Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

sáng kiến kinh nghiêm một số biện pháp giúp HS học tốt môn toán lớp 5 trong mo hinh vnen o truong tieu hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.11 KB, 22 trang )

Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN THẠNH
-------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5B
HỌC TỐT MÔN TOÁN TRONG MÔ HÌNH VNEN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B
NĂM HỌC 2017-2018

HỌ VÀ TÊN : VÕ THỊ NGỌC HUỆ
ĐƠN VỊ:
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B

TÂN THẠNH 2017
Sáng kiến kinh nghiệm (1)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B
---oooOooo----

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5
HỌC TỐT MÔN TOÁN TRONG MÔ HÌNH VNEN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B
NĂM HỌC 2017-2018

HỌ VÀ TÊN : VÕ THỊ NGỌC HUỆ


ĐƠN VỊ:
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B

TÂN THẠNH 2017
Sáng kiến kinh nghiệm (2)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
1.Caáp cơ sở giáo dục:

Tân lập, ngày

tháng 11 năm 2017
CT.HĐKHGD

2.Hội đồng khoa học giáo dục huyện:

Tân lập, ngày
tháng 11 năm 2017
CT.HĐKHGD

Sáng kiến kinh nghiệm (3)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Dạy học theo mô hình VNEN là mô hình áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam,.
chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động giúp học
sinh tự học, chủ động khám phá kiến thức, nó khác hoàn toàn cách tổ chức dạy học
trước đây. Để học sinh tiếp thu tốt nhất lượng kiến thức của bài học thì quá trình tự
học, tự giáo dục của học sinh giữ vai trò trung tâm, còn giáo viên là người hướng
dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu kiến thức. Mà tiểu học là
cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của
con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân. Để đạt được mục đích trên, giáo viên giúp các em học tốt
các môn học, học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu được đặt ra trong mỗi tiết
học, giúp cho học sinh phát triển kĩ năng, kĩ xảo, năng lực và tư duy.
Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho các em,
cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và
sinh hoạt, sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.
Trong đời sống, môn Toán có vai trò rất quan trọng nó là một môn học rất khó,
có tính liên tục, hệ thống kiến thức dạy học trong các cấp mang tính đồng tâm.
Nếu chúng ta không khéo léo trong phương pháp giảng dạy thì sẽ rất khó gây được
hứng thú cho các em có niềm say mê học toán.
Trong chương trình Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng, môn Toán chiếm thời
gian rất nhiều. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả của dạy và học môn Toán là yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Là giáo viên đang giảng dạy lớp 5 tôi luôn suy nghĩ và tìm tòi
học hỏi xem phải làm như thế nào để các em có hứng thú yêu thích môn học vừa
khó vừa khô khan này.
Kiến thức được đưa vào chương trình toán lớp 5 có tính kế thừa và mở rộng của
các lớp dưới ở bậc Tiểu học, là điều cơ bản cần thiết và thường gặp trong đời sống
hàng ngày. Dạy học toán lớp 5 là góp phần củng cố kiến thức số đo đại lượng,
phép đo đại lượng, các đối tượng hình học và các kiến thức liên quan. Qua đó,
phát triển năng lực thực hành, tư duy của học sinh. Đồng thời dạy toán là một
trong những biện pháp quan trọng gắn học với hành, gắn kiến thức đã học với đời
sống thực tiễn.


Sáng kiến kinh nghiệm (4)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

Mặt khác đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là năng lực phân tích tổng
hợp chưa cao, tri giác thường dựa vào hình dạng bên ngoài, nhận thức chủ yếu dựa
vào cái quan sát được, chưa biết phân tích và nhận ra thuộc tính đặc trưng mà trí
tưởng tượng của học sinh đã phát triển, nhưng vẫn phụ thuộc vào mô hình mẫu vật
thật, suy luận của học sinh đã phát triển song vẫn còn là một dãy phán đoán, nhiều
khi còn cảm tính.
Có thể nói dạy học toán, chủ yếu là dạy các hoạt động thông qua các kĩ năng
giải toán. Nhờ đó mà người học được rèn luyện tư duy một cách tích cực, linh
hoạt. Nó yêu cầu người giải phải huy động toàn bộ các kiến thức, kỹ năng vào các
tình huống khác nhau để giải quyết năng động sáng tạo.
Phương pháp dạy học này đã và đang được đông đảo giáo viên tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng và từng bước hoàn thiện. Học sinh cần được đặt trước những tình
huống, các bài toán thực tế nhằm rèn khả năng suy nghĩ linh hoạt, sáng tạo, biết
vận dụng những điều đã biết để tìm con đường giải quyết khác nhau, từ đó chọn
được con đường tốt nhất để đi tới kết quả. Qua giải một bài toán, học sinh được
rèn luyện và phát triển tư duy logic, tính chủ động sáng tạo và linh hoạt. Nó góp
phần rèn tính cẩn thận, chính xác, kiên trì, vượt khó, chủ động sáng tạo cho người
học, từ đó thực hiện tốt ba nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển
kéo rất nhiều thứ thay đổi trong đó có giáo dục.Giáo dục là bước then chốt tác
động đến mọi mặt xã hội. việc thay đổi hình thức giáo dục để tạo ra một lớp người
mới năng động, tự tin, làm chủ chính mình, biết hợp tác là một xu thế tất yếu.
Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu đã mang
lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy học truyền

