Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

BÀI GIẢNG những vấn đề mới của bộ luật tố tụng hình sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.95 KB, 40 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ MỚI CỦA
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA BLTTHS NĂM 2015 SO
VỚI BLTTHS NĂM 2003
Bộ luật TTHS năm 2015 gồm 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36
chương. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 tăng thêm 164 điều. Về
bố cục, tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần khởi tố, điều tra vụ án hình
sự để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố); ghép phần xét xử
sơ thẩm và phần xét xử phúc thẩm điều chỉnh trong một phần (Phần thứ tư: xét xử
vụ án hình sự). Cụ thể như sau:
- Phần thứ nhất: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 142).
- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (từ Điều 143 đến Điều 235).
- Phần thứ ba: Truy tố (từ Điều 236 đến Điều 249).
- Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự (từ Điều 250 đến Điều 362).
- Phần thứ năm: Một số quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa án
(từ Điều 363 đến Điều 369).
- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (từ
Điều 370 đến Điều 412).
- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt (từ Điều 413 đến Điều 490).
- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế (từ Điều 491 đến Điều 508).
- Phần thứ chín: Điều khoản thi hành (Điều 509 và Điều 510).
So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Về những nguyên tắc cơ bản (Chương II)
* BLTTHS năm 2003: quy định hệ thống các nguyên tắc cơ bản tại Chương 2
gồm 30 nguyên tắc (từ Điều 3 đến Điều 32). Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS
hiện hành cho thấy nhiều quy định không mang tính nguyên tắc mà chỉ là trình tự, thủ
tục tố tụng; thiếu một số nguyên tắc, nhất là những nguyên tắc có ý nghĩa đối với việc
bảo đảm quyền con người, quyền công dân.


1


* BLTTHS năm 2015: Nhằm bảo đảm các quy định về nguyên tắc cơ bản
đúng nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực hiện BLTTHS,
tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các
chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ 30 nguyên tắc hiện hành,
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số nguyên tắc mới nhằm phù hợp với Hiến
pháp năm 2013, đồng thời, loại bỏ những quy định không mang tính nguyên tắc và
BLTTHS năm 2015 quy định 27 nguyên tắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đổi tên một số nguyên tắc quy định tại BLTTHS năm 2003 và điều
chỉnh nội dung của 25 nguyên tắc hiện hành nhằm khắc phục những hạn chế thời gian
qua, đồng thời bảo đảm phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013 Ví dụ:
đổi tên nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có Bản án kết tội của Tòa án có
hệu lực pháp luật (Đ.9 Luật 2003 thành suy đoán vô tội (Điều 13); đổi tên nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án thành nguyên tắc: tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm (Điều 26) bổ sung quy định Công dân Việt Nam không thể bị trục
xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11).
Thứ hai, bổ sung 02 nguyên tắc mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người,
quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: không ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm (Điều 14); kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự (Điều 33).
Thứ ba, loại bỏ hoặc đưa một số quy định không mang tính nguyên tắc mà
chỉ có tính chất là thủ tục hoặc là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, công dân
để quy định trong các chương khác tương ứng của BLTTHS nhằm bảo đảm tính
khoa học, chặt chẽ của hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Ví dụ: giám đốc việc xét
xử đ.21 (bỏ); Đ.25. trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm (chuyển lên Chương 1 phạm vi điều chỉnh, nhiệm
vụ và hiệu lực của Bộ luật); Đ. 26 sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các
cơ quan tiến hành tố tụng(bỏ)…
Tóm lại, có nhiều điều chỉnh trong Chương những nguyên tắc cơ bản và đều

hướng đến mục tiêu xây dựng nền tư pháp dân chủ, pháp quyền, tôn trọng con
người và đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)
2.1. Về phạm vi điều chỉnh và tên chương

2


* BLTTHS năm 2003 (chương III): chỉ quy định về cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án).
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định duy
nhất tại Điều 111 nhưng thiếu các quy định về thẩm quyền của cấp trưởng, cấp phó
các cơ quan này nên rất khó khăn trong tổ chức thực hiện.
* BLTTHS năm 2015: để khắc phục những hạn chế của BLTTHS hiện hành,
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của chương này theo hướng
không chỉ điều chỉnh đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
mà còn điều chỉnh cả cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Trên cơ sở đó, điều chỉnh tên chương thành: “Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
2.2. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán (các điều 36, 37, 41, 42, 44, 45)
* BLTTHS năm 2003: quy định khi được phân công giải quyết vụ án, cấp
phó các cơ quan tố tụng chỉ có thẩm quyền tố tụng, không có thẩm quyền hành
chính tư pháp. Thẩm quyền hành chính tư pháp chỉ thuộc cấp trưởng hoặc một cấp
phó được ủy quyền khi cấp trưởng vắng mặt. Điều tra viên, Kiểm sát viên là những
người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao rất ít các thẩm quyền tố tụng.
* BLTTHS năm 2015 quy định: (1) Trong lĩnh vực được phân công phụ

trách, cấp phó không chỉ được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng như hiện hành,
mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; (2) Phân định thẩm
quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tiến hành tố
tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một
giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người,
quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát
quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự
thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định. Tăng cơ bản
thẩm quyền cho Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.
Trên cơ sở đó, việc tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán được quy định cụ thể như sau:

3


- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay
đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (2)
Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến
nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp giải
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn
giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao người
dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định
thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh phong tỏa
tài khoản.
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và lập hồ
sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo
tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa;
yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (4) Bắt buộc có
mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực

nghiệm điều tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can;
(6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng,
người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao người dưới 18
tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát
người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ
sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người
giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; (3) Yêu
cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18
tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5) Quyết
định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
2.3. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 38, 43, 48)
Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức TAND năm
2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ
sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra
viên và quy định cụ thể nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều tra
viên, kiểm sát viên, Chánh án Tòa án.
2.4. Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra (Điều 35)
* BLTTHS năm 2003: quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra gồm bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển, các
cơ quan khác thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
* BLTTHS năm 2015: nhằm phản ứng kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra
trên biển, đồng thời, góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo từ phương diện hoạt
4


động tư pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn

của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng Kiểm ngư được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.
2.5. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39, 40)
* BLTTHS năm 2003: không quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng,
cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
* BLTTHS năm 2015: nhằm khắc phục những bất cập của Bộ luật hiện
hành, phân định chính xác phạm vi điều chỉnh giữa BLTTHS với Luật tổ chức cơ
quan điều tra hình sự, BLTTHS năm 2015 bổ sung hai điều luật mới nhằm quy
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
3. Về người tham gia tố tụng (Chương IV)
3.1. Bổ sung diện người tham gia tố tụng
* BLTTHS năm 2003: quy định những người tham gia tố tụng gồm: người bị
tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người bào chữa; người
bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định; người phiên dịch.
* BLTTHS năm 2015: nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự thời
gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1)
Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5)
Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9) Người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, Bộ luật quy định cụ thể
quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.
3.2. Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60, 61)
- Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định
tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ,

tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm
tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải
đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) Đề nghị
giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch
thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên
quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định
5


của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người
tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác.
- Cùng với việc bổ sung quyền, BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa
vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có
thẩm quyền.
3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ
(Điều 62)
* BLTTHS năm 2003: quy định người bị hại chỉ là cá nhân.
* BLTTHS năm 2015:
- Quy định diện người bị hại không chỉ gồm cá nhân bị thiệt hại như hiện
hành mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm
2015 bổ sung cho bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ các quyền: (1)
Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo, giải thích quyền và
nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh
giá; (4) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người
dịch thuật; (5) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và
một số quyền khác.
- Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại nhằm tăng
cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng

trong việc phát hiện, xử lý tội phạm: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng
của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc
có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn
giải.
3.4. Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64, 65)
- Để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật giám định tư pháp, BLTTHS năm
2015 bổ sung một số quyền của họ như: (1) Quyền đưa ra chứng cứ; (2) Quyền
trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;
đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) Quyền được thông
báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Quyền đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia
phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
Và một số quyền khác.
6


- BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải
chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường
trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án
nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.
3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)
* BLTTHS năm 2003: quy định trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo về
tội phạm chưa phát sinh tư cách người làm chứng.
* BLTTHS năm 2015: quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố
tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội
phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm
chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng khi được các
cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.

4. Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
(Chương V)
BLTTHS năm 22003 quy định nội dung này tại các điều luật khác nhau, chủ
yếu là trong các điều quy định về tư cách pháp lý và địa vị pháp lý của người tham
gia tố tụng hình sự.
BLTTHS năm 2015 xây dựng một chương mới để điều chỉnh vấn đề này với
những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
4.1. Mở rộng diện người được bảo đảm quyền bào chữa (Điều 58)
* BLTTHS năm 2003: chỉ 03 diện người mới có quyền bào chữa gồm (người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo).
* BLTTHS năm 2015: để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối
tượng được bảo đảm quyền bào chữa như hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung
“người bị bắt” được bảo đảm quyền bào chữa.
4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)
* BLTTHS năm 2003: quy định có 03 diện người bào chữa gồm: luật sư;
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
* BLTTHS năm 2015: để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù
hợp với Luật trợ giúp pháp lý, BLTTHS năm 2015 bổ sung diện người bào chữa là
Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.
4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)
* BLTTHS năm 2003: quy định để được tham gia bào chữa trong vụ án,
người bào chữa phải được cấp giấy đăng chứng nhận người bào chữa với thủ tục
phức tạp và thời hạn xem xét cấp giấy chứng nhận là 3 ngày.
7


* BLTTHS năm 2015: nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham
gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào
chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận
đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm:

kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì
vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người
đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng
trong suốt quá trình tố tụng.
4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm thực hiện tốt quyền luật
định (Điều 73, các điều 79-82)
- Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS năm 2015
bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai
của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết
thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được
hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và
thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật
này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra,
đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
- Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện
tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông
báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố
tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao
chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.
- Đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, nhằm tăng cường
trách nhiệm của người bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người
bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không
được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên
quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người
không có trách nhiệm giải quyết vụ án.

