Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Quan hệ giữa Nhật Bản với Trung Quốc và Đông Á.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.93 KB, 10 trang )

QUAN HỆ NHẬT BẢN – TRUNG QUỐC
1. VỀ VẤN ĐỀ TRÊN BIỂN HOA ĐÔNG
Nhật chứng minh trò giàn khoan Biển Đông ở Hoa Đông
Nhật Bản công bố sơ đồ và hình ảnh các công trình nổi của Trung Quốc trên Hoa Đông và coi
đây là sự thể hiện ngoan cố.
Các công trình nổi
Ngày 22/7/2015, Nhật Bản đã công bố một tấm bản đồ và một loạt hình ảnh chụp từ trên
không về 12 công trình ngoài khơi làm bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đơn phương khai thác
giếng khí đốt gần đường ranh giới trên biển giữa Trung Quốc với Nhật Bản trên Biển Hoa
Đông.
Phát biểu trong buổi họp báo, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga cho biết từ
hồi tháng 6/2013, Tokyo đã biết về 12 công trình trên nằm ở phía bên kia đường ranh giới trên
biển và tổng số công trình như vậy hiện này là 16.
Ông Suga cũng đã chỉ trích việc Bắc Kinh tiếp tục đơn phương khai thác tài nguyên, theo đó
đi ngược lại hiệp định song phương từng ký hồi năm 2008 về việc cùng khai thác khí đốt trên
Biển Hoa Đông.
Hiện bản đồ và các hình ảnh trên đã được công bố công khai trên trang tin điện tử của Bộ
Ngoại giao Nhật Bản. Tới nay, Nhật Bản và Trung Quốc vẫn bất đồng về phân định hải giới ở
Biển Hoa Đông, nơi Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý của hai bên chồng lấn
nhau.
Tokyo đã đề xuất xác lập một giới tuyến trung lập ở vùng chồng lấn này, song Bắc Kinh bác
bỏ đề xuất trên và một mực tuyên bố nước này sở hữu EEZ rộng hơn.
Cũng liên quan tới các hoạt động này của Trung Quốc, Sách Trắng Quốc phòng thường niên
2015 của Nhật Bản đã nhấn mạnh sự ngoan cố ngày một gia tăng của Trung Quốc có nguy cơ
gây căng thẳng trong khu vực.
Văn kiện vừa được Nội các Nhật Bản thông qua hôm 21/7 kêu gọi Bắc Kinh chấm dứt hoạt
động xây dựng các công trình khai thác dầu và khí đốt mới gần khu vực tranh chấp ở biển
Hoa Đông mà cả hai nước cùng tuyên bố chủ quyền.
Sách Trắng cho rằng những công trình như vậy sẽ tạo điều kiện để Trung Quốc giám sát các
hoạt động của hải quân Nhật Bản và Mỹ.
Ý đồ quân sự


Sự phát triển của quân đội và an ninh Trung Quốc đã từng được đề cập trong các báo cáo
thường niên của Nhật Bản những năm trước.
Tuy nhiên, năm nay Sách Trắng Quốc phòng của Nhật Bản cho rằng môi trường an ninh hiện
nay đang “ngày một gay gắt” và gia tăng lo ngại về những hành động của Trung Quốc ở biển
Hoa Đông và Biển Đông.


Báo cáo có đoạn: “Trung Quốc, cụ thể là trong các vấn đề liên quan đến hàng hải, tiếp tục thể
hiện theo lối ngoan cố, không ngừng tìm cách thay đổi nguyên trạng, chỉ để đáp ứng các nhu
cầu đơn phương mà không có sự thỏa hiệp”.
Việc công bố Sách Trắng Quốc phòng năm nay của Nhật Bản đã bị trì hoãn hơn một tuần do
các thành viên chủ chiến trong đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền của Thủ tướng Nhật
Bản yêu cầu đề cập đến những hành động đơn phương trên biển của Trung Quốc, bao gồm
hoạt động khai thác dầu và khí đốt ở biển Hoa Đông.
Tài liệu dài 429 trang này nói rằng Trung Quốc đã khôi phục hoạt động thăm dò ở biển Hoa
Đông từ năm 2013, và trước đó đã bắt đầu xây dựng một vài công trình mới gần khu vực
tranh chấp.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani hôm 10/7 cho biết Trung Quốc “có thể triển
khai hệ thống radar trên những công trình đó và sử dụng chúng như một căn cứ điều hành
máy bay trực thăng hoặc máy bay không ngườĐây cũng là lần đầu tiên Sách Trắng Quốc
phòng của Nhật Bản in cả những hình ảnh chụp được từ vệ tinh các hòn đảo nhân tạo mà
Trung Quốc đang xây dựng ở Biển Đông.
Sách Trắng có đoạn: “Trung Quốc đã nhanh chóng đẩy mạnh các hoạt động xây dựng đảo ở
khu vực quần đảo Trường Sa và trong số các công trình được xây dựng trên một số hòn đảo
nhân tạo có cả đường băng và cảng biển. Đây là mối quan tâm của không chỉ Mỹ mà còn của
cả cộng đồng quốc tế”.
Thái Minh, báo Đất Việt, 23/07/2015, />2. MỘT SỐ TRỞ NGẠI TRONG QUAN HỆ NHẬT-TRUNG TỪ SAU CHIẾN TRANH
LẠNH ĐẾN NAY
Đăng ngày: 24-08-2012, 10:53 | Danh mục: Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 3
Nhật Bản và Trung Quốc là hai nước lớn ở Châu Á. Một bên là một trong những cường quốc

