Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tiểu luận nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại việt nam sau khi gia nhập AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.94 KB, 43 trang )

TIỂU LUẬN 1

“NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP AEC”

HỌ VÀ TÊN: ĐINH TRUNG NGHĨA
LỚP : TCNH8A3
MÃ SV: 14108100180


MỤC LỤC
Chương I: KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
VÀ NHỮNG HIỆP ĐỊNH CHÍNH CỦA CỘNG ĐỒNG ASEAN

I)

Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN

II)

Những hiệp định chính của cộng đồng ASEAN

Chương II: HÀNH ĐỘNG CỦA VIỆT NAM VÀ ASEAN ĐỂ
THỰC HIỆN HỘI NHẬP AEC
Chương III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA AEC ĐỐI

VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
I)

Cơ hội của AEC đối với các ngân hàng thương mại Việt
Nam



II)

Thách thức của AEC đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam

Chương IV: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ
NHÀ NƯỚC
I)

Khuyến nghị đối với doanh nghiệp

II)

Khuyến nghị đối với nhà nước

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Lời nói đầu:
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi trình bày về quá trình hình thành và mục tiêu phát triển
của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), hành động của Việt Nam và ASEAN
đang thực hiện trong AEC, tác giả đã phân tích sâu những cơ hội và
thách thức khi Việt Nam gia nhập AEC. Xét về cơ hội, Việt Nam có được
một thị trường hàng hoá và dịch vụ rộng lớn hơn, Việt Nam cũng sẽ có
cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn, đặc biệt là từ
các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Indonesia và
nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Thêm

vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá
thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Tuy
nhiên, bên cạnh những cơ hội là những thách thức không nhỏ do hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ nhỏ bé về quy mô mà còn cả
công nghệ. Thời điểm cộng đồng ASEAN bắt đầu có hiệu lực vào năm
2015, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh
từ hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu từ ASEAN, đầu tư của các nước
ASEAN. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của bài tiểu luận là hệ thống những thông tin tổng quát
về hội đồng kinh tế AEC, tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam và
nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam sau khi gia nhập
AEC

3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước


Thời điểm này, các nước Đông Nam Á đang hoàn tất những việc
cuối cùng cho sự ra đời chính thức của cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) vào ngày 31 tháng 12 năm 2015. Nhân dịp này, báo The Straits
Times đã đưa ra cái nhìn toàn cảnh về một khu vực mà sẽ được coi là
ngôi nhà chung của hơn 600 triệu người.
Theo đánh giá của một chuyên gia tư vấn quản lý toàn cầu,
Singapo đã sẵn sàng trở thành người cung cấp những dịch vụ và những
kĩ năng quan trọng khi AEC có hiệu lực. “Singapo đã sẵn sàng trở thành
nơi tin cậy đặt trụ sở chính của các doanh nghiệp trong khu vực” như
nhận định của Kenvin Sneader, chủ tịch của McKinsey&Company Asia
khi được phỏng vấn trên tờ The Straits Times
Cũng trên trang này, AEC được kì vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi

cho sự tự do trao đổi về hàng hóa, dịch vụ, lao động có chuyên môn,
việc làm và vốn đầu tư trong khu vực ASEAN. Các phân tích cũng chỉ ra
rằng các nước có thể gặt hái được nhiều lợi ích từ việc hội nhập nhưng
cũng cảnh báo rằng các yếu tố như chủ nghĩa bảo hộ, thiếu các tiêu
chuẩn đồng bộ trong ASEAN ở nhiều ngành và hàng rào pháp lí sẽ là
những trở ngại chủ yếu trong tiến trình hội nhập
Qua tìm hiểu, nhận thấy cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thu hút
được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều tác giả, các
chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước về AEC ảnh hưởng đến nền kinh
tế và hoạt động của hệ thông NHTM
Có thể thấy, các công trình, bài viết được các nhà nghiên cứu đề
cập đến nhiều nội dung phong phú, mới mức độ nông sâu khác nhau.
Trong tiểu luận này, tôi muốn đề cập một cách khái quát, có hệ thống các
vấn đề liên quan đến cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), đi sâu hơn


nghiên cứu các tác động cụ thể của AEC đến hoạt động của hệ thống
NHTM Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị, chính sách.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung tìm hiểu về AEC và Tác động của cộng đồng
kinh tế AEC đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC) và tác động của cộng đồng kinh
tế ASEAN(AEC) đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam từ
ngày gia nhập cho đến nay, và từ đó đề xuất định hướng và các giải
pháp phòng ngừa các rủi ro, và phát triển ngân hàng thương mại.
5. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận được xây dựng theo phương pháp thống kê, tổng hợp kết
hợp phân tích, so sánh dựa trên kiến thức sẵn có của bản thân va một số
nguồn tư liệu sẵn có
6. Kết cấu chương
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục, tiểu luận gồm 4
chương:
Chương I: Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và những hiệp định
chính của cộng đồng ASEAN
Chương II: Hành động của Việt Nam và ASEAN để thực hiện hội nhập
AEC
Chương III: Cơ hội và thách thức của AEC đối với doanh nghiệp Việt
Nam
Chương IV: Khuyến nghị đối với doanh nghiệp và nhà nước


