trường TBCN mà cả nhiều tri thức chung về kinh
tế chính trị, về triết học và xã hội học v.v…
Ngày nay tình hình đã thay đổi rất nhiều so với khi C.Mác viết tác phẩm
“Tư bản”, vì vậy nhiều tư liệu lịch sử cụ thể lúc bấy giờ là đúng thì bây giờ lại
không thích hợp nữa. Nhưng nhiều nguyên lý, nhiều quy luật kinh tế C.Mác đã
phát hiện, như những quy luật về sản xuất và lưu thông hàng hoá, về sản xuất giá
trị thặng dư, về lợi nhuận, về thương nghiệp, tín dụng, ngân hàng, về cơ chế thị
trường tự do cạnh tranh, về khủng hoảng kinh tế v.v..., đặc biệt là lý luận về hàng
hóa sức lao động, vẫn mang tính khoa học và ý nghĩa thực tiễn đến tận bây giờ.
Đối với nước ta, trong suốt mấy chục năm tồn tại nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, ở nước ta, thị trường lao động với tư cách là một bộ phận cấu
thành của thị trường, các yếu tố sản xuất đã không được công nhận. Điều này có
nguồn gốc từ các thành kiến mang tính nhận thức về hàng hóa sức lao động, về
việc làm, về thất nghiệp. Trong đó, quan điểm về sức lao động là hàng hóa, có
thể mua, bán, trao đổi được coi là một điều cấm kỵ. Phân bổ lao động được thực
hiện chủ yếu bằng sự điều động của nhà nước, thông qua các biện pháp hành
chính, mệnh lệnh, rất ít khi tính đến các nhu cầu của thị trường. Các quyết định
liên quan đến nguồn lao động, nhất là các quyết định về phân bổ lực lượng lao
động, về luân chuyển lao động, chủ yếu được thực hiện nhằm mục tiêu giải
quyết các vấn đề về công bằng xã hội hơn là chú trọng đến hiệu quả kinh tế.
Hơn thế, quan điểm cho rằng, chỉ có các hoạt động trong khu vực kinh tế
nhà nước và khu vực kinh tế tập thể mới được coi là có lao động, là có việc làm,
trong một thời gian dài đã làm đóng băng thị trường lao động của khu vực phi
nhà nước. Những người làm việc ngoài hệ thống các cơ quan đơn vị kinh tế nhà


nước hay tập thể thường bị coi là không có việc làm, thậm chí những việc họ
làm còn bị coi là “bất hợp pháp”. Những người đi làm thuê, hoặc những người
đứng ra thuê mướn nhân công, tạo công ăn việc làm cho người lao động ngoài
khu vực quốc doanh và tập thể bị coi là bóc lột, bị hạn chế và phân biệt đối xử
nặng nề.
1


Chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam gần 30 năm qua đã mang lại những thay
đổi về chất liên quan đến phân bổ và sử dụng lực lượng lao động. Thị trường lao
động đã được công nhận về mặt pháp luật và bước đầu có những hoạt động cụ
thể. Trên thực tế, sức lao động đã dần được coi là một loại hàng hóa, thể hiện
qua việc công nhận quyền tự do tìm việc làm của người lao động và quyền thuê
mướn người lao động làm việc cho mình của các chủ sử dụng lao động. Đại hội
Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền
lương, tiền công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở
rộng, áp dụng phổ biến cho các đối tượng lao động. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức
các hội chợ việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới
thiệu việc làm đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước; ngăn chặn các hành
vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác”.1
Nền kinh tế thị trường đang thoát dần khỏi những ràng buộc về nhận
thức và thực tiễn cũ. Tuy nhiên, trong những khó khăn lớn về nhận thức mà
chúng ta đang gặp phải có vấn đề bản chất của lao động và thị trường lao động.
Từng quen với quan niệm coi lao động là một giá trị xã hội và tinh thần cao
nhất, một giá trị tự thân, thoát ra ngoài sự trao đổi, nhiều người không khỏi bỡ
ngỡ khi thay đổi quan niệm về lao động, bởi vì từ nay lao động cũng không thể
nằm bên ngoài các quan hệ thị trường. Dù có mang những phẩm chất đặc biệt
thế nào đi nữa, sức lao động vẫn là một thứ hàng hóa để mua bán theo giá trị

của nó trên thị trường, xét trong mối tương quan với các hàng hóa khác và ngay
cả với chính nó. Vì vậy, việc tiếp tục nhận thức, vận dụng hợp lý lý luận hàng
hóa sức lao động, về thị trường lao động là một vấn đề quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn vấn đề "Lý luận hàng hóa sức lao động
trong tác phẩm Tư bản của C. Mác và việc vận dụng lý luận đó vào phát triển
thị trường lao động ở nước ta" để làm nội dung thu hoạch tác phẩm “Tư bản”
của C.Mác.

1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. 213

2


NỘI DUNG
1. Lý luận hàng hóa sức lao động trong tác phẩm Tư bản của C. Mác
1.1. Điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động
Theo C.Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong mọi cơ thể, trong mọi con người đang
sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng
nào đó”2.
Như định nghĩa này của C.Mác thì sức lao động đã xuất hiện từ lâu, cùng
với sự xuất hiện của con người, từ khi con người biết tiến hành sản xuất để tạo
ra tư liệu sinh hoạt cho bản thân. Trải qua quá trình lâu dài, sức lao động ngày
càng được hoàn thiện hơn, thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở
mọi thời kỳ, mọi nơi có tiến hành sản xuất đều có sự tồn tại của sức lao động.
Nhưng sức lao động trở thành hàng hoá lại là đặc thù của một thời kỳ phát triển

lịch sử, "trạng thái của một xã hội trong đó người công nhân xuất hiện trên thị
trường hàng hoá làm người bán sức lao động của bản thân mình, bỏ cách rất xa các
trạng thái xã hội của thời kỳ nguyên thuỷ"3.
Nếu không kể tới thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ thì trong một thời gian dài,
sức lao động cùng với người có sức lao động bị cột chặt vào chủ nô và địa chủ
phong kiến. Người nô lệ thì bị áp đặt lao động cưỡng bức, bị đối xử nh mét công
cụ biết nói và chịu sự chi phối hoàn toàn về mọi mặt của chủ nô. Còn người nông
dân tá điền, tuy không bị lệ thuộc hoàn toàn vào địa chủ, nhưng họ lại không được
quyền tự do di chuyển, lùa chọn chủ đất làm thuê. Sức lao động trong thời kỳ
phong kiến đã manh nha trở thành hàng hoá nhưng lại bị chặn bởi sự bóc lột siêu
kinh tế, dưới bạo lực của địa chủ phong kiến trấn áp. Người lao động có sức lao
động chỉ làm thuê cho một địa chủ và chịu sự áp đặt tiền công mà không có quyền
định giá cả của nó. Điều này đã làm cho sức lao động không phải được thuê mua
mà là bị áp bức cung cấp, nên sức lao động không thể trở thành hàng hoá được.
Quan hệ sản xuất phong kiến đã trở thành lực cản cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển càng làm cho xã hội
phong kiến thêm bất ổn định và quan hệ sản xuất phong kiến phải nhường chỗ
cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến hơn mà cơ sở cho sù ra đời của phương thức
sản xuất đó chính là sản xuất hàng hoá giản đơn đã được chuẩn bị sẵn chính
trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã
làm cho kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển nhanh hơn, chuyển sang nền kinh
2
3

