Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài tập môn Luật hôn nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.1 KB, 15 trang )

A

Đặt vấn đề.

Trong quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng có vai trò hết sức quan trọng.
Quan hệ hôn nhân mà nam nữ hướng tới xác lập mang tính chất bền vững và lâu
dài. Vợ chồng chung sống với nhau suốt đời, thực hiện nghĩa vụ sinh đẻ, giáo dục,
chăm sóc và nuôi dưỡng các con vì quyền lợi gia đình và lợi ích xã hội. Chi phối
đời sống của vợ chồng là tình cảm gia đình, sự yêu thương, gắn bó, chăm sóc lẫn
nhau giữa vợ và chồng.Bên cạnh đó cũng không thể không quan tâm tới đời sống
vật chất, tiền bạc, tài sản của vợ chồng. Tính chất của quan hệ vợ chồng trong cuộc
sống chung của vợ chồng đòi hỏi phải xác lập các khối tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung đó là cơ sở kinh tế của gia đình, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện các chức năng xã hội của nó. Trong thực tế
khi xảy ra các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng và việc giải quyết các tranh
chấp đó có loại tài sản rất khó xác định đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung.
Vậy nên cần có các cơ sở pháp lý để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng để đảm bảo cho sự công bằng vì lợi ích chung của gia đình và giữa vợ và
chồng khi xảy ra các tranh chấp mà cần đến sự can thiệp của Toà án.
B. Nội dung.
I

Khái niệm
1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng.
Căn cứ vào Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ
chồng được hiểu rằng :
“ Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và nhữung tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung




của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng thoả thuận. Tài sản chung
của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Theo quy định này, thì cơ sở pháp lý quan trọng nhất khi xác định tài sản
chung của vợ chồng và để trong thực tế áp dụng khi Toà án giải quyết các tranh
chấp về tài sản chung của vợ chồng với nhau và với người khác là theo Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000. Bên cạnh đó cơ sở pháp lý thứ hai là các quy định
trong Luật dân sự liên quan đến vấn đề sở hữu. Và trong phạm vi điều chỉnh của
mình thì quy định trong Luật hiến pháp cũng là một cơ sở không thể thiếu.
2. Khái niệm tài sản riêng.
Luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ, chồng có quyền có tài sản
riêng. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng là những tài sản mà vợ hoặc chồng có
trước thời kì kết hôn, tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế, tặng cho
riêng
trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ hoặc chồng chia từ khối tài sản chung của
vợ chồng trong thời kì hôn nhân và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản,
đồ dùng, tư trang cá nhân. Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của
Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung.”
Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là
phù hợp với chế định quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân đã được hiếp



pháp thừa nhận. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì vợ hoặc chồng có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
người
kia.(Khoản 1 Điều 33). Vợ, chồng tự quản lí tài sản riêng của mình, trong trường
hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ
quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó (khoản 2,
Điều 33). Và nghĩa vụ về tài sản riêng của mỗi người được thanh toán từ tài sản
riêng của người đó(khoản 3 điều 33).
Nhưng trong việc sử dụng tài sản riêng, Luật hôn nhân và gia đình quy định
vợ, chồng có quyền sử dụng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, trong thời kì hôn
nhân có những trường hợp xảy ra thì việc định đoạt tài sản riêng sẽ bị hạn chế.
II- Các cơ sở pháp lý để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng.
1. Các cơ sở pháp lý để xác định tài sản chung
1. 1 Căn cứ vào quy định của hiến pháp năm 1992(đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị quyết 51/2001/QH10).
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước quy định những vấn đề cơ bản
và quan trọng của nhà nước. Từ những quy định đó là cơ sở cho việc ban hành các
văn bản pháp luật khác (Luật và văn bản dưới luật). Nghĩa là các quy phạm pháp
luật hiến pháp chỉ quy định một cách chung nhất, trên cơ sở đó các ngành luật khác
sẽ cụ thể trong từng trường hợp xác định. Liên quan tới việc xác định tài sản chung
của vợ chồng Điều 58 hiến pháp 1992 có quy định về chế độ tài sản giữa vợ và
chồng trong phạm vi quyền sở hữu của công dân là : “Công dân có quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tự liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
vốn và tài sản trong doanh nghiệp và trong các tổ chức kinh tế khác”.


Theo đó khi công dân có quyền sở hữu các tài sản thì các tài sản đó được
công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ chồng cũng là những cá nhân và họ
đương nhiên có quyền đó. Khi có quyền sở hữu tài sản thì mới có thể tạo lập nên

khối tài sản dù là tài sản chung hay riêng của cá nhân trong xã hội.
1.2. Căn cứ vào bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
Luật dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoátiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi
tham gia các quan hệ đó. Luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình cùng chung
một đối tượng điều chỉnh đó là nhóm quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ
hôn nhân và gia đình. Theo đó. Bộ luật dân sự 2005 có một số quy định cụ thể về
vấn đề sở hữu, chiếm hữu, định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các quy định được
nêu nhằm xác định các trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng. Các quy
định cụ thể đối với các trường hợp xác định tài sản chung của vợ chồng được quy
định tại các Điều 219. 245, 631, 686 và các quy định xác lập quyền sở hữu thuộc
trong các Điều 239, 240, 241, 242, 243, 244…của bộ luật dân sự 2005. Đặc biệt
Điều 219 BLDS 2005 có quy định : “ sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung
hợp nhất. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung. Vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng có thể
phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án”.