kinh tế hàng đầu thế giới, còn bên kia là một cường quốc chính trị và một nền kinh tế đang
lên. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã và đang có tầm ảnh hưởng đến sự phát triển của
Châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Quan hệ Nhật – Trung thời hiện đại đã trải qua những
bước đi thăng trầm. Từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, do nhiều nhân tố thúc đẩy, mối
quan hệ này đã có nhiều biến chuyển tích cực. Tuy nhiên, sự bất đồng trong nhiều vấn đề
đang cản trở sự phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Quan hệ Nhật – Trung căng thẳng
đã ảnh hưởng lớn tới quá trình hợp tác và hội nhập ở Đông Á. Trong bài viết này, chúng tôi
muốn đề cập đến những vấn đề gây trở ngại trong quan hệ hai nước Nhật – Trung từ sau
Chiến tranh Lạnh đến nay.
Những vấn đề gây trở ngại cho mối quan hệ Nhật – Trung thời hiện đại đã được đề cập trên
nhiều phương diện, nhiều góc độ khác nhau. Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tác động mạnh mẽ tới tình hình quan hệ
quốc tế. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm
tranh thủ những bạn đồng minh và tìm kiếm một vị trí trên trường quốc tế. Trong xu thế toàn
cầu hoá và khu vực hoá, cả Nhật Bản và Trung Quốc đều ra sức cải thiện mối quan hệ giữa
hai nước. Tuy nhiên, những vấn đề lịch sử để lại đang là “hòn đá tảng” ngăn cản mong muốn
hoà bình hữu nghị giữa hai quốc gia. Theo chúng tôi, trở ngại chính là những tồn tại của lịch
sử bao gồm thái độ đối với lịch sử, tâm lí nghi ngại lẫn nhau và tranh chấp lãnh thổ.


1. Thái độ đối với lịch sử
Mối quan hệ Nhật – Trung đã có từ rất sớm. Khoảng thế kỉ VI – VIII, triều đình Nhật Bản đã
chọn lựa những người tài giỏi và gửi sang Trung Quốc để học tập và tiếp thu văn hoá tiên tiến
của Trung Quốc. Trong suy nghĩ của tầng lớp lãnh đạo Nhật Bản lúc bấy giờ hình thành hai
thái độ đối với Trung Quốc: kính nể hoặc phủ nhận. Đại đa số giới thượng lưu và trí thức Nhật
Bản đều nhận thấy văn hoá Trung Quốc là tiến bộ và cần học tập. Còn Trung Quốc chỉ nhận
thức Nhật Bản là nước láng giềng “kém” văn minh. Từ đó cho đến trước thời đại Minh Trị,
Trung Quốc luôn khẳng định vị thế nước lớn trong quan hệ với Nhật Bản. Tuy nhiên, những
đặc điểm về địa lý, lịch sử, văn hoá đã tạo nên tinh thần tự tôn dân tộc rất mãnh liệt ở người
Nhật Bản. Dù chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nhưng người Nhật không tiếp thu

nguyên vẹn mà đã cải biến nhiều yếu tố cho phù hợp với môi trường và văn hoá Nhật Bản.
Các Thiên hoàng Nhật Bản cũng luôn khẳng định ý thức ngang hàng với các Thiên tử Trung
Hoa. Duy nhất trong lịch sử Nhật Bản chỉ Ashikaga Yoshimitsu (1358 - 1408), vị tướng quân
thứ ba của dòng họ Ashikaga là người nhận tước phong “quốc vương Nhật Bản” của các
hoàng đế Trung Hoa ban cho.
Sang thời kì Minh Trị, nhờ những biện pháp cải cách duy tân đất nước, Nhật Bản đã thoát
khỏi nguy cơ mất độc lập và trở thành một cường quốc ngang hàng với các nước tư bản
phương Tây. Từ đây, Nhật Bản bắt đầu thực hiện tham vọng đế quốc của mình. Để thực hiện
chủ trương ‘thoát Á nhập Âu” trên tinh thần “học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt
qua phương Tây”, Nhật Bản đã tiến hành các cuộc xâm lược ra bên ngoài. Đầu tiên, Nhật Bản
nhìn sang Trung Hoa cổ kính, già nua. Cuộc chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895) là bước
đầu của quá trình Nhật Bản xâm lược Trung Quốc. Tiếp đó, Nhật Bản xâm lược vùng Đông
Bắc Trung Quốc lập nên “Mãn Châu quốc”, đưa hoàng đế Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng
của triều Mãn Thanh lên làm “bù nhìn” cai trị. Từ đó cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai là
những năm tháng đầy đau khổ và tủi nhục đối với người Trung Quốc khi một phần lớn lãnh
thổ nằm dưới sự cai trị của quân phiệt Nhật Bản. Lòng tự tôn dân tộc, ý thức Đại Trung Hoa
đã bị tổn thương nghiêm trọng. Thực tế, Nhật Bản đã gây ra nhiều đau thương cho các dân tộc
Châu Á nói chung và cho người dân Trung Quốc nói riêng.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận nhưng trong tình hình
Chiến tranh Lạnh bắt đầu phát triển, Nhật Bản đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn Mỹ - Xô, dựa
vào Mỹ để tập trung phát triển kinh tế. Chỉ trong một thời gian ngắn với tốc độ phát triển
“thần kỳ”, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới sau Mỹ. Chính sự
phát triển kinh tế mạnh mẽ và dựa vào mối liên minh với Mỹ mà lòng tự tôn dân tộc của Nhật
Bản càng được phát huy.
Từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, Nhật Bản đang ra sức vươn lên vị trí một
cường quốc chính trị. Nhật Bản đang thực hiện việc “trở lại Châu Á” bằng kinh tế, đầu
tư và viện trợ ODA. Trong số các nước Châu Á, Trung Quốc là nước nhận được ODA
nhiều nhất từ Nhật Bản. Mặc dầu vậy, thái độ đối với các vấn đề lịch sử của hai nước rất
khác nhau. Trung Quốc luôn đòi hỏi Nhật Bản phải chính thức công khai xin lỗi ở cấp
nhà nước và có những hành động thiết thực sửa chữa những sai lầm của quá khứ quân

phiệt. Còn Nhật Bản lại luôn né tránh nhìn nhận một cách đầy đủ những vấn đề này. Đây là
bất đồng lớn đã và sẽ cản trở sự phát triển quan hệ giữa hai nước. Chính sự bất đồng về thái
độ đối với lịch sử đã làm căng thẳng quan hệ hai nước trong những năm đầu thế kỉ XXI. Nó
kéo theo những tranh cãi về sách giáo khoa lịch sử của Nhật Bản, về việc viếng thăm ngôi đền
Yasukuni của nhiều nhà lãnh đạo Nhật Bản…
Vào năm 1983, Nhật Bản đã ban hành bộ sách giáo khoa về lịch sử trong đó phủ nhận những
hành động tàn bạo mà quân phiệt Nhật Bản đã gây ra ở nhiều nước Châu Á trong Chiến tranh