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.266

3



tế tư bản chủ nghĩa mà nền tảng là chế độ lao động làm thuê và sự bóc lột sức
lao động của các ông chủ tư sản.
Dưới tác động của quy luật giá trị, những người sản xuất nhỏ, lạc hậu, sản
xuất với chi phí cao, sản phẩm ít phong phú... đã không thể tồn tại được trong
nền kinh tế hàng hoá phát triển. Những người sử dụng kỹ thuật cao hơn, với
lượng hao phí lao động cần thiết ít hơn nhưng vẫn bán hàng hoá theo giá cả thị
trường sẽ trở nên giàu có. Lúc đó, những người sản xuất bị phân hoá thành các nhà
tư bản do tích tụ được một lượng vốn lớn và những người vô sản do bị phá sản
trong sản xuất và trở thành lao động làm thuê. Sự phân chia xã hội thành những
nhà tư bản và tầng lớp vô sản đã tạo ra một chế độ kinh tế mới mà nền tảng là chế
độ lao động làm thuê. Lúc này trên thị trường xuất hiện một loại hàng hoá đặc biệt
là hàng hoá sức lao động. Người bán là người lao động không có tư liệu sản xuất,
còn người mua là nhà tư bản có vốn liếng, tư liệu sản xuất trong tay. Quá trình mua
bán hàng hoá sức lao động diễn ra tạo điều kiện cho sức lao động kết hợp được với
tư liệu sản xuất, tạo nên quá trình sản xuất. C.Mác viết: “Sức lao động chỉ có
thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá khi nó được đưa ra thị
trường và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra thị trường, hay được chính
người chủ của nó, tức bản thân người có sức lao động đó đem bán. Muốn cho
người chủ sức lao động ấy có thể đem bán được nó với tư cách là hàng hoá, thì
người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy phải
là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể mình”4.
Nh vậy, điều kiện đầu tiên để sức lao động trở thành hàng hoá là người
chủ sở hữu sức lao động phải được tự do chi phối năng lực lao động của mình.
Với tư cách là một người tự do có sức lao động, anh ta có quyền bán hoặc không
bán sức lao động của mình, có quyền thoả thuận giá cả với người mua, có quyền
lùa chọn loại công việc mình thích, thời gian cũng như điều kiện lao động khi ở
trên thị trường. Với tư cách là người có sức lao động, "anh ta và người chủ tiền
gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ
hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ một người thì mua, còn người
kia thì bán, và vì thế cả hai đều là người bình đẳng về mặt pháp lý"5.

Tuy nhiên, được tự do về mặt thân thể không chưa đủ, mà người sở hữu
sức lao động còn phải là người không có hoặc không đủ tư liệu sản xuất, hay
nói cách khác là không có gì để đảm bảo cho nhu cầu sinh tồn của bản thân
mình ngoài việc bán sức lao động. Điều kiện thứ hai này cho thấy rằng, người
có sức lao động được tự do về thân thể, nếu có tư liệu sản xuất, họ sẽ tự sản
4
5

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251

4


xuất ra sản phẩm để mang đi bán chứ không bán sức lao động, nh C.Mác đã
nói: “Người chủ tiền phải tìm được người lao động tự do trên thị trường hàng
hoá, tù do theo hai nghĩa: theo nghĩa là một con người tự do, chi phối được sức
lao động của mình với tư cách là một hàng hoá, với mặt khác anh ta không còn
có một hàng hoá nào để bán, nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn
không có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình”6.
Hai điều kiện trên thuộc về bản thân người sở hữu sức lao động, tạo ra
cho họ quyền tự định đoạt việc bán sức lao động của mình.
Điều kiện thứ ba để đảm bảo sức lao động là hàng hoá, đó là người lao
động chỉ bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định. Thời gian đó
được người mua và người bán hàng hoá sức lao động thoả thuận trên thị trường
và được thể hiện trên hợp đồng để nhằm đảm bảo tính pháp lý của nó. Như
C.Mác đã nói: “Người sở hữu sức lao động bao giê cũng chỉ bán sức lao động
đó trong một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao
động ấy trong một lần thì anh ta bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là một người
tự do, anh ta sẽ trở thành một người nô lệ, từ chỗ là một người chủ hàng hoá,

anh ta sẽ trở thành một hàng hoá. Với tư cách là một con người, anh ta phải
thường xuyên duy trì mối quan hệ đối với sức lao động của mình như là đối với
vật sở hữu của mình và vì vậy như là đối với một hàng hoá của bản thân mình.
Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong chừng mực anh ta bao giờ cũng chỉ để
cho người mua sử dụng hoặc tiêu dùng sức lao động của mình một cách nhất
thời, trong một thời hạn nhất định thôi, do đó chỉ trong chừng mực là khi bán
sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy”7.
Điều kiện thứ tư là luôn tồn tại một lớp người sẵn sàng mua sức lao động
trên thị trường - đó là các nhà tư bản. Một loại hàng hoá đưa ra trên thị trường
làm đối tượng cho quá trình trao đổi thì cần phải có chủ thể và khách thể của
quá trình trao đổi. Chủ thể của việc bán sức lao động là người công nhân, còn
khách thể là nhà tư bản. Quá trình trao đổi giữa lao động sống với lao động vật
hoá đã làm xuất hiện người lao động ở phía này và nhà tư bản ở phía kia. Người
công nhân cần có tư liệu sinh hoạt để đảm bảo sự sinh tồn của mình nên bắt
buộc phải bán sức lao động để thoả mãn điều đó.
Nhưng nhà tư bản - những người có tiền, có tư liệu sản xuất, tư liệu sinh
hoạt thì họ vẫn có đủ điều kiện để tự sản xuất ra và tiêu dùng tư liệu sinh hoạt
mà không cần phụ thuộc ai thì điều gì đã bắt họ xuất hiện trên thị trường với tư

6
7

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.253
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251-252

5


cách là người mua sức lao động? Nhà tư bản cần mua sức lao động của người
khác để làm tăng thêm số giá trị mà họ đã chiếm được.

Việc người có tiền mua sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm làm tăng
thêm giá trị chiếm được đó đã biến những người có tiền bình thường thành
những người tư bản.
Ở đây, sức lao động được mua không phải vì sự phục vụ của nó hay sản
phẩm của nó nhằm thoả mãn những nhu cầu cá nhân của người mua nó. Mục
đích của người mua là làm tăng thêm giá trị của tư bản, là sản xuất ra những
hàng hoá chứa đựng nhiều lao động hơn số hắn trả, và do đó chứa đựng một
phần giá trị mà hắn chẳng tốn kém gì nhưng vẫn được thực hiện khi bán hàng
hoá... “Sức lao động chỉ có thể bán được chừng nào nó bảo tồn được tư liệu sản
xuất với tư cách là tư bản, chừng nào nó tái sản xuất ra được giá trị của bản thân
nó với tư cách là tư bản, và cung cấp được một nguồn tư bản phụ thêm dưới
dạng lao động không công. Do đó, những điều kiện để bán sức lao động, dù có
thuận lợi nhiều hay ít cho người lao động, vẫn giả định sự cần thiết phải không
ngừng lắp lại việc bán sức lao động và việc tái sản xuất không ngừng mở rộng
những của cải với tư cách là tư bản”8.
Điều này chứng tỏ rằng, tư bản chỉ phát sinh ở những nơi nào mà người
chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với
tư cách là người bán sức lao động của mình trên thị trường.
Với những điều kiện trên, sức lao động thật sự trở thành hàng hoá được
mua bán trên thị trường. Hai loại người rất khác nhau đã gặp và tiếp xúc với
nhau, một bên là người có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cần mua
sức lao động để làm tăng thêm giá trị đã có, còn bên kia là những người lao
động tự do bán sức lao động của bản thân mình.
1.2. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Là một hàng hoá được mua bán trên thị trường, cho nên hàng hoá sức lao
động cũng có giá trị và giá trị sử dụng như những hàng hoá thông thường khác.
Tuy nhiên, là một hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động có tính chất khác xa
so với những hàng hoá thông thường khác.
* Về giá trị sức lao động:
Giá trị sức lao động được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết để sản

xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động là khả năng lao động,
nên số thời gian lao động cần thiết kết tinh trong nó chính là do giá trị của
những tư liệu sinh hoạt mà người có sức lao động ấy đã tiêu dùng tạo thành. Để
duy trì, tái tạo sức lao động của mình, con người đã sử dụng một lượng tư liệu
8

