Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thương mại ngân hàng nhà nước việt nam và những kết quả đạt được giai đoạn vừa qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.76 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
A – Lời mở đầu
B – Nội dung
I – SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1 – Lịch sử ra đời của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2 – Khái quát lịch sử ngân hàng Việt Nam qua các thời kỳ
II – THÀNH QUẢ 5 NĂM VÀ NHỮNG BƯỚC ĐI MỚI
1 – Những kết quả đạt được của ngành ngân hàng năm 2011
2 - Ngân hàng Nhà nước làm được gì trong năm 2012?
3 - Ngân hàng 2013: Ít xáo trộn, nhiều đổi thay
4 – Năm 2014, trong thành tựu phát triển kinh tế có sự đóng góp không
nhỏ của ngành Ngân hàng
5 – 8 thành tựu nổi bật của hoạt động ngân hàng năm 2015
III – MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VÀO NHỮNG NĂM TIẾP THEO
C – KẾT LUẬN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T

Ký hiệu viết tắt

1

WTO

2

VN



3

NHNN

4

IMF

5

WB

6

ADB

7

NHTW

Ngân hàng Nhà nước
International Monetary Fund(Quỹ Tiền
tệ quốc tế)
World Bank(Ngân hàng Thế giới)
The Asian Development Bank(Ngân
hàng Phát triển châu Á)
Ngân hàng Trung ương

8


ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

9

TCDN

Tài chính Doanh nghiệp

10

NHTM

Ngân hàng Thương mại

11

VAMC

Công ty Quản lý tài sản

12

OMO

Nghiệp vụ thị trường mở

13


CSTT

Chính sách Tiền tệ

14

VND

Việt Nam đồng

15

USD

Đô la Mỹ

Nội dung viết tắt
World Trade Organization(Tổ chức
Thương mại thế giới)
Việt Nam


A – Lời mở đầu:
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử,
là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín
dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ đó đến nay, gắn liền với sự
phát triển của từng thời kỳ cách mạng, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
( từ tháng 1/1960 đến nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã từng

bước lớn mạnh và phát triển, góp phần quan trọng vào việc xây dựng,
củng cố, hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng và hệ thống Ngân hàng Việt
Nam, phục vụ tích cực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua hơn 59 năm trưởng thành và phát triển, ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đóng vai trò là cơ quan của Chính Phủ và ngân hàng trung
ương nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng trong phạm
vi cả nước. Đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế , Việt Nam
đang từng bước đàm phán thành công trong việc gia nhập Tổ chức
thương mại quốc tế WTO. Việc tham gia thị quốc tế sôi động với các
ngành thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng một cách bình đẳng tạo
điều kiện thuận lợi cũng như những thời cơ và thách thức để Việt Nam
thu hút vốn đầu tư mở rộng thị trường. Bên cạnh đó những sức ép đặt ra
cho ngành ngân hàng trước những biến động khó lường trên thị trường
thế giới và trong nước , sự tăng vọt của giá nguyên liệu, giá vàng với
những tiềm ẩn rủi ro của hệ thống luôn là thách thức lớn đối với ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh những thách thức khó khăn đó,
trong những năm vừa qua NHNNVN đã có những cải cách, những giải
pháp tái cơ cấu hợp lý mang lại những thành quả đáng ghi nhận. Để có
cái nhìn rõ hơn về NHNNVN và những kế hoạch, giải pháp đổi mới để
đạt được những thành công trong từng giai đoạn ra sao, em đã nghiên
cứu đề tài “ Ngân hàng nhà nước Việt Nam và những kết quả đạt được
giai đoạn vừa qua”


Bố cục đề tài của em ngoài mở đầu và kết luận thì nội dung đề tài gồm 3
chương chính:
Chương I: Sơ lược về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chương II: Nhìn lại những thành quả mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã đạt được trong từng giai đoạn

Chương III: Mục tiêu, định hướng để tiếp tục phát triển Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Hà Nội, ngày 26 tháng 09 năm
2016
Sinh viên thực hiện
Bùi Thu Hà