Thế giới thứ hai. Điều này đã làm cho nhiều nước Châu Á, nhất là Trung Quốc hết sức tức
giận. Đến ngày 5/4/2005, Bộ Giáo dục Nhật Bản lại cho ban hành bộ sách giáo khoa lịch sử
mới dành cho bậc phổ thông, trong đó tô hồng quá khứ thời quân phiệt, không dùng từ “xâm
lược” khi nhắc đến cuộc chiếm đóng quân sự đối với các nước Châu Á. Vụ thảm sát Nam
Kinh từ tháng 12/1937 đến tháng 3/1938 được gọi là một “vụ việc” trong đó “nhiều” người
Trung Quốc bị giết. Trung Quốc khẳng định, trong vụ thảm sát Nam Kinh đã có 300.000
người chết, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em, 20.000 phụ nữ bị cưỡng hiếp. Còn phiên toà
xét xử tội phạm chiến tranh do Mĩ tổ chức thì liệt kê khoảng 140.000 người chết.
Bộ sách giáo khoa lịch sử mới của Nhật Bản đã gây nên sự tức giận đối với người dân Trung
Quốc và nhiều nước Châu Á khác. Những vụ tấn công người Nhật, đập phá cửa hàng người
Nhật ở Trung Quốc từng liên tiếp xảy ra. Đại sứ quán Nhật Bản ở Bắc Kinh cũng bị ném chai
lọ, gạch đá. Phía Nhật Bản thì cho rằng, Trung Quốc luôn cố gắng thổi phồng những vấn đề
lịch sử và không nhất thiết phải đưa tất cả tội lỗi của Nhật Bản trong thời kì chiến tranh vào
sách giáo khoa vì nó không đem lại tác dụng giáo dục lòng tự tôn dân tộc cho học sinh Nhật
Bản. Vì vậy, Trung Quốc có lí do để hiểu rằng Nhật Bản chưa bao giờ nhìn nhận đúng đắn và
có thiện chí sửa chữa sai lầm của quá khứ.
Trong khi vấn đề sách giáo khoa lịch sử của Nhật Bản chưa được giải quyết thì việc trước đây
các nhà lãnh đạo Nhật Bản viếng thăm ngôi đền Yasukuni càng làm cho Trung Quốc và nhiều
nước Châu Á láng giềng thêm giận dữ. Đền Yasukuni là ngôi đền Thần đạo, nơi tưởng niệm
2,5 triệu người Nhật chết trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, trong đó có cả 14 lãnh đạo quân
phiệt đã bị xét xử là tội phạm chiến tranh loại A. Từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, đã có 3 vị

thủ tướng Nhật viếng thăm đền Yasukuni, đặc biệt là Thủ tướng J. Koijumi, nắm quyền từ
1998 – 2004, người có công vực dậy nền kinh tế Nhật sau khủng hoảng tài chính năm 1997.
Trong hai nhiệm kì của mình, ông Koijumi thường xuyên viếng thăm ngôi đền này. Trung
Quốc và nhiều nước Châu Á đã phản ứng dữ dội trước hành động đó và cho rằng việc này đã
phủ nhận quá khứ tội lỗi của Nhật Bản, xúc phạm tới tình cảm nhân dân họ. Phía Nhật Bản
luôn tuyên bố đây là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh của họ, đền Yasukuni là nơi thờ vong
linh những người Nhật tử nạn trong chiến tranh chứ không phải nơi thờ tội phạm chiến tranh.
Tất cả những điều này cho thấy, nhận thức về các vấn đề lịch sử của Nhật Bản đang đặt ra
nhiều vấn đề gây tranh cãi, là nguyên cớ để phía Trung Quốc cho rằng, Nhật Bản chưa thực sự
hối hận về những tội lỗi trong quá khứ.
2. Tâm lí nghi ngại lẫn nhau
Từ chỗ bất đồng về thái độ đối với lịch sử đã dẫn tới tâm lí nghi ngại lẫn nhau. Trung Quốc
cũng như nhiều nước Châu Á vẫn chưa thể nào quên được những tai hoạ mà chủ nghĩa quân
phiệt Nhật Bản đã gây ra cho mình. Sau cải cách Minh Trị, Nhật Bản hội nhập vào thế giới tư
bản và nhanh chóng vươn lên một cường quốc. Đối với nhiều nước Châu Á lúc bấy giờ, Nhật
Bản là tấm gương sáng để học tập. Đặc biệt, sau chiến thắng trước nước Nga Sa hoàng (1904
- 1905), người ta hy vọng có thể dựa vào “người anh cả da vàng” để chống lại chủ nghĩa tư
bản phương Tây. Nhưng mong ước đó nhanh chóng bị dập tắt bởi những hành động tàn bạo
của chủ nghĩa quân phiệt Nhật.
Trong thời kì Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật đưa ra chiêu bài xây dựng “khu vực thịnh
vượng chung Đại Đông Á” nhằm đặt các nước Châu Á vào vòng lệ thuộc. Chiến tranh thế
giới thứ hai là thất bại đầu tiên của Nhật trong việc thực hiện các tham vọng đế quốc của
mình. Nhật Bản bại trận, phải lệ thuộc vào Mỹ và mất hết ảnh hưởng ở Châu Á.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật tập trung phát triển kinh tế và nhanh chóng trở thành
cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau Mỹ). Từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản


đang ra sức tìm kiếm một vai trò chính trị mới lớn hơn cho tương xứng với sức mạnh kinh tế tài chính của mình. Hiện nay, Nhật đóng góp 20% ngân sách của Liên Hợp Quốc nhưng lại
không có quyền quyết định đối với những vấn đề an ninh chính trị toàn cầu. Mục tiêu mà
Nhật đang theo đuổi là thúc đẩy nhanh quá trình tải tổ Liên Hợp Quốc và tìm kiếm sự ủng hộ

của cộng đồng quốc tế cho vị trí thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc.
Nhưng những dấu ấn của quá khứ cộng với những hành động thể hiện rõ tham vọng chính trị
hiện nay của Nhật đã làm cho Trung Quốc lo ngại về sự phục hồi chủ nghĩa quân phiệt. Trong
cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991, Nhật Bản lần đầu tiên kể từ khi Chiến
tranh Thế giới thứ hai kết thúc đã gửi quân đội của mình ra nước ngoài, mặc dù chỉ làm các
nhiệm vụ hoà bình như cứu hộ, vớt mìn trên biển… Sau sự kiện 11/9/2001, Nhật cũng gửi
quân đội đến Afganistan. Năm 2003, trong cuộc chiến vùng Vịnh lần hai, Nhật cũng gửi quân
đội đến Iraq. Đặc biệt, từ tháng 1/2007, Nhật đã tiến gần đến việc sửa đổi Điều 9 trong Hiến
pháp hoà bình 1946 khi chính thức đổi tên “Cục Phòng vệ” thành Bộ Quốc phòng, cho phép
triển khai quân đội và những hành động quân sự bên ngoài lãnh thổ Nhật Bản. Chắc chắn,
Trung Quốc chưa bao giờ cảm thấy yên tâm khi ở bên “người láng giềng” giàu mạnh và đầy
tham vọng.
Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn còn chưa hết bất an khi Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật vẫn còn
hiệu lực. Hiệp ước này được sửa đổi năm 1997 đã xác định phạm vi bảo vệ là “những khu vực
xung quanh Nhật Bản”, hàm ý bao gồm cả Đài Loan - vấn đề luôn làm Trung Quốc đau đầu.
Việc Nhật Bản vẫn dựa vào “chiếc ô hạt nhân” của Mỹ luôn làm cho Trung Quốc phải cảnh
giác.
Ngược lại, Nhật Bản cũng cảm thấy mối lo ngại từ Trung Quốc ngày càng tăng. Công cuộc
cải cách của Trung Quốc đã và đang đạt được những thành quả to lớn. Từ 1978 – 2001, GDP
bình quân của Trung Quốc mỗi năm tăng 9,4%. Năm 2000, GDP của Trung Quốc đã vượt qua
mức 1000 tỷ USD, tổng sản lượng kinh tế năm 2001 đã vươn lên đứng hàng thứ 6 thế giới.
Đến tháng 12/2007, theo đánh giá mới của WB dựa trên sức mua tương đương (PPP), Trung
Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới sau Mỹ. Trung Quốc đang là đối thủ cạnh
tranh gay gắt với Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực kinh tế.
Đồng thời, Trung Quốc là một trong năm nước thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp
Quốc, có tiếng nói quyết định đối với các vấn đề chính trị thế giới. Trung Quốc là cường quốc
hạt nhân hàng đầu ở Châu Á, có lực lượng quân đội thường trực đông gấp 10 lần quân đội
Nhật Bản. Ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc liên tục tăng. Hiện nay, Trung
Quốc đang theo đuổi một chương trình hiện đại hoá quân đội một cách toàn diện với mục tiêu
xây dựng một lực lượng có thể triển khai nhanh ở bất cứ đâu trong khu vực Châu Á – Thái

Bình Dương. Trung Quốc đã thể hiện rõ tham vọng lãnh thổ của mình ở vùng biển Đông và
các đảo tranh chấp với Nhật. Mối lo ngại của Nhật Bản về sức mạnh quân sự của Trung Quốc
là hoàn toàn có cơ sở. Những người theo dân tộc chủ nghĩa ở Nhật Bản lo ngại rằng Trung
Quốc là nhân tố gây bất ổn định ở Đông Bắc Á, nhất là khi quan hệ hai nước vẫn còn nhiều
bất đồng, tranh chấp. Điều đó đã cho thấy, tâm lí nghi ngại lẫn nhau đang là vấn đề cản trở sự
phát triển quan hệ hai nước Nhật Bản – Trung Quốc.
3. Tranh chấp lãnh thổ
Tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật Bản và Trung Quốc không chỉ xuất phát từ lợi ích quốc gia mà
còn liên quan đến những vấn đề lịch sử. Cho nên, nó càng làm cho bất đồng giữa hai bên thêm
sâu sắc.


Về tranh chấp lãnh thổ, Nhật Bản và Trung Quốc đều khẳng định chủ quyền của mình đối với
quần đảo Senkaku (theo tên gọi của Nhật Bản) hay là Điếu Ngư (theo tên gọi của Trung
Quốc). Đây là quần đảo gồm 8 hòn đảo không có cư dân sinh sống nhưng được xác định là có
trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí đốt. Nhật Bản đã đưa ra đường ranh giới để tách biệt khu vực
kinh tế riêng biệt dài 200 hải lý giữa hai nước và luôn coi Senkaku là dãy đảo thuộc về tỉnh
Okinawa của Nhật. Trung Quốc cho rằng, toàn bộ thềm lục địa biển phía đông của Trung
Quốc, mở rộng ra phía đông gần như toàn bộ tuyến đường ranh giới tới vùng cực nam mà
người Nhật đang sinh sống trên đảo Okinawa, “được kéo dài tự nhiên” bao gồm cả quần đảo
Điếu Ngư là thuộc Đài Loan và do vậy nó thuộc về Trung Quốc. Hiện nay, do nhu cầu năng
lượng của cả hai nước ngày càng tăng nên việc tranh chấp để khẳng định chủ quyền đối với
dãy đảo này càng thêm quyết liệt. Đối với Trung Quốc, nhượng bộ đối với vấn đề Điếu Ngư
sẽ liên quan tới vấn đề độc lập của Đài Loan và vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường
Sa ở biển Đông. Còn với Nhật, bất cứ nhượng bộ nào trong vấn đề Senkaku cũng sẽ dẫn tới
những khó khăn khi đòi lại những đảo ở miền Nam Sakhalin. Dù hai nước đều nỗ lực và hứa
hẹn sẽ “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” nhưng mâu thuẫn về vấn đề lãnh thổ vẫn là
điều khó vượt qua.
Tóm lại, trên đây là những vấn đề đang và sẽ tiếp tục cản trở bước phát triển trong quan hệ
Nhật – Trung từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Quan hệ Nhật – Trung căng thẳng sẽ có ảnh