thống thầy dạy trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại trò
làm việc trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức, thầy quan sát giúp đỡ. Nổi bật ở hình
thức dạy học này còn là cách tổ chức chỗ ngồi, học sinh được ngồi theo nhóm,
được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình.
Về tới Việt Nam mô hình dạy học mới này có tên gọi VNEN hay mô hình trường
tiểu học mới Việt Nam. Mô hình này coi quá trình tự học của học sinh là trung tâm
hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh, giúp
học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.Trải qua hơn 2 năm dạy thực nghiệm tôi
nhận thấy không những phụ huynh mà còn nhiều giáo viên vẫn bỡ ngỡ chưa hiểu
rõ bản chất của việc dạy học này.Và đặc biệt rất khó khăn trong quá trình tổ chức
dạy học môn toán. Môn toán là môn học đặc trưng chiếm thời lượng nhiều trong
tất cả các giờ học. Môn toán đòi hỏi tư duy logic và sự tập trung cao độ.Học sinh
gặp nhiều khó khăn trong quá trình trải nghiệm, thực hành, chiếm lĩnh kiến thức.
Sáng kiến kinh nghiệm (5)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

Xuất phát từ thực tế này và với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán
cho học sinh tiểu học tôi chọn sáng kiến:“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5B
học tốt môn Toán trong mô hình VNEN” nhằm giúp các em ham thích học môn
toán.
Với đề tài này bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng ở Trường tiểu học Tân
Lập B năm học 2016-2017 đã đem lại kết quả rất khả quan, và tôi tiếp tục áp dụng
trong năm học 2017-2018 với hướng phát huy năng lực học sinh.

PHAÀN NỘI DUNG
I. THÖÏC TRAÏNG ĐỀ TÀI
1.Về phía giáo viên:


Sáng kiến kinh nghiệm (6)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

Đầu năm học, giáo viên chúng tôi đều được nhà trường tổ chức tập huấn
phương pháp dạy học theo mô hình trường học kiểu mới (mô hình VNEN) để vận
dụng trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên trong thời gian đầu, việc vận dụng còn
rất bất cập, lúng túng, chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể vì vậy việc nghiên cứu
sách Hướng dẫn học, tài liệu giảng dạy để thiết kế phiếu học tập cho mỗi tiết học
còn gặp nhiều khó khăn. Khi sử dụng mô hình này còn bị hạn chế bởi không gian
chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định cho một tiết học, giáo viên phải mất
nhiều thời gian chuẩn bị đồ dùng và thiết kế nhiệm vụ cho nhóm. Do vậy giáo viên
ngại đổi mới, ngại dạy học theo mô hình. Đôi khi giáo viên còn tổ chức hoạt động
nhóm mang tính hình thức, chưa quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh
trong khi các em học nhóm, nhất là học sinh yếu. Chưa tổ chức các hoạt động phù
hợp với từng nhóm, từng học sinh một cách cụ thể dẫn đến kết quả chưa cao. Bên
cạnh đó một số giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học còn mang tính rập khuôn
chưa có tính chủ động sáng tạo.
2.Về phía học sinh:
Trong năm học này học sinh khối 3,4,5 được học theo mô hình trường học
mới(Vnen). Các em luôn thực hiện theo 10 bước học tập, học theo nhóm là chính
nên học sinh tự giác, mạnh dạn, biết chia sẻ, phát huy được tính năng động sáng
tạo. Nhờ đó mà trong những giờ ngoại khóa, tiết học thực hành…chúng tôi hướng
dẫn các em quan sát mô hình học tập ở các khối chọn làm thí điểm này nhiều học
sinh đã có ý thức tự giác, mạnh dạn hơn trước, biết chia sẻ, biết cách tổ chức trong
học nhóm và bước đầu thực hiện được các bước học tập theo mô hình mới. Thế
nhưng trong quá trình giảng dạy tôi thấy nhiều học sinh từ trước không được làm
quen với cách học này nên có phần bỡ ngỡ. Một số học sinh năng lực chỉ đạo
nhóm còn hạn chế thường e dè, chưa mạnh dạn, thiếu tự tin năng lực chỉ đạo chưa

quen, chưa thành thạo 10 bước học tập. Bên cạnh đó tài liệu Hướng dẫn học tập
không có còn phụ thuộc vào cuốn sách hiện hành bởi vậy còn gặp nhiều khó khăn
nhất định. Một số học sinh còn hiếu động chưa có lòng kiên trì và quyết tâm cao,
thấy khó là các em lùi bước vì khả năng phân tích, tổng hợp đề toán kém. Hạn chế

Sáng kiến kinh nghiệm (7)