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.872

6


sinh hoạt nhất định nên "giá trị của sức lao động là do giá trị của những tư liệu
sinh hoạt cần thiết của một người lao động trung bình quyết định"9.
C.Mác cho rằng, sức lao động chỉ được sản xuất ra trong một con người
đang sống. Vì vậy, việc sản xuất ra sức lao động chỉ có thể xảy ra khi có sự tồn
tại của con người đó, hay chính là việc duy trì cuộc sống của con người đó.
Những tư liệu sinh hoạt mà người có sức lao động sử dụng hàng ngày cũng có
một lượng giá trị nhất định và lượng giá trị đó trở thành đại lượng quyết định
giá trị của sức lao động. "Giá trị của sức lao động được quy thành giá trị của một
tổng số những tư liệu sinh hoạt nhất định. Vì vậy, giá trị ấy thay đổi cùng với sự
thay đổi của giá trị các tư liệu sinh hoạt đó, nghĩa là cùng với sự thay đổi đại
lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra chúng" 10. Điều này phụ thuộc
vào trình độ văn minh của mỗi nước trong những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Ngoài ra, quy mô của tư liệu sinh hoạt cần thiết và phương thức thoả mãn
những nhu cầu về tư liệu sinh hoạt cần thiết đó lại phụ thuộc vào điều kiện sống
và thói quen sinh hoạt của người lao động đó; do đó, "việc quy định giá trị sức
lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và tinh thần. Nhưng, đối với một nước nhất
định và đối với một thời kỳ nhất định, thì tính trung bình, quy mô của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định"11.
Người sở hữu sức lao động có thể chết đi và cần có người thay thế, nối

dõi nên sức lao động phải thường xuyên được thay thế bằng những sức lao động
mới; điều này khẳng định rằng trong tổng tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc tái
sản xuất sức lao động phải bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con
cái của người lao động tồn tại và phát triển.
Người lao động nào muốn "trở thành một sức lao động phát triển và đặc
thù"12 thì người đó phải có kiến thức, trình độ học vấn và những thãi quen khéo
léo trong một ngành lao động nhất định. Điều này chỉ có được khi người lao
động phải trải qua một chương trình đào tạo nhất định với một chi phí cần thiết
nào đó mà sức lao động bình thường không cần đến. Những chi phí học tập, đào
tạo này phải nhập vào tổng số những chi phí dùng sản xuất và tái sản xuất sức
lao động. Đó là những chi phí làm tăng giá trị sức lao động; giúp cho người lao
động có ưu thế trên thị trường lao động.
Giá trị của mọi hàng hoá khác có xu hướng càng giảm càng tốt; nhưng
giá trị của hàng hoá sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó; đó chính là
"giá trị của cái khối lượng hàng hoá mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao
9

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.732
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.258
11
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.256-257
12
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.257
10

7


động, tức con người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là
tạo thành giá trị của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh

lý"13. Vượt mức giới hạn này, người lao động sẽ có cuộc sống thấp và việc sử
dụng sức lao động của người này sẽ bị ảnh hưởng và giá trị sử dụng của hàng
hoá sức lao động khó phát huy tốt được.
Cũng như các hàng hoá khác, người mua hàng hoá tuy phải thực hiện giá
trị, nhưng mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hoá đó. Nhà tư bản cũng
vậy, họ bỏ tiền ra mua sức lao động chỉ vì hàng hoá này có giá trị sử dụng rất đặc
biệt, thoả mãn sự thèm khát của nhà tư bản và duy trì quan hệ sản xuất TBCN.
Người chủ tiền của chúng ta phải có được điều may mắn là phát hiện
được trong lĩnh vực lưu thông, tức là trên thị trường “một thứ hàng hoá mà bản
thân giá trị sử dụng của nó được cái đặc tính độc đáo là một nguồn sinh ra giá
trị - một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hoá được lao động, và
do đó sẽ tạo được giá trị”14.
Chính giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động mới có tính chất đặc biệt
nh vậy, tạo ra sự hấp dẫn kỳ lạ của lao động sống trong quá trình sản xuất.
* Về giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Trên thị trường, người công nhân và nhà tư bản thoả thuận với nhau về giá
cả sức lao động cũng như những điều kiện của lao động. Bước ra ngoài thị trường
sức lao động, hay khỏi quá trình lưu thông thì sức lao động đã hoàn toàn là của
nhà tư bản. Lúc này mới chính là lúc giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện.
C.Mác đã viết: "Giá trị của nó cũng như giá trị của bất cứ hàng hoá nào khác, đã
được quyết định trước khi nó đi vào lưu thông..., nhưng giá trị sử dụng của sức
lao động thì chỉ bao hàm ở những biểu hiện sau này của sức đó mà thôi"15.
Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động thoả mãn
nhu cầu sản xuất của nhà tư bản. Nhà tư bản cần có sức lao động của người
công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra
các hàng hoá. Chính vì vậy, mà tính có ích của sức lao động chỉ được thể hiện ra
trong quá trình sản xuất. Người lao động bán sức lao động bằng cách lao động
sản xuất theo yêu cầu của người mua. Người mua tiêu dùng sức lao động là
nhằm sử dụng tính có ích của sức lao động. Đặc tính có ích của sức lao động
không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà "cái có ý nghĩa quyết định là

giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó, là cái đặc tính của nó làm một

13
14
15

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.259
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.250-251
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.260

8


nguồn sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản
thân nó. Đó là sự phục vụ đặc biệt mà nhà tư bản mong chờ ở nó"16.
Người mua bán sức lao động thực hiện giá trị trao đổi của sức lao động
và nhượng lại giá trị sử dụng của sức lao động đó. Anh ta không thể nhận được
giá trị trao đổi mà lại không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã phải
trả giá trị hàng ngày của sức lao động, vì vậy, việc tiêu dùng sức lao động ấy
trong một ngày là thuộc quyền của anh ta; và nhà tư bản biết được rằng "chi phí
hằng ngày để duy trì sức lao động và sự tiêu phí sức lao động ấy trong một ngày đó là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau. Đại lượng thứ nhất quyết định giá trị
trao đổi của nó, đại lượng thứ hai tạo thành giá trị sử dụng của nó"17. Điều này
cũng có nghĩa là giá trị của sức lao động và giá trị được tạo ra trong quá trình sử
dụng sức lao động là hai đại lượng khác nhau. Chính nhà tư bản đã nhằm vào sự
chênh lệch và giá trị đó khi mua sức lao động; và do đó mới chính là tính có ích
thật sự của sức lao động đối với nhà tư bản.
Tính có ích của sức lao động "chỉ thật sự được thực hiện, tức chỉ thật sự
tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động phải hoạt động
trong những điều kiện bình thường"18, đó là các điều kiện:
Một là, bảo đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao

động: tư liệu lao động, nguyên nhiên vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường.
Hai là, bản thân sức lao động cũng phải là một sức lao động bình thường,
nghĩa là trong ngành chuyên môn mà sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một
trình độ trung bình về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và về tốc độ. Điều này có
nghĩa là muốn nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động thì phải cho người công
nhân trải qua một thời gian được đào tạo và huấn luyện chuyên môn nhất định.
Ba là, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp
lý, nếu bị tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và
không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sức lao động được vận dụng chủ yếu để sản
xuất ra hàng hoá cho xã hội. Sức lao động chính là lao động sống sẽ làm hồi
sinh lao động quá khứ - lao động chết, để tạo ra một giá trị sử dụng mới, một
hàng hoá mới. Việc kết hợp lao động sống với lao động quá khứ sẽ tạo ra một
giá trị mới cao hơn tổng giá trị của sức lao động và tư liệu sản xuất đã kết hợp,
mà nguồn gốc phần tăng thêm đó là từ lao động sống, hay do giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động được bảo tồn và chuyển vào giá trị hàng hoá mới. Giá trị
của hàng hoá sức lao động đó được C.Mác gọi là phần tư bản khả biến (v).
16
17
18

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.289-290
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.289
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.292-293