hưởng lớn tới hoà bình, an ninh ở Đông Á cũng như triển vọng thành lập cộng đồng Đông Á.
Do vậy, cả hai nước phải thật sự nhìn thẳng vào các vấn đề lịch sử, hết sức nỗ lực để giải
quyết những bất đồng và cùng đóng góp xây dựng một khu vực Đông Á hoà bình, thịnh
vượng.
QUAN HỆ NHẬT BẢN – ĐÔNG Á
Quan điểm và chính sách của Nhật Bản đối với tiến trình liên kết ở Đông Á
(LLCT) - Quan điểm của Nhật Bản về tiến trình liên kết Đông Á đã được tượng hình rất
sớm, từ chính sách Đông Nam Á trong Học thuyết Fukuda (1977) đến ý tưởng xây dựng
Cộng đồng Đông Á trong quan điểm Hatoyama (2009). Mặc dù chính trường Nhật Bản
có nhiều thay đổi, song qua từng thời kỳ, với những đời thủ tướng khác nhau, Nhật Bản
vẫn luôn thể hiện sự quan tâm lớn tới tình hình khu vực thông qua đường lối, chính sách
đối ngoại sắc sảo của các đảng cầm quyền. Bằng những hành động thiết thực, Nhật Bản
đã có những đóng góp to lớn trong việc thúc đẩy hợp tác các nước trong khu vực Đông
Á, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng Đông Á của Thủ tướng
Hatoyama.
1. Sự điều chỉnh chiến lược hướng về châu Á của Nhật Bản những năm đầu thập kỷ
90
Những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ quốc tế có nhiều
thay đổi, nền ngoại giao Nhật Bản đứng trước những vận hội và thách thức mới. Sức mạnh
của Mỹ giảm sút cùng với sự nổi lên của Trung Quốc tạo nên những áp lực lớn từ nhiều phía
đối với Nhật Bản, đòi hỏi nước này phải điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại và thể
hiện tích cực hơn vai trò, trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu và khu vực.
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản với châu Á dưới thời Thủ tướng Toshiki Kaifu (1989 1991) cũng kiên định mục tiêu: Cam kết không trở thành cường quốc quân sự; đóng góp tích
cực hơn trong các vấn đề chính trị châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD); tham gia giải quyết
vấn đề Campuchia;tăng cường hợp tác khu vực thông qua đầu tư chuyển giao công nghệ,
chương trình viện trợ chính thức ODA, đóng vai trò thúc đẩy hợp tác để các nước ASEAN và


Đông Dương cùng phát triển. Nhật Bản tham gia ngày càng tích cực hơn, sâu hơn vào các vấn
đề của khu vực, cả về kinh tế và chính trị. Phát biểu của Thủ tướng Kaifu có đoạn: “Tôi nhận

thấy Nhật Bản được trông chờ đóng góp lớn hơn ở khu vực CA-TBD, không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà còn cả trong lĩnh vực chính trị”(1).
Sau khi Hiệp định hòa bình về Campuchiađược ký kết, Nhật Bản đã vận động chính quyền
Mỹ thay đổi chính sách đối với Việt Nam. Thậm chí, nước này còn mạnh dạn quyết định nối
lại viện trợ ODA cho Việt Nam trong khi Mỹ vẫn chưa dỡ bỏ lệnh cấm vận. Những nỗ lực
trên của Nhật Bản đã tạo ra ảnh hướng tốt đẹp, góp phần cải thiện các mối quan hệ tại khu
vực, tạo lập một môi trường hòa bình ở Đông Nam Á (ĐNA).
Trước những thuận lợi trong nỗ lực can dự vào nền an ninh - chính trị ĐNA, tháng 1-1993,
trong chuyến viếng thăm chính thức các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Kiichi Miyazawa
(1991-1993) đã công bố chính sách đối ngoại của Nhật Bản với ĐNA, chủ yếu tập trung vào
hợp tác chính trị - an ninh, với nội dung: Thứ nhất, Nhật Bản nhắc lại cam kết không trở
thành “cường quốc quân sự”, đồng thời chủ trương cùng các nước khu vực ĐNA đoàn kết,
thiết lập trật tự an ninh và bảo vệ ổn định tình hình khu vực. Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp
tác, phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN để tái thiết bán đảo Đông Dương, xác định diễn
đàn phát triển toàn diện Đông Dương(2).
Như vậy, ngoài quan hệ kinh tế truyền thống, Nhật Bản đã trực tiếp đề cập đến hợp tác
trong lĩnh vực chính trị - an ninh với các quốc gia ASEAN, đồng thời mở rộng ảnh
hưởng của Nhật Bản sang các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Cũng với chính sách
đối ngoại đổi mới này, Nhật Bản đã hiện thực hóa được mục tiêu quan trọng được đề xuất
trong Học thuyết Fukuda, đó là tăng cường vai trò “cầu nối” của Nhật Bản giữa Đông Dương
và các nước ASEAN. Kiên trì quan điểm “Chính trị, kinh tế song hành” được hình thành từ
Học thuyết Fukuda, ý tưởng “Thoát Âu, nhập Á” ngày càng rõ nét trong đường lối đối ngoại
của Nhật Bản. Các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước này tại khu vực Đông Á nói riêng và
CA -TBD nói chung cũng đã được tăng cường đáng kể trong những năm 1990.
2. Những nét mới trong quan điểm, chính sách của Nhật Bản về tiến trình hợp tác Đông Á từ
cuối những năm 90 (thế kỷ XX) đến nay
Kế tiếp những bước phát triển của người tiền nhiệm, Thủ tướng Ryutaro Hashimoto (1996 1998) đã thực hiện chuyến công du sang các nước ASEAN vào tháng 1-1997, với mục đích
chính thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ ngoại giao ASEAN - Nhật Bản và đề xuất tổ chức các
cuộc họp cấp cao thường xuyên giữa hai bên. Cũng trong chuyến thăm này, Nhật Bản công bố
“Học thuyết Hashimoto” được coi là có tầm quan trọng ngang với “Học thuyết Fukuda” trong