Vừ Th Ngc Hu-Trng Tiu hc Tõn Lp B

trong vic tỡm ra mi quan h gia cỏc d kin ca bi toỏn, túm tt bi toỏn thiu
chớnh xỏc. Hc sinh hon thnh tt thỡ cha cú thúi quen tỡm nhiu cỏch gii khỏc
cho mt bi toỏn. Mt s em do k nng tớnh toỏn hoc gii toỏn cũn hn ch nờn
rt s hc vỡ vy vic dy toỏn bờn cnh nhng thnh cụng vn cũn nhiu hn ch.
Qua hai nm ging dy trng, tụi theo dừi v ghi chộp ó thy cỏc em
hc sinh lm quỏ chm, lm cha t. Kt qu c th cỏc lp trong quá
trình nghiên cứu các em học mụn Toỏn , tôi khảo sát lần 1.
TS
HS

u nm

Lm tt
SL

TL

Lm khỏ
SL


Lm cha
t
TL
SL
TL
35,8% 13 21,4%
29,2% 8

Lm t

TL

2016-

14

3

21,4%

3

SL
21,4% 5

2017
2017-

24


4

16,7%

5

20,8% 7

33,3%

2018

T nhng s liu bng trờn cho thy :
- T nm hc 2016-2017 ch cú 21,4% hc sinh lm tt, 21,4% hc sinh lm
khỏ, 35,8% hc sinh lm t, 21,4% hc sinh lm cha t.
- Nm 2017-2018 ch cú 16,7% hc sinh lm tt, 20,8% hc sinh lm khỏ,
29,2% hc sinh lm t, 33,3% hc sinh lm cha t.
Nh vy, qua 2 nm hc tụi theo dừi, kt qu cho thy ch trờn di 35% s
hc sinh lm khỏ, tt v s cũn li lm t, lm cha t.
Qua tỡm hiu thc t lp v gia ỡnh cỏc em cho thy nguyờn nhõn ca tỡnh
hỡnh nờu trờn l:
- Trỡnh hc sinh trong lp cũn chờnh lch nhiu.
- K nng iu hnh, t qun lp hc v ý thc hp tỏc nhúm cha cao, nhp
hot ng cỏ nhõn cha m bo.
- Phng tin, dựng cn thit cho tit hc cũn hn ch.
- Ph huynh hc sinh cha nm bt c phng phỏp dy hc theo mụ
hỡnh trng hc mi.
T nhng nguyờn nhõn trờn, bn thõn tụi ra nhng gii phỏp khc phc
nh sau:


Sỏng kin kinh nghim (8)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

- Tìm hiểu kỹ đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh.
- Nghiên cứu các tài liệu dạy học có liên quan đến từng tiết dạy và dạy học
theo nhóm đối tượng.
- Chuẩn bị đồ dùng và phương tiện dạy học.
- Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
- Dự kiến phân phối thời gian cho từng hoạt động.
- Hình thành các kĩ năng tính toán cho học sinh.

II. CÁC GIẢI PHÁP
Giải pháp 1: Tìm hiểu kỹ đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh.
Khi nhận lớp giáo viên phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý và trình độ nhận
thức của học sinh nhưng việc tìm hiểu phải diễn ra trong một quá trình. Bởi vậy

Sáng kiến kinh nghiệm (9)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

trong giảng dạy để đạt hiệu quả,bản thân tôi không ngừng phối kết hợp với phụ
huynh, gần gũi học sinh, nắm bắt từ phía giáo viên chủ nhiệm năm trước, giáo
viên bộ môn để tìm hiểu rõ đặc điểm của từng đối tượng học sinh. Trước mỗi tiết
dạy, mỗi lượng kiến thức mới bao giờ tôi cũng phải hiểu rõ về học sinh của mình,
đặc điểm trình độ từng đối tượng học sinh. Cụ thể các em đã có kĩ năng, kĩ xảo
tính toán gì và chưa hệ thống tốt ở nhóm kiến thức nào, dạng toán điển hình
nào...Từ đó giáo viên phát huy điểm mạnh và sửa chữa sai lầm của các em. Sự

hiểu biết này giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung kiến
thức và từ đó nâng dần kĩ năng tính toán cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn
các em đặt tính cộng, trừ số thập phân các hàng chưa thẳng cột với nhau nên dấu
phẩy chưa thẳng hàng dẫn đến sai kết quả tính. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh
thêm chữ số 0 vào bên phải phần thập phân để các số tham gia vào phép tính có
cùng một số chữ số ở phần thập phân.
Ví dụ: Thực hiện các phép tính sau :
4,3 + 0,65 = ….
35,25 – 8,774 = …..
35,250
+ 4,30
0,65
8,774
4,95
26,476
Nắm đặc điểm trình độ nhận thức của cả lớp, là một yếu tố quan trọng để giáo
viên chuẩn bị cho giờ dạy đạt hiệu quả cao.
Giải pháp 2.Nghiên cứu các tài liệu dạy học có liên quan đến từng tiết dạy và
dạy học theo nhóm đối tượng.
- Nghiên cứu chương trình, tài liệu dạy học và Hướng dẫn học tập Toán 5.
+ Tôi xem lại chương trình cả cấp học và lớp học mà tôi được phân công bắt đầu
từ mục tiêu môn học. Đồng thời tìm hiểu trước để nắm toàn bộ nội dung sách giáo
khoa, từng chương, từng nhóm kiến thức… khối lớp mà tôi sẽ dạy.
Học xong toán 5, HS phải đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng về:
+ Khái niệm ban đầu về số thập phân, cộng, trừ, nhân chia số thập phân và tỉ số
phần trăm.
+ Nhận biết về biểu đồ hình quạt và ý nghĩa thực tế của nó; biết thu thập và xử lí
thông tin đơn giản từ một biểu đồ hình quạt.
+ Chuyển đổi thành thạo các đơn vị đo từ lớn đến bé từ bé đến lớn của các bảng
đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian và vận tốc.