4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)
* BLTTHS năm 2003: quy định rất sơ sài về thủ tục mời, cử người bào chữa;
không cho phép người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa.
8


* BLTTHS năm 2015: để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là
người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2015 quy định: (1)
Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2)
Quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ
người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào
chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với
người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)
* BLTTHS năm 2003: quy định bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị
cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
* BLTTHS năm 2015: để thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà
nước và phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta, BLTTHS năm 2015 mở rộng trường
hợp bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân, tử hình.
Đồng thời, để khắc phục bất cập của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015 quy định chặt chẽ về trường hợp bắt buộc có người bào chữa cho người có
nhược điểm về thể chất theo hướng nhược điểm về thể chất đó phải làm cho người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể tự mình thực hiện được quyền
bào chữa.
4.7. Về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 72)
* BLTTHS năm 2003: thiếu quy định về các trường hợp không cho phép cấp
giấy chứng nhận người bào chữa.
* BLTTHS năm 2015: để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ

án thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm
người bào chữa, gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch
thuật; (2) Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa
được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
4.8. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)
* BLTTHS năm 2003: quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
kể từ khi khởi tố bị can, trường hợp người bị tạm giữ thì được tham gia tố tụng khi
có quyết định tạm giữ.
* BLTTHS năm 2015: cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013,
BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn,
kể từ khi có người bị bắt.
9


4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, bị hại, đương sự
* BLTTHS năm 2003: chưa quy định về người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố là người tham gia tố tụng và vì vậy chưa quy định những người này có
quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
* BLTTHS năm 2015: Quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
là người tham gia tố tụng và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
này, BLTTHS năm 2015 xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan trọng như: (1)
Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người bị tố giác,
bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2) Quyền đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu
giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự và một số quyền khác.

5. Về chứng cứ và chứng minh (Chương VI)
5.1. Điều chỉnh về quyền thu thập chứng cứ (Điều 86)
* BLTTHS năm 2003 quy định chỉ cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền
thu thập chứng cứ.
* BLTTHS năm 2015: để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến
pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, BLTTHS năm 2015 điều chỉnh các quy định về chứng cứ theo hướng
không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu
thập chứng cứ; người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng
khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ.
5.2. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ
(Điều 87)
* BLTTHS năm 2003 quy định nguồn chứng cứ gồm: Vật chứng; Lời khai
của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết
luận giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
* BLTTHS năm 2015:
- Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt
ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và
yêu cầu hội nhập quốc tế, BLTTHS năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng
cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy
10


thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.
- Nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên
quan và tính hợp pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ,
theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để
giải quyết vụ án hình sự”.

5.3. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập
dữ liệu điện tử (các điều 99, 107)
Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm
sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với
tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn
chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ
tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên
trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.
5.4. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 88)
Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy định
quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập
chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án
để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan
đến việc bào chữa.
5.5. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)
Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã sửa
đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công
cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do
phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật
chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật hoang dã và
thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực vật ngoại lai và
một số trường hợp khác.
6. Về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Chương VII)
6.1. Về cách thức thiết kế và bố cục chương VII
* BLTTHS năm 2003: ngoài các biện pháp ngăn chặn được quy định trong
cùng chương; các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác được quy định rải rác trong
nhiều chương của BLTTHS, không thống nhất về cách quy định và phải quy định
lặp lại trong nhiều giai đoạn tố tụng.
* BLTTHS năm 2015: cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo

11


đảm quyền con người, quyền công dân, BLTTHS năm 2015 sửa theo hướng thu hút
toàn bộ các biện pháp có tính cưỡng chế quy định trong các chương, các phần của
BLTTHS năm 2003 để điều chỉnh chung trong chương VII nhằm bảo đảm tính
thống nhất, chặt chẽ khi quy định về các biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân. Theo đó, chương này được bố cục thành hai mục (Mục I: Biện
pháp ngăn chặn và Mục II: Biện pháp cưỡng chế). Từng biện pháp được điều chỉnh
bởi năm yếu tố: đối tượng áp dụng; căn cứ áp dụng; thẩm quyền quyết định việc áp
dụng; trình tự, thủ tục áp dụng và thời hạn tiến hành.
6.2. Về biện pháp bắt (Điều 109)
BLTTHS năm 2003 quy định 3 trường hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã
Nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách thức quy định về biện pháp bắt người,
phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2313, với quan hệ hợp tác quốc tế về
phòng chống tội phạm, BLTTHS quy định năm trường hợp bắt, bao gồm: (1) Bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (2) Bắt người phạm tội quả tang; (3) Bắt
người đang bị truy nã; (4) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (5) Bắt người bị yêu cầu
dẫn độ.
6.3. Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110)
* BLTTHS năm 2003: quy định bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện
pháp ngăn chặn độc lập.
* BLTTHS năm 2015: Hiến pháp quy định “Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”. Quá trình
thảo luận tại Quốc hội có ý kiến cho rằng quy định biện pháp bắt người trong
trường hợp khẩn cấp như hiện hành và Dự thảo là chưa bảo đảm phù hợp với Hiến
pháp năm 2013 “bắt trước, phê chuẩn sau”, cần phải được điều chỉnh cho phù hợp.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, BLTTHS sửa thành “Giữ người trong trường

hợp khẩn cấp” và có một số điều chỉnh so với hiện nay. Cụ thể là, trong thời hạn
12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải tiến hành 03 hoạt động: (1) lấy lời khai ngay người bị
giữ; (2) ra quyết định tạm giữ; (3) ra lệnh bắt người bị giữ và gửi ngay cho Viện
kiểm sát kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn hoặc trả
tự do cho người bị giữ.
6.4. Bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền bắt người
bị giữ khẩn cấp, tạm giữ (các điều 110, 117)
* BLTTHS năm 2003: quy định những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp
12


gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị
quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở
hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ người, gồm những người
có thẩm quyền bắt khẩn cấp và Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.
* BLTTHS năm 2015: để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm, BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp và ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư gắn với
tiêu chí “thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra
chuyên trách”, cụ thể gồm: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn
và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa
khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung
ương, Cục trưởng Cục trinh sát Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng chống
ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng,
chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục
trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm

phòng, chống tội phạm ma túy Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư
Vùng. Đồng thời BLTTHS năm 2015 cũng quy định hạn chế quyền của người chỉ
huy tàu bay, tàu biển khi tài bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng chỉ trong
phạm vi quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp để bảo đảm quyền của
người bị giữ.
6.5. Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc
nhận người bị bắt (Điều 114)
Nhằm khắc phục những hạn chế của BLTTHS hiện hành chưa quy định cụ
thể những việc cần làm sau khi bắt người bị truy nã, trên cơ sở pháp điển hóa
Thông tư liên tịch số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005, BLTTHS năm
2015 quy định rõ trách nhiệm của cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường
hợp truy nã; trách nhiệm của cơ quan đã ra lệnh truy nã.
6.6. Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam
(các điều 119, 173)
* BLTTHS năm 2003: quy định đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt tù trên hai năm thì có thể tạm giam khi có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Không
cho phép tạm giam đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội
phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 02 năm.
* BLTTHS năm 2015:
13


- Thể chế hóa chủ trương của Đảng về hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm
giam, BLTTHS quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam, theo đó, đối với bị can, bị cáo
bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm thì cụ thể hóa căn cứ cản
trở điều tra, truy tố, xét xử bằng các căn cứ cụ thể như: Có hành vi mua chuộc,
cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu

hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ
án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và
người thân thích của những người này.
- Để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị
cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định mức phạt tù đến 02 năm nhưng bỏ trốn, BLTTHS năm 2015 quy định
chỉ có thể tạm giam đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt
theo lệnh truy nã.
- Nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, phù hợp với xu thế
của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới, BLTTHS năm 2015 rút ngắn thời hạn tạm
giam theo hướng: trong giai đoạn điều tra, đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng: chỉ cho phép gia hạn một lần thay vì gia hạn hai lần như hiện nay; đối với tội
đặc biệt nghiêm trọng, chỉ cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần như hiện
nay. Theo đó, rút ngắn thời hạn tạm giam 01 tháng đối với tội nghiêm trọng; 02
tháng đối với tội rất nghiêm trọng; 04 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Đồng
thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết
thúc điều tra đối với các tội này nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm
quyền gia hạn tạm giam chỉ thuộc Viện trưởng VKSNDTC.
6.7. Sửa đổi nhằm tăng tính hiệu quả các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (các điều 121, 122, 123)
* BLTTHS năm 2003: không quy định chế tài đối với người bảo lĩnh nếu để
người bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam đoan; quy định cho phép đặt cả tiền hoặc tài
sản để bảo đảm. Các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú không bị ràng buộc bởi thời hạn vì BLTTHS không quy định thời
hạn, dẫn đến bất cập trong thực tiễn áp dụng.
* BLTTHS năm 2015:
Nhằm phát huy hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế
biện pháp tạm giam, BLTTHS năm 2015 sửa theo hướng:
- Đối với biện pháp bảo lĩnh: quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với

người bảo lĩnh nếu để cho bị can, bị cáo bỏ trốn. Đối với biện pháp đặt tiền, tài sản
14