B – Nội dung:
I – SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của Việt
Nam, là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ
quan đảm trách việc phát hành tiền, quản lý tiền tệ và tham mưu các
chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành
tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ,
soạn thảo các dự thảo luận về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tính dụng, quản
lý các ngân hàng thương mại nhà nước…
1 – Lịch sử ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền thực dân Pháp
quản lý và phát hành tiền tệ thông qua Ngân hàng Đông Dương, một
ngân hàng có vai trò là ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại
trên khu vực Đông Dương thuộc Pháp. Sau Cách mạng tháng 8, chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã từng bước xây dựng nền tài chính
tiền tệ độc lập. Ngày 6 tháng 5 năm 1951, chỉ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các
nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín
dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và
đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Ngày 21 tháng 1 năm 1960, Tổng Giám Đốc Ngân hàng Quốc gia đã

thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Thông tư số 20/VP-TH đổi
tên ngân hàng này thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sau năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền nam Việt
Nam đã tiếp quản và “quốc hữu hoá” Ngân hàng Quốc gia của Việt Nam
Cộng Hoà và thông qua danh nghĩa của chủ nhà băng này để thừa kế vai
trò hội viên của Ngân hàng Việt Nam Cộng Hoà này trong các tổ chức
tài chính quốc tế như: IMF, WB, ADB. Tháng 7 năm 1976, Việt Nam


thống nhất về phương diện nhà nước, đổi tên nước là Cộng hoá Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, về ngành ngân hàng, hợp nhất về mặt thể chế, tổ
chức từ 1976 và hợp nhất ngân hàng về mặt tiền tệ vào mùa xuân năm
1978 qua việc đổi tiền.
Tháng 7 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho
phép làm thử việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh Xã
hội Chủ nghĩa.
Tháng 3 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT
với định hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt
động kinh doanh
Tháng 5 năm 1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp
lệnh là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.
Tháng 10 năm 1993, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với Quỹ Tiền tệ
quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á được tái lập
và khơi thông
Ngày 2 tháng 12 năm 1997, Quốc hội khóa X thông qua Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày
01/10/1998.
Ngày 16 tháng 6 năm 2010, Quốc hội khóa XI thông qua Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ

ngày 01/01/2011.
Ngày 11 tháng 11 năm 2013, Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực
hiện theo Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính
phủ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước có 27 đơn vị trực thuộc.


Lãnh đạo hiện nay
Thống đốc: Lê Minh Hưng
Phó thống đốc: Nguyễn Toàn Thắng
Phó thống đốc: Nguyễn Đồng Tiến
Phó thống đốc: Nguyễn Phước Thanh
Phó thống đốc: Đào Minh Tú
Phó thống đốc: Nguyễn Thị Hồng
Phó thống đốc: Nguyễn Kim Anh
Tổ chức
(theo Nghị định 156/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ Việt Nam)
1. Vụ Chính sách tiền tệ.
2. Vụ Quản lý ngoại hối.
3. Vụ Thanh toán.
4. Vụ Tín dụng các ngành kinh tế.
5. Vụ Dự báo, thống kê.
6. Vụ Hợp tác quốc tế.
7. Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính.
8. Vụ Kiểm toán nội bộ.
9. Vụ Pháp chế.
10. Vụ Tài chính - Kế toán.
11. Vụ Tổ chức cán bộ.
12. Vụ Thi đua - Khen thưởng.



13. Văn phòng.
14. Cục Công nghệ tin học.
15. Cục Phát hành và kho quỹ.
16. Cục Quản trị.
17. Sở Giao dịch.
18. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
19. Các chi nhánh tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
20. Văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh.
21. Viện Chiến lược ngân hàng.
22. Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam.
23. Thời báo Ngân hàng.
24. Tạp chí Ngân hàng.
25. Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng.
26. Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh.
27. Học viện Ngân hàng.
Khen thưởng
Huân chương Sao vàng (2006)
Huân chương Hồ Chí Minh (1996 và 2011)
Lãnh đạo qua các thời kỳ
4/1951-4/1952, Nguyễn Lương Bằng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam
5/1952-7/1964, Lê Viết Lượng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam
8/1964-1974, Tạ Hoàng Cơ, Tổng Giám đốc Ngân hàng