Sáng kiến kinh nghiệm (10)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

+ Nhận biết đặc điểm, từ đó tính được diện tích các hình tam giác, hình thang.
Nhận biết được đường tròn, hình tròn, bán kính, đường kính. Từ đó có kĩ năng
tính chu vi, diện tích của hình tròn và một tổ hợp hình. Biết một số đặc điểm của
hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ, hình cầu và có kĩ năng tính diện tích
xung quanh và diện tích toàn phần, thể tích của hình hộp chữ nhật, hình lập
phương.
+ Biết giải và trình bày các bài toán đến bốn bước tính về: Quan hệ tỉ lệ, tỉ số
phần trăm, toán chuyển động đều và bài toán có nội dung hình học.
Ngoài việc nghiên cứu sách và tài liệu để giảng dạy tôi kết hợp tham khảo
nghiên cứu tài liệu Hướng dẫn học Toán 5 để vận dụng tốt trong quá trình dạy học
theo mô hình mới.
- Định hướng trong quá trình thiết kế bài dạy:
+ Giáo viên trong vai trò là người tổ chức quá trình hoạt động của học sinh, việc
đầu tiên vô cùng quan trọng mà người giáo viên cần làm là thiết kế bài dạy, xác
định mục tiêu, Chuẩn kiến thức kỹ năng và điều kiện dạy học để xây dựng nội
dung cho học sinh hoạt động. Đối với những bài học có liên quan và vận dụng vào
thực tế, giáo viên thiết kế phiếu học tập cho học sinh tự liên hệ từ ví dụ và trực
tiếp cân, đo, đếm… để thấy được vai trò quan trọng của môn toán trong đời sống
con người.
Ví dụ: Những bài tập nâng dần từ bài dễ đến bài khó, giáo viên chỉ cho học sinh
yếu thực hành bài các em tính toán được. Những bài khác cho thảo luận dưới sự
hướng dẫn của giáo viên nếu còn thời gian cho các em làm tại lớp hoặc về nhà làm
lại, tiết sau giáo viên kiểm tra.
+ Đối với những nhóm có học sinh yếu giáo viên cần xây dựng các phiếu học tập

với lượng bài tập vừa đủ để học sinh luyện tập và củng cố kiến thức, không nên
cho một lượng bài tập quá tải, quá khó để các em nản mà nghĩ mình làm không
được .
Ví dụ: Việc dạy học phù hợp theo từng nội dung bài học và đối tượng học sinh,
tôi chia theo 3 nhóm đối tượng: làm tốt, làm khá – làm đạt – làm chưa đạt và đặc
biệt quan tâm đến nhóm đối tượng làm đạt – làm chưa đạt. Cho các em thảo luận
đi đến thống nhất những dữ liệu cho biết dễ phát hiện và tìm những dữ liệu cần
tìm cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, xác lập mối liên hệ trong các dữ liệu,
cho học sinh nhắc lại công thức áp dụng và đi đến thống nhất lời giải, trình bày
bài toán cùng với việc động viên, khuyến kích kịp thời của các bạn và cô giáo.
Sáng kiến kinh nghiệm (11)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

+ Đối với nhóm có học sinh kỹ năng tính toán nhanh nên thiết kế phiếu bài tập
nâng cao để bồi dưỡng và phát triển năng lực cho các em. Giáo viên phải khéo léo
đặt tình huống có vấn đề để cho các em khỏi so bì mình được giao việc khó hơn tự
phát huy năng lực phát hiện, sáng tạo và tìm cách giải khác. Sau khi học sinh hoàn
thành và báo cáo kết quả tôi nhận xét , tặng ngay bông hoa điểm tốt hoặc ghi vào
sổ theo dõi để khích lệ sự hứng thú và lòng say mê ở các em.
Cùng với những việc làm trên, GV cần kết hợp lựa chọn phương pháp dạy và
hình thức dạy học mới một cách phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Giải pháp 3.Chuẩn bị đồ dùng và phương tiện dạy học.
Để tổ chức một giờ dạy thành công thì công việc chuẩn bị đồ dùng, phương tiện
và hình thức dạy học là cần thiết không thể thiếu đối với giáo viên. Tùy theo bài
dạy để chuẩn bị các phương tiện như tranh ảnh, vật thực cho học sinh quan sát; câu
hỏi hoặc nội dung, phiếu bài tập để học sinh thảo luận, bàn bạc; thời gian quy định
cho mỗi hoạt động; bảng nhóm để học sinh ghi chép kết quả hoạt động.
Học sinh cần chuẩn bị đầy đủ phương tiện học tập như sách vở, bút mực và các