để bảo đảm: chỉ quy định đặt tiền để kịp thời áp dụng biện pháp này trong thực
tiễn, tháo gỡ vướng mắc hiện nay trong việc định giá, giám định tài sản, dẫn đến
chậm trễ trong áp dụng.
- Quy định cụ thể nghĩa vụ, hình thức trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi
cư trú khi vi phạm cam kết hoặc cam đoan.
- Bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo
lĩnh; đặt tiền nhằm bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công
dân phải được ràng buộc chặt chẽ về thời hạn. Theo đó, thời hạn áp dụng các biện
pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án
phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi
chấp hành án phạt tù.
6.7. Bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124)
Để phúc đáp yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, BLTTHS
năm 2015 bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh được
áp dụng đối với: a) Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh
có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; b) Bị can, bị cáo.
6.8. Về các biện pháp cưỡng chế (các điều 126 - 130)
* BLTTHS năm 2003: chỉ quy định 03 biện pháp cưỡng chế gồm (1) Áp
giải; (2) Dẫn giải; (3) Kê biên tài sản.
* BLTTHS năm 2015: bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài khoản, đồng
thời, quy định các biện pháp này trong cùng một mục và quy định cụ thể căn cứ,
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn khi áp dụng từng biện pháp này.
7. Về hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng, thời hạn, chi phí tố tụng (Chương VIII)

Trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTHS hiện hành, để thuận lợi cho thực
tiễn áp dụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung: (1) Trách nhiệm lập hồ sơ vụ án và bộ hồ
sơ vụ án; (2) Bổ sung và quy định cụ thể nội dung các văn bản tố tụng (lệnh, quyết
định, yêu cầu, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác) làm cơ
sở để các cơ quan tiến hành tố tụng ban hành các mẫu văn bản tố tụng, đồng thời, về
kỹ thuật lập pháp, sẽ không phải nhắc lại các nội dung này ở các giai đoạn tố tụng, chỉ
cần trích dẫn điều luật (Điều 132); (3) Quy định cụ thể thủ tục lập biên bản và ký biên
bản tố tụng trong các trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ hoặc có
nhược điểm về thể chất, tâm thần mà không thể ký vào biên bản (Điều 133); (4) Quy
định cụ thể các loại chi phí tố tụng và xác định trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng
15


trong từng trường hợp (Điều 135, 136).
8. Về cấp, giao, chuyển, gửi hoặc thông báo các văn bản tố tụng
(Chương VIII)
* BLTTHS năm 2003: không có các quy định cụ thể về phương thức cấp,
giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng.
* BLTTHS năm 2015: nhằm tháo gỡ những mắc trong thực tiễn, BLTTHS
năm 2015 xây dựng 06 điều luật quy định cụ thể: (1) Các phương thức cấp, giao,
chuyển, gửi, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng, theo đó, cấp, giao, chuyển trực
tiếp văn bản tố tụng cho người được nhận; gửi văn bản tố tụng được thực hiện qua
bưu điện; niêm yết công khai được thực hiện tại Ủy ban nhân dân nơi người được
cấp giao, giao, gửi văn bản cư trú hoặc cư trú cuối cùng hoặc nơi có trụ sở của tổ
chức nếu tổ chức này được cấp, giao, gửi văn bản; (2) Quy định trách nhiệm và tính
hợp lệ của việc cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng; (3) Quy định
cụ thể thủ tục cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng, tạo căn cứ pháp
lý để người tiến hành tố tụng thực hiện đúng luật và nhân dân thuận tiện giám sát.
PHẦN THỨ HAI
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
1. Về khởi tố vụ án hình sự (Chương IX)
* BLTTHS năm 2003: chỉ gồm 10 điều luật cho giai đoạn tố tụng quan trọng
này và thiếu nhiều quy định như: trình tự, thủ tục tiếp nhận nguồn tin về tội phạm;
các biện pháp tố tụng được áp dụng; trách nhiệm thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát...
* BLTTHS năm 2015: nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn do
tính thiếu cụ thể của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định 20 điều luật
về thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Cụ thể như sau:
1.1. Bổ sung và quy định rõ các khái niệm về tố giác tội phạm; tin báo về tội
phạm; kiến nghị khởi tố nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của Thông
tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày
02/8/2015. Theo đó: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành
vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền; Tin báo về tội phạm là thông
tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ
quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại
chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, xử lý vụ việc
16


có dấu hiệu tội phạm; cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo tài liệu, chứng
cứ liên quan.
1.2. Quy định cụ thể trách nhiệm và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145, Điều 146).
1.3. Sửa đổi quy định về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố tối đa là 04 tháng thay vì 02 tháng như hiện hành; việc gia hạn
thời hạn giải quyết phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; bổ
sung thời hạn phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối

đa không quá 01 tháng (Điều 147, Điều 149).
1.4. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, ngoài việc ban hành quyết định khởi
tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án như hiện hành, bổ sung quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tháo gỡ vướng
mắc trong thực tiễn thời gian qua có trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu
định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp… nhưng hết thời hạn luật
định mà chưa có kết quả (Điều 148).
1.5. Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, tăng cường trách
nhiệm của Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội,
BLTTHS năm 2015 bổ sung 03 điều luật (Điều 159, 160, 161) để quy định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc khởi tố; quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng
không được khắc phục.
2. Về điều tra vụ án hình sự (từ Chương X đến Chương XVII)
* BLTTHS năm 2003: dành 06 chương để quy định về “điều tra vụ án hình
sự”. Tổng kết thực tiễn thi hành bộc lộ một số vướng mắc như: quy định về thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương chưa chặt chẽ; thiếu một số biện
pháp điều tra để đáp ứng yêu cầu giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án; quy định
về giám định còn nhiều bất cập; thiếu quy định về định giá tài sản và các trường hợp
tạm đình chỉ điều tra.
* BLTTHS năm 2015:
2.1. BLTTHS năm 2015 sửa theo hướng quy định chặt chẽ và cụ thể những vụ
án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương để một mặt tháo gỡ
vướng mắc của thực tiễn, mặt khác, phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp
cơ sở. Theo đó, Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án sau:
17



- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại;
- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
2.2. Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra (như: nhận biết giọng
nói, định giá tài sản) để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn (Điều 191, các điều 215 - 222).
2.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giám định hiện nay
như: giám định chậm trễ; giám định không chính xác; xung đột giữa các kết luận
giám định, BLTTHS năm 2015 bổ sung các quy định như: phân nhóm các vấn đề
cần trưng cầu giám định; quy định thời hạn giám định phù hợp với từng nhóm; xác định
giá trị của kết luận giám định đối với việc giải quyết vụ án; giải quyết xung đột giữa các
kết quả giám định. Đồng thời, bổ sung mới 8 điều luật để quy định các vấn đề cụ thể
liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Chương XV).
2.4. Lượng hóa cụ thể một số thời hạn tố tụng, thay cho các thời hạn quy
định có tính định tính trong Bộ luật hiện hành (Ví dụ: phải gửi hoặc gửi ngay…).
2.5. Bổ sung một số trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhằm tháo gỡ những
vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua như: khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước
ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra (Điều 229).
2.6. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS để cụ
thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn đấu
tranh chống tội phạm hiện nay, mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng
minh hành vi phạm tội. Đây cũng là kinh nghiệm của hầu hết các nước trên thế
giới (Nga, Trung Quốc, Đức, Pháp, Anh, Hoa kỳ, Australia…). Cụ thể như sau:
- Về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định gồm: (1) Ghi âm, ghi
hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; (3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 223).

- Về các trường hợp được phép áp dụng: (1) Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; (2) Các
tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).
- Về thẩm quyền áp dụng: xuất phát từ tính chất đặc biệt quan trọng của các
biện pháp này, BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền áp dụng phải do Thủ
trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên ra quyết định và phải được Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định trách nhiệm của
18


Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát phải kiểm tra, giám sát
quá trình áp dụng các biện pháp này (Điều 225).
- Về thời hạn áp dụng: nhằm bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quy định thời
hạn áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, đồng thời,
phù hợp với đặc điểm của từng biện pháp, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn
áp dụng không quá hai tháng kể từ ngày phê chuẩn; trường hợp phức tạp có thể gia
hạn nhưng không quá thời hạn điều tra (Điều 226).
- Quy định công nhận là chứng cứ đối với các thông tin, tài liệu thu được nếu
quá trình áp dụng các biện pháp này tuân thủ nghiêm ngặt quy định của luật. Đồng
thời, quy định rõ, các thông tin thu được chỉ sử dụng vào mục đích chống tội phạm,
nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến cá nhân, công dân (Điều 227).
PHẦN THỨ BA
TRUY TỐ
* BLTTHS năm 2003: đặt chương truy tố trong phần điều tra vụ án hình sự chỉ
gồm 04 điều: (Điều 166: Thời hạn quyết định việc truy tố; Điều 167: Bản cáo trạng;
Điều 168: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Điều 169: Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án).
* BLTTHS năm 2015:
Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái quát
của Bộ luật hiện hành và bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, trên
cơ sở kế thừa các quy định về quyết định truy tố trong Phần thứ hai của BLTTHS hiện