1974-1976, Đặng Việt Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam

1976-3/1977, Hoàng Anh, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
4/1977-2/1981, Trần Dương, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
3/1981-6/1986, Nguyễn Duy Gia, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
7/1986-5/1989, Lữ Minh Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
6/1989-10/1997, Cao Sĩ Kiêm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
5/1998-12/1999, Nguyễn Tấn Dũng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
12/1999-8/2007, Lê Đức Thúy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
8/2007-8/2011, Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
8/2011-4/2016, Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
4/2016-nay, Lê Minh Hưng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam



2 - Khái quát lịch sử ngân hàng Việt Nam qua các thời kỳ
2.1 Hoạt động tài chính, tiền tệ thời kỳ 1945 – 1954
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Ngay từ những ngày đầu, chính quyền non trẻ của giai cấp công
nông đã phải ứng phó với những thách thức lớn: vừa giải quyết những
vấn đề cấp bách của đời sống nhân dân, củng cố và tăng cường thực lực
của chính quyền, vừa phải chống lại hành động chống phá của thực dân

Pháp và các thế lực phản động.
Tháng 12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn quốc
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Trong khói lửa chiến tranh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
nhanh chóng thiết lập được một nền tiền tệ độc lập, tự chủ, tạo thế đứng
vững chắc trên mặt trận tài chính - tiền tệ, sử dụng tiền tệ làm công cụ
phục vụ đắc lực công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đặc biệt, sự ra đời
của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ngày 6/5/1951 là bước ngoặt lịch sử
trong quá trình phát triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam.
Hoạt động của Ngân hàng Quốc gia trong thời kỳ này đã góp phần rất
quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước, phát
triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc
doanh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.
a, Giai đoạn 1945 – 1951
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tình hình tài chính - tiền tệ của chính
quyền cách mạng gặp vô vàn khó khăn: Kho bạc chỉ còn hơn 1,25 triệu
đồng Đông Dương, trong đó một nửa là tiền rách; Ngân hàng Đông
Dương vẫn nằm trong tay tư bản thực dân và luôn tìm cách phá hoại ta
về tài chính, tiền tệ; các nguồn thu ngân sách quá ít ỏi so với nhu cầu chi
tiêu của chính quyền… Trước tình hình đó, Chính phủ đã kêu gọi nhân
dân quyên góp tài chính dưới các hình thức như “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ
vàng”, đồng thời gấp rút chuẩn bị phát hành tiền.


Để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế kháng chiến, Chính phủ cho
thành lập 3 khu vực tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực.
Nhiều biện pháp đã được áp dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách, như:
phát hành Công phiếu kháng chiến, Công trái quốc gia…
Ngày 3/2/1947, Nha tín dụng sản xuất, tổ chức tín dụng đầu tiên ở nước
ta được thành lập với nhiệm vụ giúp vốn cho nhân dân phát triển sản

xuất, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn, làm hậu thuẫn cho chính
sách giảm tức và hướng dẫn nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể
b, Thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đề ra chủ trương, chính
sách mới về kinh tế - tài chính, trong đó chỉ rõ: Chính sách tài chính phải
kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế; thành lập Ngân hàng Quốc gia,
phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ, cải tiến chế độ tín dụng.
Thực hiện chủ trương đó, ngày 6/5/1951, tại hang Bòng thuộc xã Tân
Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với
những nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức
lưu thông tiền tệ; quản lý Kho bạc Nhà nước; huy động vốn và cho vay
phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa; quản lý hoạt động kim dung bằng
biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền tệ với địch.
Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam gồm Ngân hàng
Trung ương, Ngân hàng liên khu và ngân hàng tỉnh, thành phố. Trụ sở
đầu tiên của Ngân hàng Quốc gia đặt tại xã Đầm Hồng, huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
2.2 Hoạt động ngân hàng thời kỳ 1954 – 1975
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), 2 miền Nam - Bắc tạm thời bị
chia cắt. Đảng ta xác định đường lối chung của Cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn này là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.


Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam từng bước được hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng.
Hoạt động của Ngân hàng Quốc gia trong thời kỳ này tập trung vào việc

tăng cường quản lý, điều hoà lưu thông tiền tệ theo các nguyên tắc quản
lý kinh tế, tài chính XHCN; xây dựng và hoàn thiện chế độ tín dụng
hướng vào phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể; mở
rộng phạm vi và cải tiến nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, thiết
lập vai trò ngân hàng là trung tâm thanh toán của nền kinh tế; mở rộng
quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế; thực hiện chế độ Nhà nước độc
quyền quản lý ngoại hối…
Cũng trong thời kỳ này, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ngân hàng
Nhà nước đã thành lập các đơn vị đặc biệt mang bí số B29 và N2683 với
nhiệm vụ nhận và vận chuyển các khoản viện trợ của bè bạn trên thế giới
từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, phục vụ cuộc kháng chiến giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
a, Giai đoạn 1954 – 1964
Hòa bình lập lại, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tiến hành thu hồi tiền
địch ở vùng mới giải phóng, thiết lập thị trường tiền tệ thống nhất trên
Miền Bắc. Mạng lưới ngân hàng được mở rộng tới các huyện, quận, thị
xã; đội ngũ cán bộ được tăng cường, nâng cao trình độ. Ngày
26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Hoạt động tín dụng được đẩy mạnh để đáp ứng yêu cầu khôi phục kinh
tế, phục vụ yêu cầu hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, phát triển kinh tế quốc doanh. Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều
cải tiến trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, mở rộng quan hệ
thanh toán đến hầu hết các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan của nhà
nước; tập trung quản lý và đẩy mạnh các nguồn thu ngoại hối để đáp ứng
nhu cầu kiến thiết nước nhà.


Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động.

Đến cuối năm 1964, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp
tác với 265 ngân hàng tại 41 nước trên thế giới.
b, Giai đoạn 1965 – 1975
Đây là thời kỳ Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chiến sự diễn ra rất
ác liệt, mọi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước phải chuyển hướng để
phù hợp với hoàn cảnh thời chiến.
Ngân hàng Nhà nước đã cải tiến và mở rộng các quan hệ tín dụng, thanh
toán, quản lý tiền mặt, quản lý quỹ ngân sách nhà nước, giúp các xí
nghiệp sơ tán và phân tán sản xuất, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; tiếp
tục đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể; tích cực khai thác các nguồn ngoại tệ cho Nhà nước, bảo
đảm thanh toán quốc tế thông suốt, đáp ứng yêu cầu sản xuất, chiến đấu
và đời sống.
Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ này đạt bình quân
85,5% tổng mức chu chuyển tiền tệ qua quỹ ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước đã cử hàng trăm cán bộ vào giúp Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam xây dựng nền tài chính tiền tệ, đấu tranh với địch trên mặt trận kinh tế, tài chính; triển khai
phong trào tiết kiệm, góp sức người, sức của xây dựng hậu phương, chi
viện tiền tuyến.
2.3 Hoạt động ngân hàng thời kỳ 1975 – 1985
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước sang một thời kỳ mới:
thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để khôi
phục và phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh.
Ngành Ngân hàng đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân
hàng của chế độ cũ ở miền Nam, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của


chính quyền cách mạng, thực hiện thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban
hành và thực hiện nhiều biện pháp về tiền tệ, tín dụng, quản lý ngoại hối,

thanh toán để góp phần ổn định tình hình kinh tế và lưu thông tiền tệ,
đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt cho sản xuất, quốc phòng, an ninh và
đời sống kinh tế - xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước.
Tuy đạt được một số kết quả tích cực trong khôi phục và phát triển kinh
tế - xã hội, song do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy
trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi
vào tình trạng suy thoái nặng nề, bội chi ngân sách ở mức cao trong
nhiều năm, lạm phát có lúc ở mức 3 con số, hoạt động sản xuất, lưu
thông phân phối và đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
a, Thống nhất hệ thống tiền tệ, ngân hàng cả nước
Để loại bỏ đồng tiền của chính quyền Sài Gòn ra khỏi đời sống kinh tế
xã hội thống nhất tiền tệ trong cả nước, Bộ Chính trị quyết định phát
hành đồng tiền ngân hàng Việt Nam ở miền Nam, thu đổi đồng tiền của
chế độ Sài Gòn. Đợt thu đổi diễn ra từ ngày 22/9/1975 đến ngày
30/9/1975 với tỷ lệ 1 đồng tiền ngân hàng Việt Nam mới bằng 500 đồng
tiền của chính quyền Sài gòn cũ.
Sau khi đổi tiền, Việt Nam hình thành hai khu vực lưu hành tiền tệ: tiền
ở miền Bắc do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành, tiền ở miền
Nam do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phát hành. Hai đồng tiền đều là giấy
bạc của Ngân hàng Nhà nước phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả
nước.
b, Giai đoạn 1976 – 1980
Thực hiện chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng theo
Quyết định 32/CP ngày 11/2/1977 của Hội đồng Chính phủ, Tổng giám


đốc NHNN đã ban hành Thể lệ cho vay vốn lưu động và quy định về cho
vay đầu tư xây dựng cơ bản đối với các xí nghiệp quốc doanh.