đồ dùng khác phục vụ cho việc thảo luận nội dung học tập như: sưu tầm tranh ảnh,
vật thực…
- Cần ghi rõ đồ dùng trực quan cần chuẩn bị, các phương tiện này dùng cho hoạt
động nào, vào lúc nào. Đồ dùng, các phương tiện góp phần không nhỏ tạo ra hiệu
quả giờ dạy .
Khi chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên cần xác định mục đích của đồ dùng đó
là gì ? Nó được sử dụng vào lúc nào và cách sử dụng ra sao? Không nên sử dụng
chúng một cách tuỳ tiện không nắm rõ mục đích sử dụng.
Ví dụ:
- Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học như: bảng nhóm, phiếu bài
tập, vật mẫu, tranh ảnh minh họa…vv…và sử dụng có hiệu quả nhất định
trong từng tiết dạy.
- Học sinh: Tài liệu Hướng dẫn học, vở nháp, bút , giấy A 0, bút dạ, thước, tẩy,
tranh ảnh, vật mẫu…
Giải pháp 4.Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Để thể hiện một tiết dạy thành công thì việc lựa chọn phương pháp và hình
thức dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vậy bản thân tôi luôn
trăn trở tìm mọi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho mỗi hoạt động
Sáng kiến kinh nghiệm (12)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

trong từng tiết dạy làm sao để phát huy tối ưu tính tích cực, chủ động, say mê,
sáng tạo của mỗi học sinh. Nên mỗi tiết dạy tôi luôn lựa chọn phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học có thể không giống nhau.
Nhưng cơ bản trong một bài học, giáo viên nên chú ý phương pháp dạy một cách
có hệ thống, từ phần gợi động cơ tạo hứng thú à trải nghiệmà phân tích à
khám phá rút ra bài học à thực hành vận dụng bài học một cách sáng tạo không
nhất thiết phải lặp lại một cách máy móc tất cả các ví dụ trong tài liệu Hướng dẫn

học.
- Giáo viên cần có hệ thống câu hỏi một cách tổng hợp qua phiếu bài tập để giúp
học sinh tư duy tốt, hạn chế câu hỏi vụn không mang tác dụng cho các em.
- Trong quá trình dạy học bài mới, giáo viên nên đặt nhiều tình huống có vấn đề,
câu hỏi khoa học từ dễ đến khó, phù hợp với các đối tượng học sinh tránh sự nhàm
chán. Giáo viên tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tranh luận, nhận xét trong từng
nhóm về bài học đó, có như vậy học sinh mới thấy thích thú vì tự mình phát hiện
ra kiến thức, qua đó giúp các em nhớ lâu và hiểu bài tốt hơn .
- Giáo viên nên chú ý tránh tiết học với không khí căng thẳng nặng nề. Muốn vậy
trong tiết học, giáo viên tổ chức cho các em thi đua làm bài tập theo nhóm và
tuyên dương khen ngợi, khuyến kích để học sinh thích thú và cố gắng hơn .
- Tổ chức giờ học sao cho mọi học sinh đều hoạt động học tập kể cả những học
sinh yếu đều tiếp thu một cách chủ động, tự lực trong mọi khâu để đạt kết quả cao
nhất cho từng cá thể.
Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học để thu hút học sinh
vào hoạt động dạy và học.
- Giáo viên tránh làm thay, nói thay, nghĩ thay cho học sinh, mà chú trọng dạy học
theo từng nhóm đối tượng, trân trọng và khuyến khích mọi suy nghĩ của học sinh,
chuẩn bị tiềm lực để đáp ứng sự phát triển của học sinh.
- Giáo viên giúp học sinh tự đánh giá được kết quả bài làm của mình và của bạn
mình trong nhóm cũng như cả lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài: Hình hộp chữ nhật, hình lập phương
Hoạt động 1: Khởi động
Hoạt động 2: Tìm hiểu kiến thức
Giáo viên chuẩn bị phiếu để học thảo luận nhóm như sau:
- Cá nhân đọc thông tin a,b (trang 39) ở phần nhiệm vụ 1 và trao đổi trong nhóm
rút ra nhận xét.
Sáng kiến kinh nghiệm (13)



Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

- So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hình hộp chữ nhật, hình lập phương
(Ghi kết quả thảo luận vào bảng nhóm).
Lưu ý: Nếu học sinh còn lúng túng, chưa hiểu rõ vấn đề thì giáo viên hướng dẫn
học sinh quan sát thêm vật mẫu và chỉ rõ về các kích thước của nó.
* Gọi các nhóm trình bày, nhận xét rút ra nội dung kiến thức đã tìm hiểu.
Để khắc sâu kiến thức cho học sinh giáo viên cho các nhóm thi kể các đồ vật có
dạng hình hộp chữ nhật và hình lập phương.
Giải pháp 5. Dự kiến phân phối thời gian cho từng hoạt động.
Trong 40 phút để hoàn thành mục tiêu một tiết dạy với nhiều hoạt động giáo
viên phải xác định rõ lượng kiến thức và vai trò của nó để phân phối thời gian hợp
lý, tránh thiếu hoặc thừa thời gian lên lớp. Không những thế mà giáo viên phải dự
kiến những tình huống có thể xảy ra cho từng hoạt động ở mỗi tiết dạy để không
rơi vào thế bị động cả về kiến thức và thời gian. Trước khi lên lớp giáo viên đã
chuẩn bị dự kiến được các thời gian và các tình huống như trên thì bao giờ cũng
chủ động tự tin và thành công trong tiết dạy.
Ví dụ: Bài: Ôn tập về số thập phân (trang 52).
Hoạt động 1: Khởi động (5 phút)
Hoạt động 2: Thực hành ( 30)
Bài 1: ( 6 phút) Học sinh thực hiện theo nhóm.
Bài 2: ( 8 phút) Học sinh làm việc nhóm đôi.
Bài 3: (6 phút) Cho học sinh làm vào vở
Giáo viên cần quan tâm hơn học sinh yếu và nói rõ thêm cho học sinh biết trong
trường hợp sử dụng các đơn vị tiền tệ để tránh gian lận người ta thường cần viết
thêm chữ số 0 vào bên phải số thập phân để khóa số.
Bài 4: ( 6 phút) Học sinh thực hiện kỹ thuật khăn khăn trải bàn theo nhóm.
Bài 5: ( 4 phút) Dành cho học sinh làm việc cá nhân.
Hoạt động 3: Củng cố - Tổng kết (5 phút)
Giải pháp 6.Hình thành các kĩ năng tính toán cho học sinh:

- Khi dạy về số và phép tính: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các phép
cộng trừ các số thập phân, cho học sinh nhận biết sự tương tác giữa phép cộng,
trừ các số thập phân với phép cộng, trừ các số tự nhiên. Giáo viên khắc sâu cho
học sinh từ cấu tạo gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân của số thập
phân.

Sáng kiến kinh nghiệm (14)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

+ Khi dạy phép chia số thập phân, giáo viên cần giúp học sinh nhận rõ bản chất
của gạch bỏ dấu phẩy của số chia là nhân số đó lên 10;100;1000...Và khi gấp số
chia lên bao nhiêu lần thì cũng phải gấp số bị chia lên bấy nhiêu lần để thương
không thay đổi. Đối với phép chia số thập phân có dư, giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh phép chia dư trong phép chia có thương là các số tự nhiên thì số dư là
duy nhất, nhưng phép chia có thương là số thập phân thì thương không phải là duy
nhất.
Ví dụ:
16
1

3

16

3

5(dư 1)


10 5,3 (dư 0,1)
1

16

3

10 5,33 (dư 0,01)
10
1
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh đánh dấu phẩy chính xác ở thương và xác định
số dư thuộc hàng phần nào của số thập phân: Vì thương là 5,3 có hàng phần mười
nên số dư là


1
; thương là 5,33 hàng phần cuối cùng là hàng phần trăm nên số dư
10

1
. Nếu HS yếu còn lúng túng thì giáo viên đến tận học sinh đó giúp các em
100

xác định số dư chính xác .
- Hình thành kỹ năng giải toán có lời văn qua đọc đề; thảo luận phân tích xem
bài toán có dạng toán cụ thể nào và đưa ra hướng giải và cách trình bày cho dạng
toán đó.
+ Giáo viên lệnh cho học sinh đọc đề, thảo luận, phát hiện dạng toán và đưa ra
hướng giải. Đây là một thói quen để hình thành và tạo cho các em kĩ năng phát
hiện và kĩ năng giải 8 dạng toán cơ bản ở tiểu học về: Tìm số trung bình cộng;

tổng - hiệu; tổng - tỉ; hiệu - tỉ; quan hệ tỉ lệ; bài toán về tỉ số phần trăm; bài toán
về chuyển động đều; bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích, thể tích).
Ví dụ: Dạng toán: “Quan hệ tỉ lệ” sau khi đọc đề phát hiện và biết có hai cách
giải “Rút về đơn vị” và “Lập tỉ số” .
* Giáo viên giúp học sinh hình thành kĩ năng về phát triển ngôn ngữ, tư duy
bằng cách nói, viết tính chất, quy tắc, công thức…
Ở lớp 5 học sinh bước đầu sử dụng phương pháp suy luận, suy diễn, từ đó rèn
luyện những đức tính tốt đẹp của người lao động mới: cần cù, khéo léo, khoa học
và sáng tạo. Như vậy việc dạy toán không bó hẹp trong giờ học toán. Nó sẽ hình

Sáng kiến kinh nghiệm (15)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

thành một kĩ năng học tập, chiếm lĩnh khoa học và có vai trò quan trọng trong đời
sống.
Ví dụ minh họa:
Toán:
TỔNG CỦA NHIỀU SỐ THẬP PHÂN ( sách Toán 5 trang 51)
I.MỤC TIÊU :
- Biết tính tổng nhiều số thập phân.
- Tính chất kết hợp của phép cộng các số thập phân.
- Biết vận dụng các tính chất của phép cộng để tính tổng bằng cách thuận tiện nhất.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC DẠY HỌC:
* Phương pháp: Hỏi đáp, luyện tập thực hành, quan sát
* Hình thưc: Cả lớp, nhóm, cá nhân,…
III. CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
Giáo viên: Phiếu bài tập, giấy A0, bảng nhóm
Học sinh: Vở bài tập, bút, thước, bút dạ

IV. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Khởi động ( 3phút)
Nhiệm vụ 1: Trò chơi “ Tìm nhà thông thái ” với nội dung:

- Bạn Nam ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,28 dm
- Bạn Hùng ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,29 dm
- Bạn Dũng ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,27 dm
Em thử đoán xem theo như ước lượng của cả 3 bạn thì trung bình chiều cao của
cửa sổ lớp học chúng mình là bao nhiêu nhỉ?
Nhận xét
Giới thiệu bài.
Nhiệm vụ 2 và 3: Hướng dẫn tìm hiểu bài mới ( 14 phút)
Các nhóm đọc thông tin:
a) Ví dụ
b) Bài toán ở Hướng dẫn học Toán 5, trang 9
Nhận xét và rút ra được kết luận gì viết vào bảng nhóm; nêu nội dung bài học.