hành, BLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ ba về truy tố, gồm 02 chương: Chương
XVIII: Những quy định chung; Chương XIX: Quyết định việc truy tố bị can. Với
những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
1.1. Nhằm bảo đảm tính rành mạch về kỹ thuật lập pháp, BLTTHS năm
2015 tách các quy định có tính chất chung cho toàn bộ giai đoạn truy tố để quy
định trong Chương XVIII “Những quy định chung” với các nội dung như: (1)
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; (2) Thủ tục tiếp nhận hồ sơ vụ án do Cơ
quan điều tra chuyển; (3) Xác định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố; (4) Thời
hạn quyết định việc truy tố; (5) Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế; (6) Những trường hợp tách, nhập vụ án.
1.2. Để nhận thức và thực hiện thống nhất pháp luật, BLTTHS năm 2015 quy
định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, để xác định thẩm
quyền truy tố đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm
sát trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định: Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc
19


truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải
thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết
định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo
bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử vụ án.
1.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn, tránh áp lực đối với các
cơ quan tố tụng, trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định hiện hành về thời hạn giao,
gửi các quyết định tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp đặc biệt, vì lý do
khách quan thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết

định tạm đình chỉ vụ án cho bị can, người đại diện theo pháp luật của bị can có thể
kéo dài nhưng không quá 10 ngày.
1.4. Về thời hạn tạm giam bị cáo trong giai đoạn truy tố, thực hiện chủ trương
chung về rút ngắn thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và thời hạn
tạm giam nói riêng, BLTTHS năm 2015 chỉ cho phép áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong thời hạn quyết định việc truy tố (không quá 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng
và tội nghiêm trọng; không quá 45 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 60
ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng); rút ngắn 03 ngày so với BLTTHS năm 2003.
1.5. Nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, BLTTHS năm 2015 quy
định trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp dưới phải gửi các quyết định tố tụng đến Viện
kiểm sát cấp trên; quy định Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ,
hủy bỏ các quyết định này nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật (Điều 240).
1.6. Để bảo đảm việc tách, nhập vụ án được tiến hành chặt chẽ, tránh tùy nghi
làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, BLTTHS
năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án. Theo
đó, bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu chung thì việc tách vụ án chỉ được tiến hành
trong 3 trường hợp (Bị can bỏ trốn; Bị can mắc bệnh hiểm nghèo; Bị can bị áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh); đồng thời, quy định 3 trường hợp có thể nhập vụ án
(Bị can phạm nhiều tội; Bị can phạm tội nhiều lần; Nhiều bị can cùng tham gia một
tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc
không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có (Điều 242).
1.7. Nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được tiến hành chặt
chẽ, tránh lạm dụng kéo dài thời gian tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung điều luật
để quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trách nhiệm của Cơ
quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245). Đồng thời, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ
án được khẩn trương, BLTTHS quy định trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra
20



bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ
sung mà không nhất thiết phải trả cho Cơ quan điều tra (Điều 246).
1.8. Để thuận lợi cho thực tiễn áp dụng, BLTTHS năm 2015 xây dựng 03 điều
luật để quy định rõ hơn căn cứ Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định
đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án; xác định cụ thể trách nhiệm, thủ tục và
thời hạn khi thực hiện các thẩm quyền này (các điều 247, 248, 249).
PHẦN THỨ TƯ
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
* BLTTHS năm 2003: quy định xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm trong hai
phần. Cách thiết kế như BLTTHS năm 2003 dẫn đến nhiều quy định chung phải
quy định lặp lại cả ở xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đồng thời, quy định thủ
tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm dẫn chiếu sang áp dụng như phiên tòa sơ thẩm
là không chính xác.
* BLTTHS năm 2015: xây dựng Phần thứ tư gồm có 03 chương (Chương:
những quy định chung; Chương: xét xử sơ thẩm; Chương: xét xử phúc thẩm).
1. Về những quy định chung (Chương XX)
1.1. Về bổ sung Chương mới quy định chung về xét xử (Chương XX)
Bộ luật TTHS năm 2015 xây dựng Chương: những quy định chung, nhằm
tạo điều kiện tách các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử
phúc thẩm để điều chỉnh chung trong chương này, tránh trùng lặp. Cụ thể gồm các
quy định: Thành phần Hội đồng xét xử; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Biên bản
phiên tòa; Biên bản nghị án; Bản án; Giao, gửi bản án. Trong đó, quy định cụ thể
nội dung của bản án, quyết định, các văn bản tố tụng và trách nhiệm của Tòa án
trong việc giao, gửi bản án, quyết định, các văn bản tố tụng cho những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Đồng thời, mở rộng diện chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa
án gồm cả bị hại, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự, trại tạm giam, trại
giam nơi đang giam giữ bị cáo.
1.2. Về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục và quy định về tạm
ngừng phiên tòa (Điều 250, Điều 251)