Hoạt động tín dụng bước vào thời kỳ cải tiến mạnh mẽ và mở rộng các
loại cho vay, trước hết là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Hệ thống
thanh toán thống nhất trong cả nước được thiết lập; tình trạng công nợ
dây dưa giữa các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị được giải quyết đáng kể.
Quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế với các nước XHCN được tăng
cường.
Tháng 5/1977, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tham gia Ngân hàng Đầu
tư quốc tế (MIB), Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế (MBES).
Để thống nhất tiền tệ trên cả nước, ngày 1/4/1978, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 08/NQ-TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền
cũ ở cả hai miền. Ngày 2/5/1978, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu phát
hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên cả nước
c, Giai đoạn 1980 – 1985
Trong thời kỳ này, hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối
gặp rất nhiều khó khăn. Thực hiện Nghị quyết 26/NQTW ngày
23/6/1980 của Bộ Chính trị và các quyết định của Hội đồng Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, chế độ
nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, cấp phát đầu tư xây dựng cơ
bản, ngoại hối; thực hiện “chính sách tín dụng tích cực, coi tín dụng là
mặt trận phía trước”, mở ra nhiều hình thức cho vay mới nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn và tiền mặt, góp phần thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế,
hỗ trợ ngành thương nghiệp quốc doanh thu mua nắm nguồn hàng phục
vụ đời sống nhân dân và ổn định giá.
Cuộc thu đổi tiền tháng 9/1985 là chính sách kinh tế lớn của Đảng và
Nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một bộ phận trong kế
hoạch tổng điều chỉnh giá - lương - tiền nhằm ổn định sức mua của đồng
tiền, phục vụ công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa
4.1 Hoạt động ngân hàng thời kỳ từ 1986 đến năm 2012



Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị
quyết Đại hội Đảng VI và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công
cuộc đổi mới đất nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế chuyển dần
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của Nhà nước và từng bước hội nhập kinh tế quốc
tế.
Hệ thống Ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện
về mô hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng.
Mô hình ngân hàng một cấp chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp,
tách bạch dần chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước với
chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng của các TCTD.
Ngân hàng Nhà nước, với vai trò là cơ quan ngang bộ của Chính phủ,
Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình
hình, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; tích cực đổi mới, hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách
tiền tệ, phát triển nghiệp vụ NHTW; đổi mới tổ chức và hoạt động thanh
tra, giám sát; tăng cường hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ ngân
hàng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Hệ thống các TCTD có bước phát triển mạnh cả về quy mô và mạng
lưới, loại hình sở hữu, công nghệ, dịch vụ, ngày càng đóng góp tích cực
vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
a, Giai đoạn 1986 – 1989
Sau một thời gian tiến hành làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng
sang kinh doanh XHCN, ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban
hành Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ
thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”. Tổ chức, bộ máy của
Ngân hàng Nhà nước được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức năng



quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân
hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Theo đó, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển
và tách ra từ Ngân hàng Nhà nước, gồm: Ngân hàng Công thương Việt
Nam, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây
dựng Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
b, Giai đoạn 1990 – 1996
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh Ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và
toàn diện phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần của Đảng, Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất dương, kết hợp sử
dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều
hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện
đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận
hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trong nhiều năm.
Thời kỳ này, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) được tái lập và khơi thông
c, Giai đoạn 1997 – 2007
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý căn bản và mạnh mẽ
hơn cho hệ thống Ngân hàng tiếp tục đổi mới hoạt động phù hợp với cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế.



Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, góp phần
giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á
năm 1997; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc
biệt là cơ chế điều hành lãi suất.
Hệ thống các tổ chức tín dụng được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử
lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có
bước phát triển mạnh mẽ; Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002, các dịch vụ ngân
hàng điện tử xuất hiện (E-Banking, Internet banking,...).
Ngân hàng Nhà nước tham gia đàm phán gia nhập WTO và tích cực
triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
d, Giai đoạn 2008 – 2012
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác
động rất tiêu cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của
Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách
tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008
sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng
trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế năm 2011, 2012.
Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý phù hợp
hơn để tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.
Sự kiện Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được bầu giữ chức
Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IMF/WB nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam
tổ chức thành công Hội nghị thường niên lần thứ 44 Ngân hàng phát
triển châu Á, Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN,... khẳng định vị thế
ngày càng tăng của Việt Nam trong cộng đồng tài chính quốc tế.
Những thành tựu nổi bật



Trải qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển, hệ thống Ngân hàng Việt
Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
1. Ngân hàng Nhà nước đã bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ
đạo, điều hành của Chính phủ, chủ động, linh hoạt trong điều hành các
giải pháp tiền tệ, ngân hàng phù hợp với điều kiện từng thời kỳ, góp
phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
2. Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng không ngừng
được hoàn thiện, ngày càng phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến gần
đến thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước từng bước được bổ sung, hoàn thiện; năng lực,
trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng ngày càng được nâng cao.
3. Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển cả về số lượng, loại hình hoạt
động, quy mô mạng lưới, phương thức quản trị điều hành; huy động vốn
và cho vay tăng nhanh, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từng bước được đa
dạng hoá, góp phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Cơ sở hạ tầng và công nghệ ngân hàng được chú trọng đầu tư và hiện
đại hoá, tạo thay đổi căn bản trong phương thức giao dịch giữa ngân
hàng với khách hàng và trong quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh, đặc biệt là thẻ ngân
hàng.
5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đạt được nhiều kết quả quan
trọng, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy quá trình tiếp
cận với công nghệ, dịch vụ ngân hàng hiện đại và các chuẩn mực quốc tế
về ngân hàng.

II – THÀNH QUẢ 5 NĂM VÀ NHỮNG BƯỚC ĐI MỚI



1 – Những kết quả đạt được của ngành ngân hàng năm 2011
1. Tổng phương tiện thanh toán cả năm tăng khoảng 10%, tín dụng tăng
khoảng 12%, góp phần đưa lạm phát tăng chậm lại (từ tháng 8 đến nay,
lạm phát tăng dưới 1%/tháng), giảm mạnh nhập siêu, cải thiện đáng kể
cán cân thanh toán quốc tế.
2. Tín dụng tăng ở mức thấp nhưng cơ cấu tín dụng chuyển theo hướng
tích cực, tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp, nông thôn và
xuất khẩu, giảm cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất.
Tăng trưởng tín dụng năm 2011 chỉ đạt 12-13%, nhưng vốn cho sản xuất
kinh doanh tăng 15%, vốn cho nông nghiệp nông thôn tăng tới 24%, có
thời điểm hơn 30%. Tín dụng xuất khẩu thậm chí tăng tới 58%. Trong
khi đó, vốn cho chứng khoán và bất động sản lại giảm mạnh.
Ước đến cuối năm, tín dụng tăng 12%, trong đó, tín dụng bằng VND
tăng 10,2%, tín dụng ngoại tệ tăng 18,7%, nhưng từ tháng 8 đến nay tín
dụng ngoại tệ đã có xu hướng tăng chậm lại.
3. Các mức lãi suất điều hành đã được điều chỉnh hợp lý hơn. Từ tháng
9, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng lên 15%/năm và lãi suất cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng lên 16%/năm.
Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng linh hoạt hàng ngày phù hợp với
diễn biến vốn khả dụng của hệ thống và diễn biến lãi suất thị trường liên
ngân hàng.
4. Việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp
vi phạm trần lãi suất huy động, kết hợp với các giải pháp khơi thông vốn
trên thị trường dân cư và liên ngân hàng khiến lãi suất huy động và cho
vay giảm dần trong những tháng cuối năm.
5. Thanh khoản VND toàn hệ thống về cơ bản được đảm bảo. Từ tháng
10, một số tổ chức tín dụng (TCTD) có khó khăn thanh khoản tạm thời
do mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động vốn ngắn hạn và cho vay trung,