Sáng kiến kinh nghiệm (16)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

Nhiệm vụ 4: Hướng dẫn thực hành ( 20 phút)
Bài 1: Tính ( 5 phút) Cho học sinh làm việc cặp đôi hoàn thành vào vở nháp

Bài 2: ( 5 phút)
Cá nhân làm bài vào phiếu học tập
Tính rồi so sánh giá trị của (a + b) + c và a + (b + c)
a
2,5

1,34

b
6,8
0,52

c
1,2
4

(a+b) +c

a + (b+ c)

Khi cá nhân làm giáo viên giúp học sinh còn chậm.
Sau khi làm xong cho học sinh nêu nhận xét để khắc sâu kiến thức.
Bài 3: ( 5 - 8 phút) Sử dụng tính chất giao hoán và tính chất kết hợp để tính:
Học sinh trao đổi thảo luận và thực hiện kĩ thuật khăn trải bàn

Bài 4: ( 5 phút) Giải bài toán sau:
Phiếu bài tập
Một con óc sên ngày đầu bò được 28,4 dm; ngày thứ 2 bò được nhiều hơn
ngày đầu 0.8dm; ngày thứ 3 óc sên lại bò được ít hơn ngày đầu 1dm. Cả trong 3
ngày con óc sên đó bò được bao nhiêu m ?
Hoạt động 4: Hoạt động ứng dụng ( 3 phút)

Về nhà thực hành đo và tính chu vi mặt bàn em ngồi học (theo đơn vị m).

III. KẾT QUẢ


Sáng kiến kinh nghiệm (17)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

Với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN tất cả học sinh trong lớp đều
được cùng nhau bàn bạc, hợp tác để giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp dạy
học dễ tổ chức và áp dụng được cho tất cả các môn học trong chương trình tiểu
học. Qua hoạt động học tập học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình với người
khác, với tập thể, làm cho các em trở nên tự giác, linh động, sáng tạo, mạnh dạn,
tự tin hơn. Học sinh biết nghe và lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của người khác để
bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, đồng thời tập dượt cho các em vai trò chỉ đạo.
Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các em hứng thú, say sưa sôi nổi hơn
trong học tập. Những học sinh năng khiếu thực sự có điều kiện phát huy năng lực
của mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính toán hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít
trao đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi
hơn nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự
phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em học tập một cách hứng thú, tập trung
với tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và
hiệu quả. Lớp học trở nên thân thiện, gần gũi tạo cho các em có được cảm giác
mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Qua quá trình áp dụng các giải pháp nêu trên, với sự xuyên suốt kiên trì của
giáo viên và sự nổ lực cố gắng của học sinh. Tôi nhận thấy học sinh lớp tôi có
chuyển biến rõ rệt theo thống kê :
Năm học: 2016-2017
Làm tốt

TG khảo sát

TSHS

14
14

Đầu năm
Cuối năm

Làm khá

Làm chưa
đạt
SL TL

Làm đạt

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3
5

21,4%

35,8%

3
5

21,4%
35,8%

5
4

35,8%
28,6%

3
0

21,4%
0%

Năm học: 2017-2018
TG khảo sát

TS
HS

Làm tốt
SL

TL


Làm khá
SL

TL

Làm đạt
SL

TL

Làm chưa
đạt
SL
TL

Sáng kiến kinh nghiệm (18)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

24
4
16,7% 5 20,8% 7
Đầu năm
29,2% 8 33,3%
24
5
20,8%
6 25 %

8
33,3% 5 20,8%
Giữa kì 1
Từ bảng trên cho thấy, qua quá trình theo dõi và thực hiện số học sinh làm từ

đạt trở lên tăng và số học sinh làm chưa đạt giảm rõ rệt.
* Năm học : 2016-2017
-Số học sinh làm khá tốt tăng 40 %
-Không còn học sinh làm chưa đạt .
* GHKI Năm học :2017-2018
-Số học sinh làm khá tốt tăng 45 %
- Học sinh làm chưa đạt giảm 13%.
Điều này chứng tỏ rằng việc áp dụng các giải pháp hỗ trợ trên rất có hiệu
quả, học sinh làm bài tốt hơn nhiều, hứng thú học môn toán và các môn khác nữa.
Trong năm học qua từ việc áp dụng những giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt
môn Toán trong mô hình VNEN. Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các
em hứng thú, say sưa sôi nổi hơn trong học tập. Những học sinh năng khiếu thực
sự có điều kiện phát huy năng lực của mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính
toán hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít trao đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã
mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi hơn nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao
tiếp học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em học
tập một cách hứng thú, tập trung với tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy
nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và hiệu quả.