Xét xử liên tục là quy định có tính nguyên tắc đối với hoạt động xét xử, được
ghi nhận trong pháp luật của các nước trên thế giới, được các luật tố tụng tư pháp
nước ta từ trước đến nay đều bảo đảm. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 tiếp tục khẳng
định nguyên tắc xét xử liên tục, đồng thời, bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa
trong trường hợp (cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật
21


mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa) để phù hợp với thực tiễn,
bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Về thời hạn tạm
ngừng phiên tòa được quy định không quá 05 ngày.
1.3. Về các biện pháp Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252)
Để phù hợp với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và phù hợp với vị trí
của Tòa án trong tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án tiến hành việc
xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thông qua 05 hoạt động: (1) Tiếp nhận chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (2) Yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (3) Xem
xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (4) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra
tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (5) Trưng cầu giám định, yêu
cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, định
giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 221 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ
sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.
1.4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử (Điều 266, Điều 267)
Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ luật bổ sung 2
điều luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố và khi kiểm sát xét xử.
2. Về xét xử sơ thẩm (Chương XXI)

2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 268)
Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn
hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các vụ án: (1) Vụ án hình sự có bị
cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; (2) Những vụ
án tuy thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc
liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn
giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
2.2. Về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và việc xét xử bị cáo phạm
nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự (Điều 272,
Điều 273)
22


Thực hiện nghị quyết của Quốc hội triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự gồm: (1) Vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức,
công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn
luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến
đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân
đội; (2) Vụ án có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người nêu trên hoặc gây thiệt hại
đến tài sản được Quân đội cấp cho những người này để thực hiện nhiệm vụ quân
sự hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội hoặc phạm tội trong
doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội quản lý, bảo vệ.
Bộ luật TTHS năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong

trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa
phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo đó, trường hợp có thể
tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án
quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
2.3. Về chuyển vụ án (Điều 274)
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng thời gian qua,
BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về trình tự, thủ tục chuyển vụ án khi thấy vụ
án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát đã truy tố để Viện kiểm sát này hủy bỏ quyết định truy tố và chuyển vụ án
đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
Trường hợp thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ
thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do.
Nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tiến
hành giải quyết tranh chấp theo Điều 275.
2.4. Về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài
liệu, chứng cứ; và Tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ (Điều 280)
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm tính cụ thể của
BLTTHS, BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện
kiểm sát điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch
số 01/TTLT ngày 27/8/2010 đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp.
2.5. Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh
23


tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công
bằng, BLTTHS năm 2015 quy định: Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng
cứ như hiện nay, bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập,

cung cấp chứng cứ (các điều 58, 59, 60, 61, 73); Quy định người bị buộc tội, người
bào chữa có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Bổ sung quy định về trách
nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu cung cấp, bổ sung
chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác
đến phiên tòa (Điều 279); Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa
án không mở phiên tòa, trả hồ sơ để Viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280);
Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290,
291); Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải
thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai hỏi sau mà
không tuân theo trình tự xét hỏi như Bộ luật hiện hành (Điều 307); bị cáo có quyền
trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có
quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309); Khẳng định rõ nguyên tắc bản
án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và
những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 26).
2.6. Về giới hạn xét xử (Điều 298)
Để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa
án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra
công khai tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định: Trường hợp thấy
cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ
sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện
của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì
Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
2.7. Về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của người bị buộc tội
phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, BLTTHS năm 2015 quy
định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì

từ ngày phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277).
Bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng
buộc về thời hạn như thời hạn nghị án là 07 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại
phiên tòa (Điều 326). Cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật
hiện hành bằng các thời hạn cụ thể (là 24 giờ hoặc 03 ngày kể từ khi ra quyết
24


định), tùy thuộc vào loại quyết định và đối tượng được nhận quyết định như: Tòa
án gửi quyết định phân công thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ
án ra xét xử cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.
3. Về xét xử phúc thẩm (Chương XXII)
3.1. Về người có quyền kháng cáo và thủ tục kháng cáo, nhận và xử lý
đơn kháng cáo (các điều 27, 331, 332)
Để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người dưới 18 tuổi có quyền kháng cáo phần bản
án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ
(Điều 331). Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, thủ tục của Ban giám thị trại tạm
giam nơi đang giam giữ bị cáo và Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm
trong việc nhận, xử lý đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác (Điều 332).
3.2. Về kháng cáo quá hạn (Điều 335)
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp người tham gia tố tụng, phù hợp với các
quy định của luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy
định về xử lý đơn kháng cáo quá hạn, cụ thể: trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận
được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường
trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật
(nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên họp để xem

xét kháng cáo quá hạn với Hội đồng gồm ba Thẩm phán và phải có sự tham gia của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.
3.3. Về Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm (Điều 344)
Trên cơ sở quy định về thẩm quyền của 04 cấp Tòa án trong Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân
cấp huyện; Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản
án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh
thổ;
Toà án quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
những bản án, quyết định của Toà án quân sự khu vực; Toà án quân sự trung ương
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự
quân khu và tương đương.
3.4. Về thụ lý, chuẩn bị xét xử phúc thẩm (các điều 340, 341, 346, 348,
25


×