dài hạn, nhưng đã được NHNN hỗ trợ kịp thời thông qua tái cấp vốn và
nghiệp vụ thị trường mở.
Thanh khoản ngoại tệ ở mức thấp trong 7 tháng đầu năm, từ tháng 8 đã
cải thiện sau khi NHNN thực hiện một số biện pháp kiểm soát tín dụng
bằng ngoại tệ.
7. Việc thu hẹp đối tượng được vay ngoại tệ trong nước, tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng
USD đã góp phần giảm tình trạng đô la hóa.
8. Thị trường vàng: Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định
giá vàng và thị trường vàng trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong
nước bám sát với giá vàng thế giới, giới đầu cơ đã không còn khả năng
thao túng thị trường.
Các ngân hàng đã bắt đầu mua được vàng từ thị trường trong nước để bù
đắp lại lượng vàng đã bán ra, giảm bớt áp lực nhập khẩu vàng, tiết kiệm
ngoại tệ và giảm bớt áp lực lên tỷ giá.
9. Công tác thanh tra, giám sát về lãi suất và hoạt động huy động, cho
vay của các TCTD được thực hiện quyết liệt, lập lại kỷ cương thị trường,
các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng phản ánh đúng bản chất.
Có sự phân hóa giữa nhóm TCTD hoạt động lành mạnh, có hiệu quả với
nhóm các TCTD hoạt động kém hiệu quả. Diễn biến này buộc các
TCTD cần chú trọng quản trị rủi ro, khuyến khích các ngân hàng tự
nguyện liên kết, hợp nhất, sáp nhập.
2 - Ngân hàng Nhà nước làm được gì trong năm 2012?
Thứ nhất, các chỉ tiêu tiền tệ tăng trưởng hợp lý (tổng phương tiện thanh
toán cả năm 2012 tăng khoảng 20%, tín dụng tăng khoảng 7%) phù hợp
với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức thấp 6,81%, ổn định kinh tế vĩ
mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,03%.
Thứ hai, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh về mức

định hướng của NHNN đề ra ngay từ đầu năm, nhưng với lộ trình giảm


nhanh hơn dự kiến, phù hợp với diễn biến kinh tê vĩ mô, đặc biệt là diễn
biến của lạm phát. Lãi suất huy động giảm từ 3 - 6%/năm, lãi suất cho
vay giảm 5 - 9%/năm so với cuối năm 2011 và đã trở về với mức lãi suất
cuối năm 2007.
Thứ ba, tuy tín dụng tăng trưởng thấp, nhưng cơ cấu tín dụng chuyển
dịch theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Đến
ngày 20/12/2012, tín dụng tăng 6,45% so với cuối năm 2011, trong đó
tín dụng bằng VND tăng 8,92%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 3,51%; tín
dụng đối với xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn tăng cao hơn tăng
trưởng tín dụng chung, tỷ trọng dư nợ cho vay đối với lĩnh vực không
khuyến khích giảm so với cuối năm 2011.
Thứ tư, tính đến ngày 20/12/2012 dư nợ cho vay bằng VND có mức lãi
suất trên 15%/năm chỉ chiếm tỷ trọng 18,7%, giảm so với mức 65%
trước ngày 15/7/2012.
Thứ năm, thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) được
cải thiện, số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu
cầu dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND giảm xuống
mức khoảng 95%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh từ
10 - 11%/năm so với cuối năm 2011 và hiện ổn định ở mức thấp.
Thứ sáu, nợ xấu của các TCTD sau khi tăng mạnh vào những tháng đầu
năm đã được khống chế và từng bước xử lý.
Thứ bảy, thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, đến ngày 21/12/2012 tỷ
giá mua trung bình của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm 0,96%
so với cuối năm 2011 tình trạng đô la hóa giảm (tỷ lệ tiền gửi ngoại
tệ/tổng phương tiện thanh toán là 13,2%, thấp hơn mức 15,8% tại thời
điểm cuối năm 2011).
Thứ tám, sau một năm quyết liệt triển khai cơ cấu lại hệ thống các