mục tiêu tăng cường và mở rộng hơn mối quan hệ hợp tác với các nước ASEAN trên tất cả
các lĩnh vực. Trong đó, nổi bật là “Ba sáng kiến hợp tác Nhật Bản - ASEAN tiến tới thế kỷ
XXI”: 1) Tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và ASEAN, trong đó
lĩnh vực ổn định tiền tệ - tài chính, cải cách cơ cấu kinh tế được đặc biệt chú trọng. Tăng
cường các cuộc đối thoại giữa hai bên về các lĩnh vực kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tài chính thông
qua cuộc họp thường niên các cấp; 2) Kêu gọi Nhật Bản và ASEAN tăng cường hợp tác trên 3
mặt đối thoại cấp cao; tích cực trao đổi văn hóa và giải quyết hiệu quả các vấn đề toàn cầu; 3)
Kiến nghị nâng cấp quan hệ Nhật Bản - ASEAN từ đối thoại cấp bộ trưởng lên hội nghị cấp
cao định kỳ, chính thức hoặc không chính thức, thể hiện một đường lối ngoại giao “kế thừa
chính sách ngoại giao trước đây, phát triển hơn nữa quan hệ với các nước trong khu vực ĐNA
trên nền tảng quan điểm Học thuyết Fukuda”(3).
Qua đó, học thuyết Hashimoto thể hiện hai đặc điểm nổi bật: một là, đây là lần đầu tiên Nhật
Bản không nhắc tới sự hối hận đối với tội ác xâm lược trong lịch sử và cam kết “không làm


cường quốc quân sự” của mình; hai là, học thuyết đánh giá cao vai trò của ASEAN như là
một đối tác bình đẳng với Nhật Bản, chuyển từ “quan hệ viện trợ là chính” sang “quan hệ hợp
tác bình đẳng” giữa hai bên. Với mục tiêu “biến kỷ nguyên mới của Nhật Bản và ASEAN
thành quan hệ đối tác rộng rãi và mật thiết hơn”, học thuyết Hashimoto ra đời thể hiện quyết
tâm của Nhật Bản nhằm nắm giữ một vai trò chính trị lớn hơn ở khu vực thông qua việc tăng
cường đối thoại với các quốc gia ĐNA.
Tiếp theo học thuyết Hashimoto, mối quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN tiếp tục được củng
cố dưới thời Thủ tướng Keizo Obuchi (1998 - 2000). Kế hoạch Obuchi đã hiện thực hóa một
bước học thuyết Hashimoto với việc đặt ra những mục tiêu cụ thể phát triển nguồn nhân lực
nhằm tăng cường vai trò và ảnh hưởng của Nhật Bản trong việc phục hồi kinh tế của các nước
ĐNA còn kém phát triển. Kế hoạch Obuchi chuyển dịch trọng tâm trợ giúp của Tokyo, từ trợ
giúp tài chính khẩn cấp sang hỗ trợ công cuộc phục hồi và phát triển dài hạn các nền kinh tế
này.
Trong vòng 5 năm kể từ khi lên nắm chính quyền (2001), Thủ tướng Junichiro Koizumi đã
thực hiện 7 chuyến viếng thăm đến các quốc gia ĐNA; cùng với các nguyên thủ ASEAN tiến