9


Nhà tư bản dùng phần tư bản khả biến này để trả công cho người bán sức lao
động. Do vậy, quá trình giá trị hàng hoá sức lao động chuyển hoá thành tiền

công luôn ẩn giấu sau quá trình lao động, nên dễ tạo ra sự hiểu lầm tiền công
là giá cả của lao động, nhưng thật sự tiền công là giá cả của sức lao động.
1.3. Sự chuyển hoá giá trị sức lao động thành tiền công
* Tiền công là giá cả sức lao động chứ không phải giá cả lao động
Hàng hoá sức lao động có giá trị của nó, giá trị đó biểu hiện bằng tiền gọi
là giá cả sức lao động, hay tiền công. Trong nền kinh tế hàng hoá, việc sức lao
động trở thành hàng hoá tạo điều kiện cho giá trị sức lao động chuyển hoá thành
tiền công. Vì vậy, bản chất của tiền công trong nền kinh tế hàng hoá không phải
là giá cả của lao động mà "tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá
sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động"19.
Trên bề mặt của xã hội TBCN, giá trị sức lao động được thể hiện ra thành
tiền công và được lầm hiểu rằng đó là "một số lượng tiền nhất định trả cho một
số lượng lao động nhất định"20; nhưng thật ra, người công nhân không bán lao
động mà bán sức lao động. Sức lao động hay năng lực lao động "là toàn bộ năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng
nào đó"; còn lao động là "quá trình tiêu dùng sức lao động... là quá trình diễn ra
giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính
mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và
tự nhiên"21. Hai khái niệm này khác nhau, nhưng có mối quan hệ với nhau. Vì
lao động không thể trở thành hiện thực, nếu không có sức lao động và muốn sức
lao động được thực hiện thì phải có lao động. Lao động, đó là một quá trình tạo
ra của cải vật chất và tinh thần, cùng các loại dịch vụ. Quá trình này được bắt
đầu sau khi sự giao dịch trên thị trường hàng hoá sức lao động đã được ký kết,
quan hệ thị trường kết thúc và quá trình sản xuất được bắt đầu. Để trở thành
hàng hoá thì đối tượng phải có sẵn trước khi bán, nhưng đối với lao động thì lại
không diễn ra nh vậy. Khi bán thì hàng hoá sẽ chuyển từ người bán sang người
mua. Với lao động chúng ta cũng không thấy sự chuyển đổi này. Vì vậy, quan
điểm cho rằng, trên thị trường lao động được bán chính bản thân "lao động" là
không chính xác hay nói cách khác là không có cơ sở khoa học.

C.Mác hoàn toàn bác bỏ luận điệu cho rằng tiền công là giá cả của lao
động. Bởi vì, nếu nói nh thế sẽ trở nên vô nghĩa, sẽ bị cuốn vào cái vòng luẩn
19

Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh (2005), Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin (tái bản), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.171.
20
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.754.
21
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.265-266

10


quẩn, lao động sẽ là hàng hoá. "Trong cách nói: "giá trị của lao động", khái niệm
giá trị không những hoàn toàn mất đi, mà còn biến thành cái đối lập với nó. Đó là
một lời nói giả tưởng"22. Sự giả tưởng này thể hiện ở những điều vô lý nh sau:
Một là, nếu tiền công là giá cả của lao động thì lao động phải là hàng hoá
nh mọi hàng hoá khác phải có giá trị. Lượng giá trị của mọi hàng hoá là do
lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá quy định. Vậy chẳng lẽ giá trị của lao
động lại chính là lao động kết tinh trong lao động. Đây là điều trùng lắp vô
nghĩa. Thật ra, khi lao động được thừa nhận là thước đo nội tại của giá trị thì
bản thân lao động không có giá trị và do đó lao động không là hàng hoá.
Hai là, tiền công là giá cả hàng hoá được thoả thuận giữa người mua và
người bán trên thị trường. Nếu hàng hoá được mua bán ở đây là lao động, thì
lao động phải tồn tại trước khi đưa ra thị trường để bán. Mà lao động là một quá
trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm, hay nói
cách khác, lao động tạo ra sản phẩm, có lao động thì có sản phẩm (lao động tạo
ra phế phẩm là trường hợp cá biệt chứ không phải là bản chất của sản xuất). Và
nh vậy, người lao động sẽ bán sản phẩm đó chứ không bán lao động nữa, nên

việc nói công nhân bán lao động là không hợp lý.
Ba là, nếu lao động là hàng hoá thì nó phải được trao đổi ngang giá, lúc
này giá cả lao động của công nhân sẽ bằng giá cả sản phẩm của anh ta. Khi nhà
tư bản đem sản phẩm do lao động của công nhân tạo ra trao đổi trên thị trường
theo đúng nguyên tắc ngang giá thì nhà tư bản sẽ không thu được chút giá trị
thặng dư nào và sự tồn tại của nhà tư bản sẽ chấm dứt.
Nếu nhà tư bản trao đổi không ngang giá để thu lợi nhuận thì nhà tư bản
lại vi phạm quy luật giá trị.
Những điểm mâu thuẫn này cho thấy lao động không phải là hàng hoá và
công nhân không bán lao động mà bán sức lao động. Sức lao động của công
nhân là hàng hoá và giá trị của hàng hoá sức lao động được thể hiện ra trên bề
mặt xã hội dưới hình thức tiền công.
* Bản chất của tiền công bị che dấu bởi quá trình lao động:
Giá trị và giá cả sức lao động được biểu hiện ra bên ngoài thành tiền
công. Nhưng nhìn bề ngoài thì tiền công biểu hiện giá cả của lao động. Vậy, giá
trị sức lao động quyết định giá cả của lao động, giá cả của lao động chỉ là biểu
hiện bất hợp lý của giá cả sức lao động mà thôi.
Ngày lao động được chia làm hai phần: Thời gian lao động tất yếu và thời
gian lao động thặng dư. Trong đó, thời gian lao động tất yếu bù đắp lại giá trị của
sức lao động đã tiêu hao của người công nhân, còn thời gian lao động thặng dư
22

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.757

11


mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Nhưng tiền công lại không thể hiện rõ
điều này. Đúng ra với tư cách giá cả sức lao động tiền công chỉ phụ thuộc vào độ
dài thời gian lao động tất yếu, nhưng nhà tư bản thuê công nhân làm việc trong

suốt thời gian lao động, và với cách nhìn tiền công là giá cả lao động thì tiền công
lại không phụ thuộc vào giá trị bản thân sức lao động, hay thời gian lao động một
ngày. Chính vì vậy mà "tiền công đã xóa bỏ mọi vết tích phân chia ngày lao động
ra thành lao động cần thiết và lao động thặng dư thành lao động được trả công và
lao động không công. Toàn bộ lao động thể hiện ra nh là lao động được trả
công"23. Quan hệ tiền tệ đã che mất lao động không công của người công nhân
làm thuê. "Do bản chất của nó, tiền công đòi hỏi người lao động bao giờ cũng
phải cung cấp một số lượng lao động không công nhất định"24.
Sự chuyển hoá của giá trị sức lao động thành tiền công đã giúp tạo ra ảo
tưởng về quan hệ tự do, bình đẳng trong quan hệ mua - bán sức lao động giữa
nhà tư bản và công nhân. Thực tế đó là mối quan hệ bất bình đẳng giữa nhà tư
bản và công nhân làm thuê, vì người công nhân đã tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị bản thân sức lao động của mình khi được nhà tư bản sử dụng trong
quá trình sản xuất.
Bản thân tiền công cũng có rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng cơ bản
vẫn là hình thức tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.
Theo C.Mác "sức lao động bao giờ cũng được bán trong một kỳ nhất
định. Vì vậy, cái hình thức chuyển hoá trong đó giá trị hàng ngày, hàng tuần...
của sức lao động trực tiếp biểu hiện là hình thức tiền công tính theo thời gian" 25.
Nh vậy, tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền giá trị của giá trị
sức lao động theo ngày, tuần... Quy luật chung của tiền công theo thời gian là:
“Nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần,... đã cho sẵn thì tiền
công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả
này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với những chênh lệch
của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả lao động đã
cho sẵn, thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động
hàng ngày hay hàng tuần”26.
Khi tiền công ngày hay tuần tăng thì giá cả sức lao động có thể không
thay đổi về danh nghĩa, tuy vậy, nó vẫn có thể tụt xuống dưới mức bình thường
của nó. Điều này xảy ra khi giá cả của giờ lao động không thay đổi, nhưng ngày

lao động bị kéo dài quá mức bình thường của nó. Giá cả sức lao động thấp trong
23

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.761
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.872
25
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.766
26
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.769
24