Chương I: KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
VÀ NHỮNG HIỆP ĐỊNH CHÍNH CỦA CỘNG ĐỒNG ASEAN
I)

Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
1.1) Tổng quan về hội đồng kinh tế ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập từ năm
1967, hiện tại bao gồm 10 nước: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào,
Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Hiệp
hội ASEAN dựa trên 03 trụ cột chính: an ninh chính trị; kinh tế; văn hóa
xã hội. Kinh nghiệm thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm
1997/1998, cộng thêm sự nổi lên của các nền kinh tế Trung Quốc và Ấn
Độ đã khiến các nước ASEAN quyết tâm tạo ra một cộng đồng hợp tác
kinh tế mạnh mẽ, gắn 2 kết hơn. Hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội ASEAN

năm 1997 tại Kualar Lumpur, Malaysia đã ra Tuyên bố về Tầm nhìn
ASEAN 2020 với ý tưởng biến ASEAN thành một khu vực phát triển ổn
định, hội nhập và cạnh tranh, thiết lập một cộng đồng kinh tế khu vực
vào năm 2020. Vào năm 2003, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Bali đã
quyết đinh đẩy nhanh quá trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN
(Asean Economic Community - AEC), thay vì thời hạn 2020, các nước
quyết định hình thành AEC vào cuối năm 2015. Năm 2007 thông qua Kế
hoạch AEC 2007 đặt ra các thời hạn rõ ràng cụ thể cho các nước thành
viên ASEAN thực hiện để hình thành AEC, với mục đích hợp nhất các
quốc gia thành viên thành một cộng đồng kinh tế chung vào ngày
31/12/2015. Không giống như EU, ASEAN không tạo lập các tổ chức
quản lý trung ương như Ủy ban Liên minh châu Âu EU hay Ngân hàng
Trung ương châu Âu mà sẽ tập trung vào việc xóa bỏ các rào cản kinh
doanh, thương mại. Kế hoạch AEC bao gồm 04 trụ cột (04 nội dung then


chốt): tạo lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất; tạo lập một
khu vực kinh tế cạnh tranh cao; thúc đẩy sự phát triển kinh tế công
bằng; xây dựng một khu vực hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế toàn
cầu. Tóm lại, AEC sẽ biến ASEAN thành một khu vực với sự tự do dịch
chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ năng và tự do dịch
chuyển dòng vốn. Liên quan đến việc tạo lập một thị trường và cơ sở
sản xuất thống nhất, các quốc gia thành viên ASEAN đang tập trung
thực hiện giảm và tiến tới xóa bỏ các rào cản để đảm bảo dòng chảy
hàng hóa, dịch vụ và vốn trở nên tự do giữa các nước ASEAN. Đối với
lĩnh vực dịch vụ tài chính, các quốc gia thành viên đã cam kết tự do hóa
mạnh mẽ, xóa bỏ các hạn chế trong các ngành ngân hàng, bảo hiểm và
các thị trường vốn vào năm 2015. Điều này bao hàm tự do hóa 4
phương thức cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới như được định
nghĩa trong WTO - là cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới, Tiêu

dùng (sử dụng dịch vụ) ở nước ngoài, Hiện diện thương mại và Tự do
dịch chuyển cá nhân
Các nguyên tắc nền tảng của Cộng đồng ASEAN như sau:
- Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân nhưng chủ yếu
ở trong đó khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi
từ tiến trình liên kết và xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
- Tôn trọng các quy định thương mại nhiều bên và các quy định của
ASEAN dựa trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế
và dần dần giảm bớt hướng tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội
nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế định hướng thị trường.
Chính vì thế ASEAN đã ký kết các thỏa thuận tự do thương mại với
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan (New Zealand) và gần
đây nhất là Ấn Độ.
Xuất phát từ nền tảng cơ bản nói trên, một Cộng đồng kinh tế
ASEAN (ASEAN Economic Community được viết tắt là AEC) sẽ hình


thành dự định vào năm 2015 và dần dần lớn mạnh trở thành một khối
kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN. Cộng đồng kinh tế
ASEAN là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm
mục đích thực hiện các mục tiêu đề ra trong tầm nhìn ASEAN 2020. Hai
trụ cột còn lại là Cộng đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội ASEAN.
Mục đích các nước ASEAN thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh
vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh
tế phát triển đồng đều, sự đói nghèo và sự chênh lệch phát triển kinh tế
được giảm bớt dần đến năm 2020. Theo kế hoạch trung hạn 6 năm lần
thứ hai của ASEAN (2004-2010). Chương trình hành động Vientiane đã

xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh
thông qua sự hội nhập nhanh hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế của ASEAN.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế mới đầy biến động của thời kỳ khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng lan rộng trên
thế giới. Điều này cũng đã và đang tác động nhiều đến sự hình thành
Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.Đặc biệt vùng “Biển Đông mới
nổi sống” gần đây đã tác động không nhỏ tới tiến trình hội nhập của
khu vực Đông Nam Á.
Thực tế, kinh tế thế giới đang có tốc độ tăng trưởng chậm, đặc
biệt ở các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Brasil, Trung quốc, … Bối cảnh
này làm cho các nhà đầu tư, các hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ hoạch định lại chính sách phát triển kinh tế, thương mại theo chiều
hướng phát triển bền vững chậm lại, theo lộ trình tăng trưởng mạnh và
vững chắc. Ngoài ra, tình hình an ninh ở Nga, Ukraine, Syrie, Iraq,
Palestine, Israel, … ngày càng xấu đi do tranh chấp lãnh thổ leo thang,
bạo động, nội chiến, … Do đó, các tiến trình hội nhập của ASEAN thiếu


liên kết và chậm lại. Trong bối cảnh kinh tế như thế, nhiều nhà kinh tế
khuyến nghị các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt ở Cộng đồng
ASEAN nên cố gắng tìm cách tái cơ cấu lại nền kinh tế để cân đối các
nguồn tăng trưởng nhằm hướng tới phát triển kinh tế bền vững, ưu tiên
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao mức tiêu thụ hàng hóa
nội địa để phục vụ dân nghèo ở nông thôn và tầng lớp trung lưu ở
thành thị. Đây là hướng phát triển thị trường nội địa trong tư thế chuẩn
bị tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục đích đưa cộng
đồng các nước ASEAN trở nên tâm điểm hội nhập khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
1.2) Lịch sử hình thành, mục tiêu và bản chất của AEC

Lịch sử hình thành AEC:









Năm 1992: khái niệm hội nhập ktiên được
đưa ra trong Hiệp định khung về Thúc đẩy Hợp tác Kinh
tế ASEAN ký tại Singapore. Hiệp định này nhấn mạnh
tầm quan trọng trong hợp tác trong các lĩnh vực thương
mại, công nghiệp, năng lượng và khoáng sản, tài chính
và ngân hàng, thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp,
giao thông và truyền thông.
Năm 1992: Hiệp định về Chương trình Ưu
đãi Thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) được ký kết,
sau đó được thay thế bởi Hiệp định về Thương mại
Hàng hoá ASEAN 2010
Năm 1995: Hiệp định khung về Dịch vụ
ASEAN được ký kết
Năm 1998: Hiệp định khung về Đầu tư
ASEAN được ký kết, sau đó được thay thế bởi Hiệp định
Đầu tư toàn diện ASEAN 2012
Năm 2003: Tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN 9, các nhà lãnh đạo ASEAN lần đầu tiên tuyên



bố mục tiêu hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC). Mục tiêu này cũng phù hợp với Tầm nhìn ASEAN
2020 thông qua vào năm 1997 với mục tiêu phát triển
ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.

Năm 2006: Tại cuộc họp các Bộ trưởng
Kinh tế ASEAN lần thứ 38, Kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC (AEC Blueprint) đã được đưa ra với các mục tiêu và
lộ trình cụ thể cho việc thực hiện AEC.

Năm 2007: Tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 12, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý
đẩy nhanh việc hình thành AEC vào năm 2015 thay vì
2020 như kế hoạch ban đầu

Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký
kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập AEC.
Mục tiêu:
Bốn mục tiêu, cũng là bốn yếu tố cấu thành AEC, bao gồm:
1. Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây
dựng thông qua:














Tự do lưu chuyển hàng hoá
Tự do lưu chuyển dịch vụ
Tự do lưu chuyển đầu tư
Tự do lưu chuyển vốn
Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề
Lĩnh vực hội nhập ưu tiên
Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp
2. Một khu vực kinh tế cạnh tranh, thông qua:
Các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh
Bảo hộ người tiêu dùng
Quyền sở hữu trí tuệ
Phát triển cơ sở hạ tầng
Thuế quan










Thương mại điện tử
3. Phát triển kinh tế cân bằng, thông qua:

Các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SME)
Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách
phát triển trong ASEAN
4. Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thông qua:
Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế
Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung
cấp toàn cầu
Bản chất AEC:
- Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất
chưa thể được coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng
Kinh tế châu Âu bởi AEC không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những
cam kết ràng buộc với lộ trình thực hiện cụ thể. AEC thực chất là đích
hƣớng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện thực hóa dần dần
04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện tương
đối toàn diện và đầy đủ thông qua các hiệp định và thỏa thuận ràng
buộc, các mục tiêu còn lại mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình và
thực hiện một số sáng kiến khu vực). - AEC là một tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa thuận hay Hiệp định với các
cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các mục tiêu của AEC là
hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Tuyên bố… giữa các nước ASEAN
có liên quan tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm
những cam kết có tính ràng buộc thực thi, cũng có những văn bản mang
tính tuyên bố, mục tiêu hướng tới không bắt buộc của các nước ASEAN.
- Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước
đây (thông qua việc thực hiện các cam kết tại các Hiệp định cụ thể về


thương mại đã ký kết giữa các nước ASEAN) và sẽ được tiếp tục thực
hiện trong thời gian tới (tiếp tục thực hiện theo lộ trình các Hiệp định,