hành 8 cuộc hội đàm. Tháng 1-2002, trong chuyến viếng thăm các nước ĐNA, ông đã có bài
diễn thuyết quan trọng với tiêu đề “Nhật Bản và ASEAN của Đông Á: Quan hệ đối tác cởi mở
và thẳng thắn, trên cơ sở đối tác bình đẳng và tin tưởng lẫn nhau”. Tuyên bố này có thể được
coi là cơ sở của “Học thuyết Koizumi” trong hệ thống chính sách đối ngoại Nhật Bản, đặt nền
tảng mới cho sự phát triển mối quan hệ truyền thống Nhật Bản - ASEAN trong thế kỷ XXI.
Trên cơ sở “đối tác bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau”, đồng thời đưa ra khái niệm mới “Nhật Bản
và ASEAN cùng tiến”. Học thuyết Koizumi được cụ thể hóa qua 4 nội dung chính: 1) Nhật
Bản ủng hộ ASEAN cải cách trên các lĩnh vực chính trị, luật pháp, cơ cấu kinh tế và tài chính;
tăng cường hợp tác khai thác khu vực sông Mêkông, công nghệ thông tin và các ngành nghề
liên quan; 2) Nhật Bản tích cực hợp tác với các nước ASEAN trong mục tiêu xóa bỏ đói
nghèo, phòng ngừa phát sinh xung đột, thúc đẩy xây dựng cơ chế an ninh khu vực, tăng
cường tìm kiếm sự ủng hộ trong cuộc chạy đua vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; 3) Nhật
Bản đưa ra 5 ý tưởng cho mối quan hệ hợp tác Nhật Bản - ASEAN trong tương lai, bao gồm:
hợp tác giáo dục và phát triển nguồn nhân lực; lấy năm 2003 là năm giao lưu Nhật Bản ASEAN; tăng cường hợp tác kinh tế toàn diện; triệu tập Hội nghị Phát triển quốc tế Đông Á
(IDEA) và tăng cường hợp tác an ninh; 4) Chính phủ của Thủ tướng Koizumi đặc biệt thể
hiện sự quan tâm đến tiến trình liên kết khu vực Đông Á thông qua việc đề ra ý tưởng xây
dựng “Một cộng đồng Đông Á cùng nhau hành động và cùng nhau phát triển”. Theo ông:
“Quá khứ của chúng ta có thể khác nhau nhưng tương lai của chúng ta có thể thống nhất và hỗ
trợ cho nhau”, vì vậy “cần phải mở rộng Hợp tác Đông Á dựa trên quan hệ Nhật Bản ASEAN” trong đó “bước đầu tiên là phải tranh thủ tối đa khuôn khổ ASEAN+3”(4).
Báo chí Nhật Bản từng nhận định, chính quyền của cựu Thủ tướng Junichiro Koizumi chưa
thực sự thành công với “Ngoại giao châu Á”, còn những nỗ lực của chính quyền Shinzo Abe
chỉ dừng ở mức đưa quan hệ với các nước châu Á trở về điểm xuất phát. Tờ Nihon Keizai cho
rằng, nội các mới của Thủ tướng Yasuo Fukuda (2007-2008) và nhất là bản thân ông có thể
tạo ra một bầu không khí tích cực hơn trong quan hệ giữa châu Á và Nhật Bản. Kế thừa quan
điểm của Học thuyết Fukuda “cha” (1977), tại Hội nghị “Tương lai châu Á” lần thứ 14 tổ
chức tại Tokyo vào tháng 5-2008, Thủ tướng Fukuda đã cho thấy những hướng ưu tiên trong
chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với ĐNA: Trước hết, Nhật Bản tiếp tục duy trì Hiệp
ước an ninh Nhật - Mỹ. Hai là, Nhật Bản mong muốn tăng cường hợp tác với ASEAN trên
các lĩnh vực kinh tế, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tăng cường
nỗ lực đảm bảo an ninh lương thực, “hợp tác đối phó thảm họa". Ba là, với mục tiêu thúc đẩy

việc thành lập Cộng đồng Đông Á, đẩy mạnh hợp tác với các nước ĐNA, Nhật Bản ủng hộ
mạnh mẽ những nỗ


lực của ASEAN nhằm thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Bốn là, đưa Nhật Bản trở
thành quốc gia thúc đẩy hòa bình; hình thành và củng cố cơ sở hạ tầng cho việc hợp tác tri
thức và giáo dục; đấu tranh với những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu và bệnh lây
nhiễm, tăng cường giao lưu con người trong khu vực CA-TBD.
Các nội dung chính trên được giới quan sát gọi là "Học thuyết Fukuda mới", là sự nối tiếp
"Học thuyết Fukuda". Tuy nhiên, không dừng lại ở việc kế thừa chính sách của cha mình, Thủ
tướng Y.Fukuda còn muốn mở rộng “Học thuyết Fukuda mới” ra các nước Đông Bắc Á với
khẳng định “Nhật Bản phải tìm kiếm quan hệ thâm tình không chỉ với các nước ĐNA mà cả
với Trung Quốc và Hàn Quốc”. Đặc biệt, độngthái tích cực nhất trong chính sách ngoại giao
châu Á của Thủ tướng Y.Fukuda là việc cải thiện mối quan hệ Trung - Nhật. Theo quan điểm
của ông, Cộng đồng Đông Á sẽ là một ý tưởng viển vông nếu không có sự hòa giải lịch sử
giữa Bắc Kinh và Tokyo. Và ông đã tạo ra ba sự thay đổi lớn: 1)Từ bỏ tính chất cực đoan
trong chính sách ngoại giao của ông Koizumi, thay đổi lời nói và hành động thăm đền
Yasukuni, xoá bỏ rào cản chính trị trong quan hệ Trung - Nhật; 2) Kiên định quan điểm đối
ngoại tiếp tục nỗ lực cải thiện quan hệ Trung - Nhật, dù là cải cách hay bảo thủ đều cần phải
duy trì quan hệ Trung - Nhật theo hướng ổn định, có kiểm soát; 3)Xây dựng một “Nội các hữu
nghị Trung - Nhật”: thái độ phần lớn đều ôn hoà, có chừng mực, mong muốn tăng cường tình
hữu nghị Trung -Nhật, không hài lòng với chính sách ngoại giao mất cân bằng của Koizumi.
Với Học thuyết Fukuda mới, quan hệ giữa Nhật Bản và các nước Đông Bắc Á, đặc biệt là
Trung Quốc, đang ngày càng ấm dần lên. Thực hiện mục tiêu cải thiện quan hệ với Đông Bắc
Á, tiếp tục duy trì và thúc đẩy mối quan hệ truyền thống với các nước ASEAN, Học thuyết
Fukuda mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thành công của tiến trình liên kết Đông Á.
Từ khi Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) của Thủ tướng Yukio Hatoyama (2009 - 2010) lên nắm
quyền, kết thúc 54 năm cầm quyền liên tục của Đảng Dân chủ Tự do (LDP), chính sách đối
ngoại của Nhật Bản có thêm nhiều điểm mới. Cương lĩnh tranh cử của DPJ khẳng định sẽ
theo đuổi "chính sách đối ngoại chủ động”. Mục tiêu trong chiến lược của Nhật ở CA-TBD là