TCTD, rủi ro hệ thống từng bước được kiểm soát, nguy cơ đổ vỡ hệ
thống từng bước đẩy lùi. Hoạt động của các TCTD về cơ bản an toàn,


hoạt động lành mạnh, trật tự kỷ cương thị trường đã được khôi phục lại
và duy trì ổn
3 - Ngân hàng 2013: Ít xáo trộn, nhiều đổi thay
1. Lạm phát thấp nhất 10 năm
Với mức tăng 6,04%, CPI 2013 thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Đây
là một thành công trong điều hành chính sách tiền tệ, có ảnh hưởng sâu
rộng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Đầu năm, có quan điểm lo ngại, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, về một
cú hồi mã thương của lạm phát khi chính sách tiền tệ có dấu hiệu nới
lỏng, qua tốc độ giảm lãi suất khá nhanh, cung tiền tăng trưởng khá
cao…
Tuy nhiên, sau nhiều năm bùng nổ, tăng trưởng tín dụng đã hãm phanh
(năm 2013 dự kiến khoảng 11%), là một yếu tố quan trọng để giới hạn
mức độ nới lỏng nói trên, hạn chế tác động bất lợi đối với lạm phát.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước liên tục sử dụng các công cụ để điều
tiết cung tiền hợp lý, đặc biệt là lượng tiền cung ứng mua vào ngoại tệ.
Bên cạnh kiềm chế lạm phát, nhịp độ điều tiết của Ngân hàng Nhà nước
đã cân đối được các áp lực đối với lãi suất, tỷ giá và đặc biệt là vấn đề
thanh khoản hệ thống.

2. Lãi suất giảm nhanh
Với diễn biến thuận lợi của lạm phát, chính sách lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước đã bắt nhịp để có những điều chỉnh nhanh hơn dự tính.
Trong năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 2%/năm các mức lãi
suất điều hành; giảm 3%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên; giảm 1%/năm lãi suất tối đa áp dụng

đối với tiền gửi bằng VND, từ cuối tháng 6 cho phép các ngân hàng


thương mại tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6 tháng trở
lên.
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm trong 2013 (trở về mức lãi
suất của giai đoạn 2005-2006) nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát
lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ. Lãi suất cho vay cũng đã giảm
xuống thấp, phổ biến dưới 13%/năm đến cuối 2013.
3. Cam kết ổn định tỷ giá ba lần thử lửa
Lần thứ ba Ngân hàng Nhà nước đưa ra cam kết ổn định tỷ giá
USD/VND với mức tăng không quá 2-3%. Chung cuộc là mức tăng chỉ
1,3%, tỷ giá và thị trường ngoại hối tiếp tục có một năm ổn định, đặc
biệt là nguồn lực dự trữ ngoại hối tiếp tục được củng cố (ước tính đạt
trên 30 tỷ USD).
Song, áp lực đối với cam kết ổn định tỷ giá luôn tiềm ẩn. Trong năm ít
nhất có ba đợt biến động: cuối tháng 2 đầu tháng 3, cuối tháng 6 đầu
tháng 7 và gần đây là đầu tháng 12 vừa qua.
Điểm chung, ba đợt biến động đều xuất phát từ những thông tin đồn
đoán, những dự báo có ảnh hưởng đến tâm lý thị trường. Điểm chung
nữa, với lượng tiền cung ứng mua vào ngoại tệ lớn chuyển tiếp từ 2012,
trạng thái dư tiền đồng kéo dài trong hệ thống, đầu ra tín dụng khó đẩy
mạnh, hiện tượng găm giữ ngoại tệ có biểu hiện ở tiền gửi ngoại tệ tăng
khá cao… cũng là những nguyên nhân đáng chú ý.
Cả ba lần, Ngân hàng Nhà nước thể hiện sự linh hoạt, cũng như có hành
động can thiệp kịp thời. Thông tin định hướng thị trường đã nhanh hơn,
nguồn lực dữ trữ để bán ra bình ổn sẵn sàng hơn, nhưng hơn hết là đã có
sự phối hợp tốt hơn giữa chính sách lãi suất với tỷ giá, với điều tiết vốn
trong hệ thống; thị trường đã có một cam kết để định hình kỳ vọng và
ứng xử; những tác động bất lợi từ thị trường vàng đối với tỷ giá đã được

hạn chế.
Và một trong ba lần đó, nhà điều hành đã phải trực tiếp tăng 1% tỷ giá
bình quân liên ngân hàng, đồng thời lùi trần lãi suất tiền gửi tối đa USD.


×