Thỏa thuận đã có và các vấn đề mới, nếu có).
Thực thi từ phía Chính phủ
Theo thông tin từ Bộ Công Thương, trong các đợt rà soát hàng năm
về lộ trình tổng thể cho việc thành lập AEC, Việt Nam thường đạt được
kết quả rà soát là đã hoàn thành được 85-90% khối lượng công việc, tỷ
lệ này là cao so với các nước trong khu vực. Trong kỳ rà soát tháng
10/2014, Việt Nam và Singapore đạt tỷ lệ hoàn thành 90% các biện
pháp, trong khi bình quân chung của các nước ASEAN là 82,1%.

II)

Những hiệp định chính của cộng đồng kinh tế
ASEAN(AEC)

Dưới đây là tóm tắt một số Hiệp định thương mại được ký kết trong
khuôn khổ ASEAN và hướng tới mục tiêu thực hiện AEC.
1. Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN (ATIGA)
Hiệp định ATIGA 2010 có tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung (CEPT/AFTA) được thực hiện từ năm 1992.
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn
bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở
tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất
trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan.
Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN
phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức


ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự
do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực

chung của ASEAN để xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác
hải quan và vệ sinh, kiểm dịch... đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa
chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC.
Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 nhưng đến năm 1999 mới
bắt đầu thực thi CEPT và sau này là ATIGA.
Theo ATIGA, đến năm 2010 các nước ASEAN-6 phải xóa bỏ thuế
nhập khẩu đối với 100% dòng thuế thuộc Danh mục thông thường; chỉ
giữ lại một số dòng thuế thuộc Danh mục loại trừ chung gồm những sản
phẩm được miễn trừ vĩnh viễn vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức và sức
khỏe). Các nước nhóm CLMV (gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt
Nam) có lộ trình dài hơn xóa bỏ thuế cho hàng hóa từ các nước ASEAN
muộn hơn, đến năm 2015 mới phải xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu
trong Danh mục thông thường nhưng được linh hoạt giữ lại thuế suất
đối với 7% số dòng thuế đến năm 2018.
Như vậy, từ khi thực hiện cắt giảm thuế năm 1999 đến 2015,
Việt Nam đã cắt giảm/xóa bỏ thuế nhập khẩu xuống còn 0-5% đối với
khoảng 90% dòng thuế, chỉ còn giữ linh hoạt đối với 7% dòng thuế còn
lại tính đến năm 2018, 3% số dòng thuế thuộc Danh mục loại trừ không
phải xóa bỏ thuế quan nhưng thuế quan phải giảm xuống dưới 5%.
Trung tâm WTO - VCCI 4 7% số dòng thuế được linh hoạt giữ tới
2018 này bao gồm các mặt hàng ô tô và linh kiện, sắt thép, linh kiện và
phụ tùng xe máy, máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng, xe đạp và phụ
tùng, rượu bia, sản phẩm chất dẻo, giấy các loại.


Từ năm 2018 Việt Nam chỉ còn được duy trì thuế nhập khẩu với
mức thuế suất tối đa là 5% đối với khoảng 3% số dòng thuế, bao gồm
phần lớn là các mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm (gia cầm sống, thịt già,
trứng gia cầm, quả có múi, thóc, gạo lứt, thịt chế biến, đường). Hai
nhóm mặt hàng có lộ tình cam kết dài và chưa có lộ trình là xăng dầu

(đến năm 2024) và thuốc lá (sẽ phải đưa ra lộ trình cắt giảm trong
tương lai gần).
2. Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)
Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN (AFAS) được ký năm
1995 và Nghị định thư sửa đổi AFAS ký năm 2003 nhằm điều chỉnh hoạt
động cung cấp dịch vụ giữa các nước ASEAN. Nội dung của AFAS tương
tự Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ của WTO.
Trên cơ sở AFAS, các nước ASEAN đến nay đã hoàn thành 8 Gói
cam kết về dịch vụ (cam kết cho 80 phân ngành), và đang đàm phán Gói
thứ 9 (cam kết cho 104 phân ngành) và sau đó sẽ đàm phán Gói cuối
cùng (cam kết cho 124 phân ngành) nhằm hướng tới mục tiêu tự do hóa
dịch vụ đến năm 2015.
Trong các Gói cam kết trên, các Gói cam kết 1-7 của Việt Nam có
mức độ mở cửa dịch vụ chỉ thấp hơn hoặc bằng so với mức độ mở cửa
dịch vụ của Việt Nam trong WTO. Nhưng bắt đầu từ Gói thứ 8 trở đi,
một số cam kết của Việt Nam trong một số phân ngành đã bắt đầu cao
hơn mức độ mở cửa trong WTO và bổ sung thêm cam kết cho một số
phân ngành mới.
Hiệu lực của các Gói cam kết này phụ thuộc vào thông báo hoàn
thành thủ tục phê chuẩn nội bộ của các nước thành viên ASEAN. Tuy
nhiên, hiện không có thông tin chính xác về số lượng các nước ASEAN