12


khoảng thời gian gọi là bình thường đã bắt buộc người công nhân; nếu muốn
kiếm được một số tiền công nói chung tương đối đầy đủ, thì phải làm thêm
ngoài giờ để được trả công cao hơn. Sự hạn chế ngày lao động bằng pháp luật
đã giúp bảo vệ quyền lợi người lao động. Nh vậy, có thể rút ra quy luật "với giá
cả sức lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tuần phụ thuộc và số lượng
lao động đã cung cấp... và mức giá cả sức lao động thấp tác động nh là yếu tố
kích thích việc kéo dài thời gian lao động"27.
Tiền công tính theo thời gian có quan hệ chặt chẽ với tiền công tính theo
sản phẩm.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuẩn hoá của tiền công tính
theo thời gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao
động không phải do phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao
động với một số giê nhất định quyết định mà là do năng lực công tác của người
sản xuất quyết định"28.
Trên thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một
quan hệ giá trị nào cả. "Trong tiền công tính theo thời gian, lao động được trực

tiếp đo bằng thời gian dài ngắn của nó; còn trong tiền công tính theo sản phẩm
thì lao động được đo theo số lượng sản phẩm trong đó lao động đã ngưng động
lại trong một khoảng thời gian nhất định"29.
Tiền công theo sản phẩm đã giúp cho công việc quản lý trong nền sản
xuất TBCN càng hoàn thiện theo hướng có lợi cho nhà tư bản. Nó làm cho chất
lượng của lao động được kiểm tra bởi chính ngay sản phẩm của lao động. Tiền
công tính theo sản phẩm là thước đo hoàn toàn chính xác để đo cường độ lao
động và năng suất lao động.
Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa công nhân
với nhau do có sự khác biệt về tài khéo léo, sức lực, nghị lực, sức dẻo dai; qua
đó góp phần phát triển cá tính, tinh thần tự do, tính độc lập và khả năng tự kiểm
tra của người công nhân; thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công nhân với nhau.
Điều này giúp cho việc quản lý trở nên có hiệu quả hơn.
Tiền công là phạm trù phản ánh quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân
làm thuê. Vì vậy, tiền công là một trong những căn cứ quan trọng để nhà tư
bản và công nhân làm thuê thoả thuận với nhau trên thị trường sức lao động.
1.4. Thị trường sức lao động

27

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.773
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.777
29
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.780
28

13


Theo C.Mác, "muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức

lao động với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện khác nhau phải
được thực hiện"30. Đó là:
Thứ nhất:
“Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là
hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó,
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình.
Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư
cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác ở chỗ một
người thì mua, còn người kia thì bán, và vì thế cả hai đều là những người bình
đẳng về mặt pháp lý. Muốn duy trì mối quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động
bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi”31.
Thứ hai, "người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những
hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc
phải đem bán, với tư cách là hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở
cơ thể sống của anh ta thôi"32.
Theo sự phân tích của C.Mác, người lao động bán sức lao động cho nhà
tư bản nhưng không từ bỏ quyền sở hữu sức lao động của mình, chính vì vậy
thực chất mối quan hệ mua - bán hàng hoá sức lao động giữa nhà tư bản và công
nhân là mua bán quyền sử dụng sức lao động trong một thời gian nhất định. Nơi
diễn ra quan hệ mua bán sức lao động này gọi là thị trường sức lao động.
Nh vậy là để chuyển hoá tiền thành tư bản, người chủ tiền phải tìm được
người lao động tự do ở trên thị trường hàng hoá... “Tại sao người lao động tự do
ấy lại đứng đối diện với người chủ tiền trong lĩnh vực lưu thông, vấn đề ấy
không làm bận tâm người chủ tiền là người đã tìm thấy thị trường lao động với
tính cách là một chi nhánh đặc biệt của thị trường hàng hoá”33.
Thị trường sức lao động là nơi diễn ra quan hệ mua bán hàng hoá sức lao
động giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi gặp gỡ giữa cung
và cầu về hàng hoá sức lao động. Sự biến động cung - cầu về hàng hoá sức lao
động luôn gắn bó chặt chẽ với chu kỳ phát triển công nghiệp, với qua trình hiện
đại hoá nền kinh tế.

Trên thị trường sức lao động, trong điều kiện kết cấu của tư bản không
thay đổi thì lượng cầu về hàng hoá sức lao động tăng lên cùng với quá trình tích
luỹ của tư bản. Khi tư bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận cấu thành khả
30
31
32
33

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.251-252
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.252-253
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.253

14


biến của nó, hay bộ phận được biến thành sức lao động. Do vậy "lượng cầu về
lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỷ lệ với tư bản,
và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên
nhanh bấy nhiêu"34. Nhà tư bản sản xuất ra giá trị thặng dư và hằng năm giá trị
thặng dư này được cộng vào tư bản đầu tư ban đầu làm tăng thêm số tư bản hiện
đang hoạt động. Khi nhà tư bản mở rộng đột ngột quy mô tích luỹ bằng cách chỉ
cần thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản
và thu nhập. Vì vậy, nó đã làm cho "nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá
sự tăng thêm của sức lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể
vượt quá lượng cung về công nhân, và vì thế tiền công có thể tăng lên"35.
Mặt khác, khi “tích luỹ yếu đi do giá cả lao động tăng lên. Tích luỹ giảm
bớt. Nhưng cùng với sự giảm bớt tích luỹ thì cái nguyên nhân làm giảm bớt tích
luỹ, tức là sự mất cân đối giữa tư bản với sức lao động có thể bóc lột được, cũng
biến mất. Nh vậy, cơ chế của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa tự nó gạt bỏ

những trở ngại mà nó tạm thời tạo ra. Giá cả lao động lại hạ xuống đến mức phù
hợp với các nhu cầu làm tăng thêm tư bản, mức này có thể thấp hơn, cao hơn
hay ngang cái mức đã được coi là bình thường trước khi tiền công tăng lên”36.
Cùng với tiến trình tích luỹ của tư bản, tỷ số giữa bộ phận bất biến với bộ
phận khả biến của tư bản cũng thay đổi theo hướng bộ phận tư bản bất biến tăng
tương đối còn bộ phận tư bản khả biến giảm tương đối. Chính vì vậy mà cùng với
sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động - do bộ phận tư bản khả biến
quyết định cũng dần giảm bớt đi chứ không phải tăng thêm theo tỷ lệ với sự tăng
thêm của tổng tư bản. Lượng cầu về lao động giảm xuống một cách tương đối so
với đại lượng của tổng tư bản và giảm xuống thêm một cấp số ngày càng nhanh
cùng với sự tăng lên của đại lượng ấy. Bởi do tư bản phụ thêm hình thành trong
tiến trình tích luỹ chủ yếu được dùng làm phương tiện cải tiến hơn về kỹ thuật
cũng như sự đổi mới của tư bản cũ khiến cho một khối lượng lao động ít hơn cũng
đủ để vận dụng một khối lượng máy móc và nguyên liệu lớn hơn.
Nh vậy, một mặt số tư bản phụ thêm được hình thành trong quá trình tích
luỹ ngày càng thu hót ít người lao động hơn so với đại lượng của nó. Mặt khác,
số tư bản cũ được tái sản xuất ra một cách chu kỳ trong kết cấu mới, lại gạt bỏ
một số ngày càng nhiều những người lao động mà trước đó nó đã dùng.
Có thể thấy, quá trình tích luỹ tư bản, một mặt làm tăng thêm lượng cầu
về lao động, mặt khác lại làm tăng thêm lượng cung về công nhân bằng cách
"giải phóng" công nhân, trong khi đó sức ép của những công nhân không có
34
35
36

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.864
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.864-865
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.873