KẾT LUẬN
Học sinh Tiểu học hiện nay có trí thông minh khá nhạy bén, có óc tưởng
tượng phong phú, đó là tiền đề tốt cho việc phát triển nâng cao tư duy toán học

Sáng kiến kinh nghiệm (19)



Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

nhưng cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt căng thẳng, quá tải. Chính vì
thế, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải truyền
đạt… làm thế nào cho phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi là điều kiện không thể xem
nhẹ.
Muốn cho việc giải toán có hiệu quả thì người giáo viên phải biết vận dụng
các kĩ năng, nghệ thuật giải toán để tạo ra sự hứng thú cho các em, gợi mở kiến
thức bằng các câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em
tự giải quyết các vấn đề đó. Đồng thời giáo viên phải hiểu rõ bản chất của dạng
toán đó cũng như thực sự tìm tòi, trao đổi đồng nghiệp thể hiện tình thương, trách
nhiệm và lòng yêu nghề mến trẻ.
Các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà sư phạm trên toàn thế giới cũng thống
nhất quan điểm: “Kích thích hứng thú tư duy cho học sinh là khâu trọng yếu nhất
trong quá trình truyền thụ tiếp thu kiến thức cũng như rèn luyện kĩ năng”. Riêng
đối với môn toán, môn học từ xưa đến nay được xem là khó khăn, là môn học khó
đối với học sinh. Làm thế nào để kích thích hứng thú, tư duy cho học sinh nhất là
học sinh còn nhỏ tuổi. Tôi hi vọng sẽ có nhiều thầy cô quan tâm việc nâng cao
chất lượng học toán cho học sinh tiểu học.
Để giúp học sinh học tốt Toán 5 theo mô hình VNEN thì bản thân tôi đã
thực hiện các giải pháp trên trong quá trình dạy và học. Trong lớp một số học sinh
chưa hoàn thành từ chỗ lười học nay đã có sự tiến bộ nhiều: siêng năng hơn,
không còn lo lắng sợ sệt khi gặp bài toán khó để cho rằng khả năng mình làm
không được. Bên cạnh đó người giáo viên phải thường xuyên làm giàu vốn kiến
thức của bản thân để trong quá trình dạy học có thể ứng xử kịp thời với những tình
huống, với những bài khó mà học sinh nêu ra. Giáo viên vừa là người thầy truyền
đạt những kiến thức vừa là người cha, người mẹ chăm sóc thương yêu và động
viên, an ủi, để giúp học sinh ngày càng tiến bộ. Đồng thời luôn luôn làm tốt công
tác xã hội hóa giáo dục đó là một yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục.

Qua thực tế vận dụng trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã đúc kết ra những
bài học cụ thể như sau:

Sáng kiến kinh nghiệm (20)


Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

- Cần xác định rõ mục tiêu bài dạy và thiết kế bài giảng chu đáo.
- Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện và nội dung cho hoạt động .
- Lựa chọn phương pháp và tổ chức hình thức dạy họcmột cách linh hoạt.
- Tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học, môn
học, thời gian học theo từng đặc điểm và trình độ nhận thức của từng học sinh
trong lớp.
- Trong quá trình tổ chức, giáo viên cần quan tâm giúp đỡ nhóm, cá nhân hoạt
động còn chậm, chưa sôi nổi.
- Đánh giá, nhận xét phải hết sức công bằng, vô tư, khách quan, có tính chất động
viên, khích lệ học sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã áp dụng và đúc kết qua
thực tế giảng dạy Toán ở lớp 5. Tôi xin mạnh dạn trình bày lên đây mong các bạn
đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để bản thân tôi giảng dạy tốt hơn
trong những năm tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Trần Ái - Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Quý Thao - Bùi Quang Tuấn
-Nguyễn Hồng Vy - Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 - Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội.
Sáng kiến kinh nghiệm (21)



Võ Thị Ngọc Huệ-Trường Tiểu học Tân Lập B

2. Ngô Trần Ái - Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Quý Thao - Bùi Quang Tuấn
-Nguyễn Hồng Vy - Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 - Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội.
3 . Ngô Trần Ái - Nguyễn Quý Thao - Phạm Ngọc Định - Ngô Ánh Tuyết - Vũ
Khánh ( Năm 2013) -Tài liệu tập huấn dạy học theo mô hình trường tiểu học mới
Việt Nam lớp 4 - Tập 1,2.
4. Trần Diên Hiển: “ Toán và phương pháp dạy học toán ở tiểu học” (Dự án phát
triển giáo viên tiểu học)
5. Nguyễn Thị Bích Hà - Nguyễn Việt Hà: “ Dạy bài toán tỷ số phần trăm theo
quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” (Chuyên đề GDTH-2006)
6. Ths Lê Ngọc Sơn: “Dạy học diện tích hình tam giác( toán 5) theo hớng dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề” (TCGD-7/2006)84.
7.Ths Nguyễn Thị Châu Giang: “Tìm hiểu nội dung dạy học số thập phân ở lớp 5
trên cơ sở toán học cao cấp” ( TCGD-7/2006)
8. Bùi Văn Huệ: “Tâm lý học tiểu học” (NXB Giáo dục-1997)
9. Đặng Vũ Hoạt: “ Bài giảng chuyên đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của
học sinh”
10. Đỗ Đình Hoan: “Hỏi đáp về phương pháp dạy học ở tiểu học” (NXB Giáo
dục-1997)
11. Tài liệu tập huấn bồi dưỡng thường xuyên tiểu mô đun 15.( Năm 2013) .

Sáng kiến kinh nghiệm (22)



×