đã hoàn thành thủ tục phê chuẩn nội địa cho từng Gói cam kết cũng
như tình trạng hiệu lực của các Gói cam kết này.
Hiện tại các nước ASEAN đang đàm phán Hiệp định Thương mại
dịch vụ ASEAN (ATISA) nhằm nâng cấp Hiệp định AFAS và tổng hợp các
cam kết dịch vụ trong các FTA ASEAN với các đối tác bên ngoài ASEAN.
3. Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA)
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) được ký kết tháng

2/2009 và có hiệu lực từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến
khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN (IGA) 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư
ASEAN (AIA) 1998)
ACIA bao gồm 4 nội dung chính: Tự do hóa đầu tư, Bảo hộ đầu
tư, Thuận lợi hóa đầu tư và Xúc tiến đầu tư.
Phạm vi điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián
tiếp.
Phạm vi tự do hóa bao gồm các ngành phi dịch vụ (các ngành
dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của AFAS về dịch vụ như giới thiệu ở
trên): sản xuất, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khai khoáng và
các dịch vụ liên quan đến các ngành trên.
Một số đặc điểm nổi bật của ACIA:
- ACIA mở rộng về phạm vi định nghĩa nhà đầu tư (ví dụ doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài khối tại một nước ASEAN khi đầu tư sang
một nước ASEAN khác được coi là nhà đầu tư ASEAN).


- ACIA quy định về các biện pháp/yêu cầu đối với đầu tư bị cấm mà
các nước thành viên không được phép sử dụng (ví dụ yêu cầu tỷ lệ nội
địa hóa, cân bằng cán cân thanh toán)
- ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa Nhà
nước và nhà đầu tư.
ACIA bao gồm:
- 49 Điều;
- 02 phụ lục:
o Phụ lục 1 quy định về các yêu cầu bắt buộc về thủ tục mà Cơ
quan nước thành viên phải tuân thủ đối với các trường hợp mà pháp
luật nội địa của từng nước quy định phải có chấp thuận bằng văn bản
đối với khoản đầu tư (ví dụ đối với Việt Nam là đầu tư trong các lĩnh vực
nhạy cảm như dầu khí, khai thác khoáng sản quý hiếm…).

o Phụ lục 2 về trường hợp tịch biên và bồi thường
- 01 Danh mục bảo lưu: Danh mục này của Việt Nam bao gồm các
trường hợp loại lệ không áp dung nghĩa vụ đối xử quốc gia và nghĩa vụ
đối với quản lý cấp cao và ban giám đốc.

Tóm lại:
- Về tự do hóa hàng hóa: Trong số các FTA mà Việt Nam đã ký kết, các
cam kết về cắt giảm thuế quan trong ASEAN là cao nhất và nhanh nhất
- Về tự do hóa dịch vụ: các cam kết về dịch vụ trong ASEAN đều tương
tự mức cam kết trong WTO, trong một số gói cam kết dịch vụ gần đây
của ASEAN, mức độ cam kết đã bắt đầu cao hơn so với WTO nhưng


không nhiều và cũng phù hợp với mức độ mở cửa thực tế về dịch vụ
của Việt Nam.
- Về tự do hóa đầu tư: các cam kết về đầu tư trong ASEAN toàn diện
hơn trong WTO và các FTA đã ký của Việt Nam nhưng cũng phù hợp với
các quy định về đầu tư trong pháp luật Việt Nam (việc thực thi các cam
kết về đầu tư trong ASEAN không buộc Việt Nam phải sửa đổi pháp luật
trong nước)

Chương II: Hành động của Việt Nam & ASEAN để thực hiện
hội nhập AEC
Hiện nay, trong khối ASEAN, Việt Nam được đánh giá là một trong
bốn thành viên có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình
tổng thể thực hiện AEC. Việt Nam đã tham gia hợp tác một cách toàn
diện với các nước ASEAN từ các lĩnh vực truyền thống như: thương mại
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông,
cho đến các lĩnh vực mới như: bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng… Cho tới nay, Việt Nam đã giảm thuế