15



việc làm lại buộc những người có việc làm bỏ ra nhiều lao động hơn, và như
vậy làm cho lượng cung về lao động độc lập đến một mức độ nhất định đối với
lượng cung về công nhân.
Trên thị trường sức lao động, chứa đựng quan hệ cạnh tranh giữa công
nhân với công nhân và giữa công nhân với nhà tư bản.
“Nếu một công nhân làm việc gấp rưỡi hoặc gấp hai lần so với bình thường,
thì số cung về lao động tăng lên mặc dù số cung về sức lao động trên thị trường
không tăng, tức lượng cầu về sức lao động của nhà tư bản không thay đổi. Lúc đó,
do lao động quá mức của bộ phận có việc làm trong giai cấp công nhân làm tăng
thêm hàng ngò của đội quân trừ bị của giai cấp ấy, trong khi đó thì ngược lại, áp lực
mạnh mẽ gấp bội có sự cạnh tranh của đội quan trừ bị này đối với công nhân có việc
làm lại buộc họ phải lao động quá mức và phục tùng mệnh lệnh của tư bản. Việc
buộc một bộ phận này của giai cấp công nhân phải ăn không ngồi rồi vì có một bộ
phận khác lao động quá mức và ngược lại, đã trở thành một thủ đoạn làm giàu của
các nhà tư bản cá biệt và đồng thời thúc đẩy nhanh việc sản xuất ra đội quân thất
nghiệp trừ bị theo một quy mô tương ứng với sự tiến triển của tích luỹ xã hội”37.
“Sự vận động của quy luật cung cầu về lao động trên cơ sở đó làm cho sự
chuyên chế của tư bản trở nên hoàn chỉnh. Vì vậy, khi công nhân phát hiện được cái
điều bí ẩn là tại sao họ càng làm lụng nhiều, càng sản xuất ra nhiều của cải cho
người khác và sức sản xuất của lao động của họ càng tăng lên, thì chức năng làm
phương tiện để tăng tư bản lại càng trở nên bấp bênh hơn đối với họ, và khi họ khám
phá ra rằng mức gay gắt của sự cạnh tranh giữa bản thân họ với nhau hoàn toàn lệ
thuộc vào sức ép của số nhân khẩu thừa tương đối thì họ đã thông qua công đoàn để
tìm cách tổ chức những hành động chung có kế hoạch giữa những người có việc làm
và những người không có việc làm, nhằm xoá bỏ hay giảm nhẹ hậu quả tai hại của
quy luật tự nhiên đó của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với giai cấp họ”38.
Sự cạnh tranh nh thế giữa công nhân với nhau "khiến cho nhà tư bản có
thể giảm giá cả sức lao động xuống, điều này giúp cho nhà tư bản có thể kéo dài

thời gian lao động hơn nữa"39. Nhưng chẳng bao lâu, khả năng sử dụng số lượng
lao động không công bất bình thường, tức là vượt quá mức trung bình xã hội sẽ
trở thành công cụ cạnh tranh giữa chính các nhà tư bản với nhau. “Để giải quyết
được sự cạnh tranh này, giai cấp tư sản đã cần đến quyền lực nhà nước, và thật
sự dùng quyền lực của nhà nước để "điều hoà" tiền công, nghĩa là bắt buộc tiền
công phải ở trong giới hạn thích hợp cho việc bòn rút giá trị thặng dư, để kéo
37
38
39

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.900
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.900-902
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.774

16


dài ngày lao động và duy trì bản thân người công nhân ở một mức độ lệ thuộc
bình thường vào tư bản”40.
Thực tiễn cho thấy, các quan hệ mua và bán trên thị trường là dựa trên sự
tự do của hai bên, của người lao động cũng như người sử dụng lao động, dựa
trên quan hệ tự do vì nếu không thì không có quan hệ thị trường. Nhưng nếu
nhìn nhận về thực chất quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản lại chứa đựng
quan hệ bóc lột. Trong nền kinh tế thị trường vẫn tồn tại khách quan hàng hoá
sức lao động và người lao động vẫn bị bóc lột lao động thặng dư.
2. Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động trong tác phẩm Tư bản
của C. Mác vào phát triển thị trường lao động ở nước ta
2.1. Sự tồn tại khách quan của hàng hóa sức lao động trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người, nó là

hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Nếu kinh tế hàng hoá giản đơn
chỉ dừng lại ở sự trao đổi thì kinh tế thị trường đã có những bước tiến vượt bậc
về bản chất. Kinh tế thị trường thực hiện phân bổ các nguồn lực của xã hội
thông qua cơ chế thị trường được chi phối bởi các quy luật cơ bản là quy luật
giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Các quan hệ mang tính áp đặt,
cống nạp, cưỡng đoạt của kinh tế tự nhiên đã được thay bằng quan hệ thị trường
ngang giá, trao đổi hàng hoá - tiền tệ. Lực lượng sản xuất phát triển được hỗ trợ
bởi một hệ thống các thể chế thị trường nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành
một cách có hiệu quả nhất.
Kinh tế thị trường là một sự phát triển mang tính tất yếu. Sự hiện diện của
kinh tế thị trường tại tất cả các quốc gia trên thế giới cho thấy kinh tế thị trường
có sức sống mãnh liệt và là bước phát triển tự nhiên mang tính quy luật trong lịch
sử nhân loại. Từ những mầm mống phát sinh trong nền kinh tế phong kiến, sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã phá vỡ những kết cấu phong kiến; thúc đẩy
tự do hoá kinh tế và thiết lập vững chắc quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Tích luỹ tư
bản, quá trình công nghiệp hoá đã biến mọi yếu tố của sản xuất thành hàng hoá.
Sức lao động là yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất xã hội, vì vậy ở bất
kỳ xã hội nào cũng đều tồn tại sức lao động chứ không phụ thuộc vào giai đoạn
hay trình độ phát triển của xã hội đó. Nhưng chỉ trong những điều kiện nhất
định thì sức lao động mới trở thành hàng hoá và được mua bán trên thị trường
như những hàng hoá khác. Như C.Mác đã khẳng định: Sức lao động trở thành
hàng hoá khi người lao động được tự do về thân thể và không có tư liệu sản
xuất. Điều này hoàn toàn đúng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, lúc
40

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.1026

17



đó sức lao động của những người làm thuê đều đã trở thành hàng hoá. Tiền công
nói chung cũng nh tiền lương nói riêng chẳng phải gì khác hơn là giá cả sức lao
động. Với tư cách là giá cả sức lao động cũng như các loại giá khác về nguyên
tắc tiền công hay tiền lương phải phản ánh giá trị sức lao động và được hình
thành trên thị trường, chủ yếu do tương quan cung cầu sức lao động trên thị
trường quyết định.
Nh vậy, xuất phát từ cả hai phía: lợi ích của người lao động và lợi ích của
xã hội mà thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Thừa nhận sức lao
động là hàng hoá là một tất yếu theo xu hướng vận động khách quan của nền
kinh tế hàng hoá.
Dưới chế độ XHCN, sức lao động là hàng hoá cũng là tất yếu khách
quan, bởi lẽ tính chất đặc trưng của sức lao động trong điều kiện CNXH chủ
yếu bắt nguồn từ lý luận CNCS khoa học của C.Mác, quan hệ lao động mà
C.Mác trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
xã hội đơn nhất. Với C.Mác, ở xã hội CSCN, chế độ công hữu xã hội đã thay
thế chế độ tư hữu, đã thực hiện sự kết hợp trực tiếp giữa người lao động và tư
liệu sản xuất, người lao động đã trở thành người chủ của tư liệu sản xuất, cũng
đã triệt tiêu điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá, tức là sức lao động
không còn là hàng hoá nữa. Nhưng thực tiễn lịch sử chứng tỏ, ở xã hội XHCN,
đặc biệt là ở giai đoạn đầu của CNXH, việc thiết lập chế độ công hữu XHCN
không xoá bá điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá, điều kiện để sức lao
động trở thành hàng hoá vẫn tồn tại. Trước hết, trong điều kiện giai đoạn đầu
của CNXH, sức lao động vẫn thuộc sở hữu cá nhân, lao động vẫn là biện pháp
mưu sinh. Người lao động tự chi phối sức lao động của mình, người lao động
vẫn dùa vào quyền sở hữu sức lao động để được tư liệu sinh hoạt; mặt khác,
ngoài người sản xuất nhỏ ra, giữa người lao động và tư liệu sản xuất không thể
thực hiện được sự kết hợp trực tiếp. Trong điều kiện chế độ công hữu XHCN, tư
liệu sản xuất tuỳ thuộc người lao động sở hữu, nhưng nó thuộc cả chỉnh thể
người lao động sở hữu, bất cứ cá nhân người lao động nào cũng đều không thể
tự nhiên trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất và kết hợp với nó được. Trong điều

kiện chế độ phi công hữu về tư liệu sản xuất, ngoài người sản xuất nhỏ ra, người
lao động càng không có quyền trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất của người
khác. Cho nên, giai đoạn đầu của CNXH, nhìn từ chỉnh thể, người lao động quả
thực là người chủ của tư liệu sản xuất. Nhưng nhìn từ cá thể, đại bộ phận người
lao động chỉ có cung cấp sức lao động cho xã hội, tức bán sức lao động, mới có
thể nhận được tư liệu sinh hoạt, mới có thể duy trì sinh tồn.
18