thông qua những hành động ngoại giao một cách tích cực, linh hoạt và có hiệu quả nhằm tạo
ra môi trường kinh tế - chính trị thuận lợi ở khu vực. Coi đó là cơ sở để Nhật Bản hiện thực
hóa mục tiêu trở thành một cường quốc toàn diện, không chỉ phát triển về kinh tế mà còn
vững mạnh về chính trị. Mục tiêu của DPJ được cụ thể thành những điểm sau: 1) DPJ sẽ xây
dựng quan hệ đồng minh "gần gũi và bình đẳng" giữa Nhật Bản và Mỹ; 2) Củng cố các cơ chế
hợp tác trong khu vực CA-TBD hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng Đông Á; 3) Coi
Trung Quốc là đối tượng ngoại giao quan trọng, thường xuyên điều chỉnh chính sách đối
ngoại và giành thế chủ động trong quan hệ ngoại giao với nước này; 4) Coi đối tượng phòng
thủ ở khu vực Đông Bắc Á là Nga và Bắc Triều Tiên. Thực hiện chính sách vừa cảnh giác,
vừa cải thiện quan hệ với các nước này; 5) Coi ĐNA là khu vực chiến lược quan trọng cần
được ra sức mở rộng các quan hệ một cách toàn diện cả về kinh tế, chính trị và an ninh; 6)
Đóng vai trò tích cực trong các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; tự do hóa
thương mại và đầu tư; chống biến đổi khí hậu; đi đầu trong việc loại trừ vũ khí hạt nhân và
hiểm họa khủng bố.
Như vậy, xu hướng quan trọng trong chính sách đối ngoại dưới thời Chính phủ Hatoyama có
thể khái quát thành 3 điểm lớn: một là, tiếp tục tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ; hai là,
cải thiện quan hệ với Trung Quốc; ba là, coi trọng hợp tác khu vực. Đối với châu Á nói
chung: Nội dung cốt lõi trong chiến lược ngoại giao của Chính phủ Hatoyama là mở rộng đối
thoại chiến lược an ninh đa phương, thông qua đó xây dựng quan hệ cân bằng giữa đồng minh
Nhật - Mỹ và ngoại giao châu Á, tạo bước đột phá để trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc. Đối với các nước ASEAN, Nhật Bản luôn xác định đây là đối tác kinh
tế, chính trị truyền thống quan trọng trong mục tiêu thực hiện hiệu quả tiến trình liên kết Đông


Á. Riêng đối với Việt Nam, về cơ bản, Chính phủ của Thủ tướng Hatoyama sẽ không thay đổi
chính sách đối ngoại vì Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chính trị mang tính chiến lược ở khu
vực ĐNA nói chung và Đông Á nói riêng.
Quan điểm “Xây dựng Cộng đồng Đông Á - EAC”:Sau khi đắc cử, Chính phủ của Thủ tướng
Hatoyama đẩy nhanh việc thành lập Cộng đồng Đông Á dựa trên mô hình Liên minh châu
Âu, theo đúng chủ trương của đảng Dân chủ Nhật Bản là giảm phụ thuộc vào Mỹ và tăng

cường hợp tác trong khu vực.Có thể thấy, ý tưởng EAC là tâm điểm trong nền ngoại giao
châu Á của Chính phủ mới do Đảng Dân chủ Nhật Bản lãnh đạo, nó được thai nghén từ lâu
trong DPJ. Việc Nhật Bản khởi xướng ý tưởng thành lập Cộng đồng Đông Á không phải là
điều quá ngạc nhiên. Trong kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, với sự thay đổi về địa chính trị,
điều kiện kinh tế ở Đông Á, sụt giảm quyền lực của Mỹ, sự trỗi dậy của châu Á, Nhật Bản
hơn bao giờ hết muốn thúc đẩy vị thế và lợi ích của mình ở khu vực này.
Ngày 4-6-2010, Hạ viện Nhật Bản đã nhất trí bầu ông Naoto Kan làm thủ Tướng.Về mặt
đường lối, nhất là về chính sách đối ngoại, chính phủ mới do Thủ tướng Naoto Kan sẽ tiếp tục
thực hiện chính sách của cựu Thủ tướng Hatoyama. Ngay sau khi được bầu làm thủ tướng,
trong cuộc điện đàm chính thức đầu tiên với Tổng thống Mỹ Barack Obama, Thủ tướng
Naoto Kan đã nhấn mạnh rằng “Liên minh Mỹ - Nhật sẽ là một trọng tâm trong chính sách
ngoại giao của Nhật Bản”. Hai bên tái khẳng định quan hệ song phương, nhất trí thực thi thỏa
thuận về vấn đề tái bố trí căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa đã đạt được với nội các của ông
Yukio Hatoyama cũng như cam kết hợp tác trong các vấn đề khu vực và thế giới. Mặc dù
nhấn mạnh rằng nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản là quan hệ đồng minh với
Mỹ, nhưng Thủ tướng Kan cũng không quên các lợi ích thương mại với Trung Quốc. Ông
Kan cũng khẳng định sẽ tiếp tục theo đuổi mục tiêu thành lập Cộng đồng Đông Á theo quan
điểm của Thủ tướng tiền nhiệm Hatoyama. Các nhà nghiên cứu nhận định, Nhật Bản đang có
một nội các trẻ hơn và đầy nhiệt huyết với công việc. Người Nhật hy vọng chính phủ mới sẽ
vượt qua những sóng gió để đưa đất nước “mặt trời mọc” tiếp tục phát triển và thực hiện giấc
mơ cường quốc hàng đầu khu vực.
Như vậy, quan điểm của Nhật Bản về tiến trình liên kết Đông Á đã được tượng hình rất sớm,
từ chính sách ĐNA trong Học thuyết Fukuda (1977) đến ý tưởng xây dựng Cộng đồng Đông
Á trong quan điểm Hatoyama (2009). Mặc dù chính trường Nhật Bản có nhiều thay đổi, song
qua từng thời kỳ, với những đời thủ tướng khác nhau, Nhật Bản vẫn luôn thể hiện sự quan
tâm lớn tới tình hình khu vực thông qua đường lối, chính sách đối ngoại sắc sảo của các đảng
cầm quyền. Bằng những hành động thiết thực, Nhật Bản đã có những đóng góp to lớn trong
việc thúc đẩy hợp tác các nước trong khu vực Đông Á, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây
dựng Cộng đồng Đông Á của Thủ tướng Hatoyama.




×