nhập khẩu cho hơn 10 nghìn dòng thuế xuống mức 0 - 5% theo ATIGA,
chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu thuế.
Về thương mại hàng hoá, ASEAN đã sửa đổi, bổ bổ sung các hiệp
định kinh tế ASEAN, trong đó Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA) được ký kết ngày 26/02/2009 tại Thái Lan. Nghị định thư về sửa
đổi một số Hiệp định kinh tế ASEAN liên quan đến thương mại hàng hóa
đã được ký ngày 08/3/2013 trong dịp Hội nghị AEM Retreat lần thứ 19
tại Hà Nội. Các nước cũng đang trong quá trình thảo luận về các vấn đề
hàng rào phi thuế quan trong ASEAN và 7 nước thành viên (gồm Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đã


thử nghiệm thành công kết nối cổng ASW trong cơ chế hải quan một
cửa ASEAN.
Về thương mại dịch vụ, ASEAN đã có những thỏa thuận giúp các
bên sớm hoàn tất các thủ tục cần thiết để Hiệp định ASEAN về di
chuyển thể nhân có hiệu lực, trên cơ 3 sở đó tạo thuận lợi cho việc di
chuyển của các cá nhân tham gia vào các hoạt động thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư trong khu vực. Bên cạnh đó, việc
thực thi Kế hoạch Chiến lược Du lịch ASEAN 2011 - 2015 cũng đang
được tích cực triển khai nhằm tạo thuận lợi cho di chuyển của những
người làm du lịch thông qua các thỏa thuận công nhận lẫn nhau.
Về đầu tư, ASEAN đang trong giai đoạn thực thi Hiệp định ACIA,
trong đó quá trình rà soát lẫn nhau đã được triển khai nhằm giám sát
việc xóa bỏ các hạn chế/trở ngại hoặc cải thiện các biện pháp theo Kế
hoạch tổng thể về xây dựng AEC nhằm thúc đẩy ASEAN thành một khu
vực thu hút đầu tư thống nhất.
Về quyền sở hữu trí tuệ, việc thực thi kế hoạch làm việc với 28
sáng kiến và 5 mục tiêu chiến lược trong Kế hoạch hành động IPR
ASEAN 2012 - 2015 đã giúp nâng cao tính pháp lý và chính sách trong

việc giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Để tránh gặp phải nhiều thách thức khi Việt Nam tham gia Cộng
đồng kinh tế ASEAN (viết tắt AEC) sẽ hình thành vào năm 2015, Nhà
nước cần tranh thủ các cơ hội để xây dựng và phát triển những ngành
hàng xuất khẩu còn yếu kém để xây dựng và phát triển những ngành
hàng xuất khẩu còn yếu kém để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài đối với
những ngành hàng chủ lực của nước ta như nông - lâm - ngư nghiệp,
khai khoáng, thực phẩm - thức uống - thuốc lá, dệt may - da giày, bán
buôn - bán lẻ, nhà hàng - khách sạn


Sáng kiến về FTA vốn là Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được
ký kết vào năm 1992 tại Singapore. Lúc đầu chỉ có Brunei Darussalam,
Indonesia, the Philippines, Malaysia, Singapore và Thái Lan (gọi chung
ASEAN-6). Sau thêm Cambodia, Laos, Myanmar và Việt Nam gọi là
CLMV vào AFTA.Mục đích AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của
ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng
cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về sau khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc (ASEAN China Free Trade Area tức ACFTA hay CAFTA là khu vực mậu dịch tự do
được ký giữa các nước ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(CHNDTH) và thành lập tháng 1/2010 được nêu ra và ký Nghị Định
khung vào ngày 4/10/2002 tại Thủ đô Phnom Penh của Cambodia. Hiệp
Định ký kết bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/2010. Đây là khu vực Mậu
dịch Tự do lớn nhất thế giới xét về diện tích và dân số (1,9 tỉ người trong
đó Trung Quốc là hơn 1,3 tỉ người) nhưng đứng thứ ba về tổng thu
nhập quốc dân sau Khu vực Mậu dịch Tự do của Bắc Mỹ và Khu vực
Mậu dịch Tự do của Châu Âu. Bước đầu, theo thỏa thuận chung, các
quốc gia thành viên (gồm Trung Quốc và 6 nước sáng lập ASEAN là
Brunei 3 Darussalam, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore và
Thái Lan) sẽ gỡ bỏ 90% hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu

của nhau kể từ 2010. Những thành viên khác của ASEAN như Việt Nam,
Cambodia, Lào và Myanmar sẽ tham gia khu vực này theo một lộ trình
kéo dài trong 5 năm (2015).
Tuy nhiên, ngay sau đó Indonesia suy tính lại, và chỉ trong vài ngày
sau khi hiệp ước có hiệu lực ngày 5/1/2010, Bộ Thương mại Indonesia
đã đưa ra đề nghị hoãn việc áp dụng chế độ cắt giảm thuế nhập khẩu
trong khuôn khổ hiệp định, đồng thời muốn “đàm phán lại” để “hàng
hóa nhập khẩu rẻ” không tràn vào làm tràn ngập thị trường mà không