Cũng theo quan điểm của C.Mác, tiến trình phát triển của lịch sử tuân theo
các nấc thang: từ kinh tế tự cung tự cấp đến kinh tế hàng hoá và cuối cùng là kinh
tế sản phẩm. Đỉnh cao của kinh tế hàng hoá nằm trong phương thức sản xuất
TBCN. Trong suốt thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều nấc thang quá độ, nhiều giai
đoạn quá độ. Đây cũng là những giai đoạn vừa mới "thoát thai" từ xã hội cũ, xã
hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó nên mọi phương diện đạo đức, tinh
thần, kinh tế... còn mang "dấu ấn" của xã hội cũ, của "pháp quyền tư sản". Nếu
hiểu theo đúng quan điểm này thì chúng ta hoàn toàn không có căn cứ nào để nói
rằng CNXH không còn sản xuất hàng hoá. "Sản xuất hàng hoá không đối lập với
CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan,
cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng" 41.
Nh vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì lẽ tất nhiên sức lao
động vẫn là hàng hoá, đó là sự thật không có cách nào phủ nhận được.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hàng hoá sức lao động
tồn tại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được nhìn nhận một
cách khách quan, đúng quy luật vận động của nó, bởi lẽ:
- Quá trình vận động của kinh tế hàng hoá dù muốn hay không thì các yếu
tố của quá trình sản xuất và lưu thông cũng đều chịu sự chi phối của quy luật
sản xuất và lưu thông hàng hoá (quy luật giá trị, giá cả, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh...). Khi cầu về sức lao động xuất hiện thì "tín hiệu" đó sẽ được
phát ra trên thị trường và tất nhiên sẽ có cung sức lao động đáp ứng. Cung - cầu

sức lao động gặp nhau trên thị trường thì hành vi mua, bán diễn ra lúc đó đương
nhiên sức lao động sẽ trở thành hàng hoá. Đây là một trong những thuộc tính
vốn có của kinh tế hàng hoá.
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ càng phát triển, càng thâm nhập sâu vào mọi
ngõ ngách của đời sống kinh tế - xã hội, thì việc mua, bán trao đổi hàng hoá sức
lao động càng phong phú. Thực tế ở nước ta hiện nay, dù thị trường sức lao
động đang hình thành, còn ở mức sơ khai, nhưng nó đã và đang hoạt động ở
thành thị và nông thôn, cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Đối
tượng tham gia, phương thức mua, bán cũng rất phong phó, linh hoạt. Hiện
tượng kinh tế này là tất yếu của sản xuất hàng hoá, do lợi ích kinh tế chi phối,
chứ không theo một chỉ thị, mệnh lệnh nào.
- Quá trình sản xuất hàng hoá là sự kết hợp sức lao động với các yếu tố
vật chất để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Mọi yếu tố vật chất từ tiền vốn, nguyên
41

PGS.TS Vũ Hồng Tiến (2003), Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn,
Chuyên đề kinh tế, tr.7

19


liệu, nhiên liệu, công cụ đến cả đối tượng lao động đều khẳng định là hàng hoá
có mua, có bán, cho nên sức lao động - một yếu tố quan trọng không thể thiếu
trong quá trình sản xuất hàng hoá còng phải là hàng hoá. Bởi lẽ giá trị một sản
phẩm không thể kết tinh trong đó một nửa là hàng hoá, một nửa không là hàng
hoá. Mặt khác, nếu sức lao động không được coi là hàng hoá tức là nó không có
giá cả thì sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn cho việc hạch toán đầu vào, đầu ra của
một quá trình sản xuất kinh doanh, khó xác định được giá thành sản phẩm, giá
cả hàng hoá trong kinh tế thị trường.
- Nếu sức lao động không là hàng hoá thì sẽ dẫn đến việc đào tạo, sử

dụng, trả công cho sức lao động một cách tuỳ tiện, hoặc là tiền lương không
phản ánh đúng theo giá trị sức lao động.
Từ những lẽ trên, có thể khẳng định đã là kinh tế hàng hoá thì mọi yếu
tố phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh phải là hàng hoá. Do vậy, sức
lao động không thể là "ngoại lệ", nó phải là hàng hoá, dù đó là "hàng hoá đặc
biệt". Ngay ở các doanh nghiệp nhà nước, sức lao động cũng là hàng hoá, vì
bản thân các xí nghiệp cũng là những đơn vị sản xuất hàng hoá, phải hạch
toán kinh doanh, phải tự tạo các nguồn lực cho quá trình sản xuất, phải tham
gia vào thị trường chung của xã hội, cùng hợp tác, cạnh tranh... Nếu sức lao
động không là hàng hoá thì các doanh nghiệp nhà nước không thể thâm nhập,
đan xen, thích nghi được với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường. Tuy nhiên, hành vi mua bán, quan hệ giữa "ông chủ" và "người làm
thuê" không hoàn toàn diễn ra nh trong chế độ TBCN mà C.Mác đã miêu tả.
Có thể nói rằng, hàng hoá sức lao động là đặc trưng chung của kinh tế
TBCN và kinh tế thị trường XHCN, chỉ có điều là tiền đề khác nhau thì kết quả
khác nhau mà thôi. Hàng hoá sức lao động là đòi hỏi của nền sản xuất lớn xã
hội hoá, không có mối liên quan tất yếu nào với hành vi bóc lột. Chừng nào lao
động vẫn còn là phương tiện kiếm sống thì mỗi người lao động vẫn phải đổi sức
lao động của mình để lấy tư liệu tiêu dùng. Do vậy, sức lao động của họ tất yếu
phải là hàng hoá. Chỉ khi nào tiến tới chủ nghĩa cộng sản, lực lượng sản xuất
phát triển cao độ, của cải xã hội tuôn ra như nước chảy, thực hiện phân phối
theo nhu cầu, lao động không còn là phương tiện kiếm sống nữa, thì khi đó sức
lao động mới không còn là hàng hoá.
2.2. Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong quá trình vận
dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác
2.2.1. Về thành tựu và hạn chế
Việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào phát triển thị
trường lao động nước ta trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất
20



định, làm cơ sở cho việc hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện hàng
hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Có thể khái quát những thành tựu
đó nh sau:
- Một là, với việc vận dụng lý luận về các điều kiện xuất hiện của hàng
hoá sức lao động, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước thừa nhận sự tồn tại khách
quan của hàng hoá sức lao động và tất yếu hình thành phát triển thị trường lao
động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nó đã giúp cho
nhà nước ta đề ra được chủ trương đúng đắn trong việc tìm ra nhiều hình thức
kinh tế khác nhau, tạo điều kiện cho mô hình việc làm mới xuất hiện làm tăng
sức cầu về hàng hoá sức lao động. Đồng thời, cũng giúp Đảng và Nhà nước tìm
ra được những biện pháp ngày càng có hiệu quả hơn để kiểm soát và nâng cao
chất lượng nguồn cung hàng hoá sức lao động. Nhà nước Việt Nam đã đạt được
những thành công nhất định trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô, điều tiết
nguồn cung hàng hoá sức lao động trên thị trường lao động. Đại hội Đảng lần
thứ XI đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền
công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng,
áp dụng phổ biến cho các đối tượng lao động. Đổi mới tổ chức và hoạt động của
các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ
việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc
làm đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước; ngăn chặn các hành vi lừa đảo
và các hiện tượng tiêu cực khác”42.
- Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác về sự xác
lập mối quan hệ cung - cầu hàng hoá sức lao động trên thị trường lao động,
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc hình thành và phát triển hệ thống
thông tin lao động việc làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và cung cấp
kịp thời những thông tin cần thiết để người lao động có thể chuẩn bị tốt cho khả
năng thành công trước khi gặp gỡ các nhà tuyển dụng.
- Thứ ba, vận dụng lý luận của C.Mác về giá cả sức lao động vào nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hoàn
thiện chính sách tiền lương. Tiền lương không chỉ phù hợp với năng suất lao
động mà còn phải bảo đảm cuộc sống vật chất và tinh thần của người lao động
ngày càng được nâng lên dựa trên mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời kỳ.
Chính sách tiền lương của Nhà nước ta đã giúp cho tiền lương ngày càng được
tiền tệ hoá và ngày càng phản ánh sát hợp với giá trị sức lao động.
42