thể bị ngăn chặn được. Các báo chí và doanh nghiệp trong vùng cũng
quan ngại là hiệp định sẽ gây nhiều bất lợi cho họ, và sẽ càng làm tăng
chênh lệch mậu dịch trong cán cân thương mại với Trung Quốc và làm
mất khả năng công nghiệp hóa của các nước đi sau. Đây là một bài học
kinh tế - thương mại đầy xương máu mà các quốc gia ASEAN cần rút ra
một bài học đáng nhớ mãi về sau này
Cho đến tháng 10/2012, hàng hóa Trung Quốc và ASEAN đang tràn
ngập thị trường Việt Nam.Đây là nỗi lo thật sự của nước ta về hàng hóa
ASEAN+1. Để cân bằng hơn, Việt Nam phải đầu tư mạnh mẽ vào sản
xuất, cải thiện sức cạnh tranh về chất lượng và giá hàng hóa so với khu
vực.
Hàng hóa Trung Quốc và ASEAN tràn ngập thị trường Việt Nam và
tình hình sẽ nghiêm trọng hơn khi Hiệp định thương mại tự do Trung
Quốc - ASEAN (ASEAN +1) hoàn toàn có hiệu lực vào năm 2015. Trước
hết các nhập khẩu ASEAN, Trung Quốc sẽ làm khó các nhà xuất khẩu
Việt Nam về giá, hợp đồng, khối lượng hàng hóa.Đặc biệt là thị trường
Trung Quốc rất thường xuyên xảy ra rủi ro cho các yếu tố trên.Riêng thị
trường Mỹ, EU ít khi xảy ra ép giá hay bỏ hàng. Trái lại hàng Việt Nam
vào thị trường Mỹ, EU với kim ngạch tăng liên tục. Chẳng hạn, Việt Nam
xuất siêu vào Mỹ 10 tỉ USD trong 8 tháng đầu năm 2012 và vào Đức 1,1

tỉ USD (theo Tổng cục Hải quan). Đối với thị trường gần như ASEAN và
Trung Quốc, Việt Nam phải nhập siêu liên tục.Tất cả các nước này đều
áp dụng kỹ thuật khá chặt chẽ đối với hàng nhập khẩu. Chẳng hạn, sản
phẩm Casumina phải rất gần 1 năm mới xin được giấy chứng nhận và
chi phí cho việc gửi mẫu, việc cán bộ của nước sở tại đến tận công ty lấy
mẫu … Vì vậy, nhiều doanh nghiệp ta nản chí khi đi tiếp cận thị trường.
Nói chung, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ, Đức, Nhật trái lại nhập siêu rất
lớn từ Trung Quốc và một số nước ASEAN, những nền kinh tế sẽ cạnh


tranh gay gắt với ta khi Hiệp định ASEAN+1 có hiệu lực hoàn toàn vào
năm 2015. Vì vậy, về phía Việt Nam, Nhà nước cần đầu tư trọng điểm
một số lĩnh vực, ngành hàng có khả năng cạnh tranh khi Việt Nam gia
nhập AEC.Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam phải phấn đấu hạ giá
thành trong cuộc cạnh tranh mói đầy gay go và quyết liệt này. Tóm lại,
nước ta phải nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 cấp: nhà nước, doanh
nghiệp và sản phẩm. Hơn nữa, Việt Nam cần chú trọng đặc biệt đến
công tác quản lý nhập khẩu, kiểm soát hàng hóa chặt chẽ hơn, tăng
cường hàng rào kỹ thuật nhằm đối phó hàng Trung Quốc, đặc biệt hàng
kém chất lượng.

CHƯƠNG III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA AEC ĐỐI
VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
I)

Cơ hội của AEC đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam
Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn:

ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%6% hàng năm. Dân số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối

trẻ. Thu nhập bình quân đầu người trên 4.500 USD/người/năm. Thu hút
đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ USD. Tổng giá trị giao dịch
thương mại 2,5 nghìn tỷ USD (*). AEC với việc tự do hóa dịch chuyển
hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động
kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư nước ngoài trực tiếp
gia tăng và hoạt động kinh tế ở khu vực đương nhiên sẽ mang lại việc
gia tăng nhu cầu bảo hiểm ở Đông Nam Á. Các doanh nghiệp Việt Nam


sẽ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn ở các nước
khác trong khu vực ASEAN… Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt
Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường. Mặt khác, AEC tạo lập một
khu vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều
nước trở nên phồn vinh hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên
một lượng mới người tiêu dùng trung lưu với thu nhập cao - cũng là đối
tượng khách hàng rất tiềm năng của các doanh nghiệp.
Cơ hội mở rộng xuất khẩu:
Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt
Nam sẽ ngày càng mở rộng. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút
được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn, đặc biệt là từ các nước có nền
kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Indonesia...
“Điều quan trọng nhất là việc tham gia sâu rộng vào AEC sẽ giúp Việt
Nam tăng cường cải cách nền kinh tế ở trong nước theo những tiêu
chuẩn của hội nhập, giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển hiệu quả
hơn, qua đó dần vượt qua những thách thức.”, Theo Ông Nguyễn Hồng
Sơn - Hiệu trường Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác thương mại
quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước
ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua, vượt
trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Với lợi thế là khu vực phát

triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai
chiều Việt Nam và ASEAN năm 2013 đã tăng hơn 5 lần, chiếm gần 20%
tổng kim ngạch xuất 4 nhập khẩu của cả nước. Giai đoạn 2002 - 2013,
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang ASEAN đạt
28,4%/năm và nhập khẩu đạt 27%/năm.Từ năm 2010, kim ngạch xuất


khẩu của Việt Nam sang Campuchia, Indonexia, Philippines, Thái Lan,
Singapore đều đạt trên 1 tỷ USD.
Cơ hội mở ra cho thấy khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị
trường đơn nhất, khai thác được tối đa các hiệp định thương mại tự do
(FTA) mang lại, thuế suất lưu thông hàng hoá giữa các nước trong khu
vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Đặc biệt trong giai đoạn từ nay đến
năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu sẽ là
thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong bối
cảnh các biện pháp về phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng.
Vì vậy, giai đoạn 2014- 2015 sẽ là “nước rút” để tiến đến mục tiêu xây
dựng AEC với kỳ vọng ra đời vào cuối năm 2015. Điều này khiến doanh
nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể chỉ bó
hẹp tầm nhìn trong tỉnh, thành phố hay trong phạm vi quốc gia mà cần
phải mở rộng hơn tới toàn cầu. Thời gian qua, ASEAN liên tục thuộc
nhóm các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Dẫn số liệu
thống kê từ Cục Xuất Nhập khẩu cho thấy cán cân thương mại của Việt
Nam với khối ASEAN đã có sự thay đổi rõ rệt. Nếu như năm 2011, kim
ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam sang khối các nước ASEAN tương
ứng là 13,5 tỷ USD và 20,9 tỷ USD thì con số này của năm 2013 là 18,4
tỷ USD và 21,3 tỷ USD. Điều này thể hiện khoảng cách giữa xuất và nhập
của Việt Nam đã được rút ngắn và con số xuất khẩu cũng tăng vọt.
Riêng 6 tháng đầu năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều ước đạt

20,45 tỷ USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2013 và chỉ đứng sau 2 thị
trường lớn là Mỹ và EU.
Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng
sang các nước ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một trong
những thuận lợi đối với việc lưu chuyển hàng hóa của các doanh
nghiệp. Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm rà hơn và việc


cải cách thủ tục xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận
xuất xứ cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thông quan
hàng hoá sang các thị trường ASEAN.
Dự báo trước thềm AEC, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ
tiếp tục tăng trưởng ổn định nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan với
tổng số trên 99% dòng thuế của ASEAN 6 là 0% theo Hiệp định ATIGA.
Đây là thời điểm để các doanh nghiệp hết sức linh hoạt, nhạy bén, sớm
nhận diện và nắm bắt những lợi ích tiềm năng từ AEC để thúc đẩy khả
năng tăng quy mô kinh tế không chỉ khối thị trường này mà còn với các
thị trường khác; trong đó có các thị trường ASEAN đã ký các Hiệp định
thương mại tự do như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,
Australia và New Zealand.
Theo bà Phạm Thị Hồng Thanh, hiện nay, kim ngạch thương mại
giữa Việt Nam với các đối tác trong khu vực ASEAN giai đoạn 2003 2013 tăng trưởng đều qua các năm, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt
17,7%. Trong đó, xu hướng tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu của Việt
Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn 2003 - 2013 tương đối giống
với xu hướng tăng trưởng kim ngạch thương mại Việt Nam - ASEAN.
Theo số liệu thống kê năm 2013, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
truyền thống có thể kể đến như: hàng dệt may đạt 330 triệu USD (tăng
23%), hàng thủy sản đạt 313 triệu USD (tăng 12,6%), gỗ và sản phẩm
của gỗ đạt 73 triệu USD (tăng 34%). Các mặt hàng công nghiệp tăng cao
như: máy móc thiết bị và phụ tùng khác đạt giá trị xuất khẩu 801 triệu

USD, tăng 9%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD
tăng 30%, điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,1 triệu USD, tăng 76%.
Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt 5 Nam sang ASEAN những năm qua,
có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là
dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40%) sau đó là gạo


(chiếm tỷ trọng trên 10%). Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt
Nam sang ASEAN chủ yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô.
Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được hưởng thuế nhập khẩu ưu
đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá cả phụ
thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn
định.
Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt
Nam:
Khi AEC được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường
rộng lớn hơn. Thêm vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%,
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành
hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Theo quy định
của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được xem là
sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang
các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt
Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng
hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực.
Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư:
Cơ hội được trông đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không
riêng gì Việt Nam đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn,
phát triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt
chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi
chung, một công xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống nhất, đặc

biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ.
AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh
doanh từ thủ tục hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi


×