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. 213

21


- Thứ tư, vận dụng lý luận của C.Mác về vai trò của nhà nước và của các
tổ chức công đoàn trong việc quản lý và giám sát quan hệ lao động ở cơ sở; Nhà
nước ta đã xây dựng Bộ luật lao động và các chính sách kinh tế - xã hội để bảo
đảm quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Đúc kết
những kinh nghiệm trong việc thực hiện, Nhà nước ta đã và đang tìm cách hoàn
thiện hơn nữa Bộ luật lao động. Các tổ chức công đoàn, được sự quan tâm, tạo
điều kiện của nhà nước, cũng đang phát huy vai trò của mình trong việc thúc
đẩy hình thành quan hệ lao động bình đẳng ở cơ sở.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc vận dụng lý luận hàng hoá sức
lao động của C.Mác vào phát triển thị trường lao động nước ta cũng còn những
hạn chế nhất định.
Trước hết có thể thấy lý luận về hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
chưa được vận dụng đầy đủ nên khả năng cạnh tranh của hàng hoá sức lao động
Việt Nam trên thị trường còn hạn chế. Chính sách giáo dục - đào tạo, chính
sách về khoa học - công nghệ chưa thật sự giúp nâng cao giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Khả năng tạo ra

một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động chưa được
nhà nước ta chú trọng phát huy đúng mức và nhà nước chưa có biện pháp quản
lý tốt để hướng phần giá trị thặng dư vào phục vụ sự nghiệp xây dựng xã hội
mới.
Ảnh hưởng của sự tích luỹ tư bản đối với sự biến động cung cầu về hàng
hoá sức lao động do C.Mác đưa ra cũng chưa được vận dụng tốt. Nhà nước ta
chưa gắn kết được sự biến đổi về cơ cấu kinh tế với sự chuyển đổi cơ cấu giáo
dục - đào tạo, cơ cấu lao động, do đó, làm cho cung cầu về hàng hoá sức lao
động chưa phù với nhau. Cung về hàng hoá sức lao động vừa thừa, vừa thiếu so
với nhà đầu tư cần lực lượng lao động. Sự đầu tư mở rộng sản xuất của các nhà
đầu tư cần lực lượng lao động chất lượng cao, nhưng nguồn cung lao động lại
không đáp ứng được.
Sự biến động giá cả sức lao động theo sự biến động của chu kỳ phát triển
tuy đã được nhà nước ta quan tâm giải quyết nhưng vẫn chưa đảm bảo được
quyền lợi của người lao động. Tiền lương ở nước ta hiện nay vẫn chưa phản ánh
đầy đủ giá trị sức lao động theo quan điểm của C.Mác và sự bất bình đẳng khó
chấp nhận về tiền lương vẫn còn tồn tại giữa các thành phần kinh tế khác nhau,
thậm chí trong cùng một thành phần kinh tế.
Vai trò của nhà nước và của các tổ chức công đoàn đối với quan hệ lao
động ở cơ sở tuy đã được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Nhưng mối liên kết
hoạt động giữa nhà nước, công đoàn, người lao động, người sử dụng lao động
22


vẫn còn lỏng lẻo, chưa nhất quán, thiếu đồng bộ nên hiệu quả hoạt động chưa
cao. Bé luật lao động còn nhiều sơ hở, cán bộ công đoàn chưa thật sự chuyên
trách. Chính điều đó, làm cho việc hoàn thiện quan hệ lao động ở cơ sở theo
quan điểm của C.Mác chưa thực sự được đẩy mạnh.
Chính những thành tựu và hạn chế nêu trên đã đặt ra cho quá trình vận dông
lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào phát triển thị trường lao động nước

ta những vấn đề cần phải quan tâm hơn nữa mà tác giả xin được nêu dưới đây.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra khi vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động
của C.Mác
Trước hết cần phải khẳng định rằng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN mà nước ta đang xây dựng là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần. Chính sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, chính yêu cầu phát triển đồng bộ các loại thị trường khác
nhau để góp phần phân bổ hợp lý, nhanh chóng, có hiệu quả các nguồn lực
trong nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hàng hoá sức lao động và thị trường sức
lao động tồn tại tất yếu ở nước ta.
Trong tiến trình phát triển tất yếu các hình thái kinh tế - xã hội, Việt Nam
đang ở giai đoạn chuyển tiếp từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến lên hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam
đang chuyển từ sản xuất hàng hoá giản đơn lên sản xuất hàng hoá XHCN, trong
đó có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hoá TBCN. Thành tựu nổi
bật nhất của sản xuất hàng hoá TBCN là khai thác được khả năng tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động để đem lại sự giàu có và
thống trị cho giai cấp tư sản, nhưng đồng thời lại tạo ra sự thất nghiệp và nghèo
khổ cho giai cấp công nhân. Theo trình tự phát triển tất yếu của nền sản xuất
hàng hoá hiện đại Việt Nam thì hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao
động cũng xuất hiện. Yếu tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hoá TBCN với
sản xuất hàng hoá theo định hướng XHCN là khả năng phát huy vai trò tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động. Đây là vấn đề
then chốt trong việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác để có
thể xây dựng một quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tốt đẹp hơn quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường TBCN.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá
trình CNH, HĐH. Vì vậy, khi vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động vào phát
triển thị trường lao động cần phải quan tâm giải quyết vấn đề nguồn cung lao
động chất lượng cao cho quá trình CNH, HĐH. Mặt khác, trong xu thế phát

triển hội nhập kinh tế quốc tế xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường ở
23


các nước phát triển là hướng đến nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi
lao động trí tuệ cao, vì vậy, người lao động phải biết nắm bắt và xử lý thông tin
nhanh nhạy, đặc biệt là trong những ngành công nghệ mới. Xu thế này của nền
kinh tế thị trường đòi hỏi việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải đặc
biệt quan tâm nâng cao giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động để góp phần
hình thành nền kinh tế tri thức.
Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác không chỉ đòi hỏi
phải nắm vững bản chất và xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường mà
còn đòi hỏi phải tập trung tìm ra những giải pháp tiếp tục vận dụng tốt các nội
dung cơ bản trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác cho phù hợp với
điều kiện của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của
C.Mác vào phát triển thị trường lao động ở nước ta từ năm 1986 đến nay, luận
văn đi vào tìm hiểu sự chuyển biến trong nhận thức lý luận của Đảng và trong
các văn bản pháp luật của nhà nước về hàng hoá sức lao động và thị trường sức
lao động trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Qua nghiên cứu cho thấy Đảng và Nhà nước ta ngày càng khẳng định sự
tồn tại khách quan và tất yếu của hàng hoá sức lao động, thị trường sức lao
động; từ đó tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường
sức lao động ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng đầy đủ những nội
dung cơ bản của lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam và đã đem lại những kết quả nhất định cho việc phát triển hàng
hoá sức lao động và thị trường lao động từ đó tạo cho sự phát triển đồng bộ các
loại thị trường.
Tuy nhiên, quá trình nhận thức và vận dụng lý luận hàng hoá sức lao

động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được những
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong tiến trình toàn cầu
hoá kinh tế, cụ thể như: về giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động còn thấp
làm hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị
hàng hoá sức lao động còn bất cập, chưa bao hàm hết những yếu tốt đáp ứng
yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người
làm công ăn lương. Hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lý
chặt chẽ. Hệ thống giáo dục - đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao
động chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

24


KẾT LUẬN
Hàng hoá sức lao động xuất hiện đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch
sử phát triển kinh tế của xã hội loài người. Nó thể hiện sự thay đổi to lớn trong
trình độ của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, năng
suất lao động tăng cao, xã hội chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
25


×