1.3. Căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình được xem là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xác
định tài sản chung của vợ chồng và các quy phạm của nó được áp dụng chủ yếu


trong điều chỉnh quan hệ vợ chồng liên quan tới tài sản chung của vợ chồng khi
xảy ra tranh chấp. Tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã bước đầu
xác lập sự bình đẳng trong việc hợp nhất tài sản chung của vợ chồng. Chế độ tài
sản chung của vợ chồng theo đó là chế độ sở hữu chung mọi tài sản của vợ chồng
không phân biệt nguồn gốc có trước hay sau khi cưới đều thuộc sở hữu chung và
vợ chồng có nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Điều 14 Luật hôn nhân và

gia đình năm 1986 quy định “ Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc
chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung”.
Kế thừa và phát triển quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 về
tài sản chung và quyền của vợ chồng đối với tài sản chung (Điều 14, 15), Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu về căn cứ, nguồn gốc và thành phần các loại
tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. Các quy định của Luật hôn nhân và
gia đình năm 2002 về vấn đề tài sản chung của vợ chồng đã tương đối cụ thể, dễ
vận dụng hơn nhiều so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Theo
điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 các nhà làm luật đã dựa vào “thời kỳ
hôn nhân” và nguồn gốc các loại tài sản để làm cơ sở xác định tài sản chung của vợ
chồng.
2.- Cơ sở pháp lí của quyết định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ
hoặc chồng
Trong thời kì hôn nhân, tuy luật hôn nhân và gia đình có quy định vợ chồng
có quyền định đoạt tài sản riêng của mình nhưng trong một số trường hợp quyền
này bị hạn chế như: vợ chồng chung sống mà tài sản chung của hai người không đủ
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống thì tài sản riêng của mỗi người có thể bắt
buộc phải đưa vào sử dụng; hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh khi sử dụng tài sản riêng


của vợ hoặc chồng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản
riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Việc hạn chế quyền định
đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng được quy định rõ tại khoản 4 và khoản 5 Điều
33 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
“4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết
yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử
dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.”

Theo khoản 4 điều 33 Luật hôn nhân gia đình năm 2000: tài sản riêng của vợ
hoặc chồng sẽ được sử dung dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong
trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Hơn nữa theo phong tục
Việt Nam, không có sự phân chia tài sản riêng của vợ chồng, trên thực tế trong
cuộc sống nhiều cặp vợ chồng tài sản riêng vẫn được đưa vào sử dụng
chung mà không cần hỏi ý kiến người kia. Và đặc biệt khoản 5 Điều 33 là một quy
định xuất phát từ thực tế nhằm đảm bảo cuộc sống gia đình ổn định. Mặc dù theo
luật định, vợ chồng có quyền có tài sản riêng, nhưng thực tế, cuộc sống chung của
vợ chồng thường không phân biệt các tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng,
và quy định trên nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống chung của vợ chồng,nghĩa vụ
chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Như vậy,
phù hợp với mục đích của hôn nhân xã hội chủ nghĩa, cũng là đảm bảo lợi ích
chung của cả xã hội, vì gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Sự tồn tại bền vững của gia đình là cơ sở tạo cho xã hội ổn định và phát triển.Nội
dung của điều khoản này không những đi từ thực tế hiện nay mà còn xuất phát từ


những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gia đình là tổ ấm, là nơi mà các thành viên
che chở, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau.
Vấn đề đặt ra là liệu khoản 5 điều 33 trong Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 có mâu thuẫn với quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng hay không?
Câu trả lời là quy định như vậy là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.Cuộc
sống chung giữa vợ chồng đòi hỏi sự gắn kết lâu dài, bền vững, hạnh phúc dựa trên
sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Trách nhiệm vun đắp, xây dựng hạnh phúc gia
đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nghĩa vụ nuôi dạy con cái thuộc về cả
hai vợ chồng. Khi những nhu cầu thiết yếu để duy trì cuộc sống gia đình không
thể được đáp ứng đủ bằng tài sản chung thì vợ, chồng có tài sản riêng
không thể bỏ mặc, không quan tâm. Họ cần phải sử dụng tài sản riêng của mình để
tạo ra nguồn thu nhập nhằm bảo đảm cho cuộc sống gia đình tồn tại và phát triển.
Sự thực là khi đem tài sản riêng của mình đưa vào để sử dụng chung cả hai bên đều

cho là đúng, hợp tình hợp lý không hề cần một giấy tờ ghi nhận nào cả, hai bên
coi đó như điều hiển nhiên, ta có thể coi đó là sự thỏa thuận ngầm.
Điều này hoàn toàn hợp lý cả về mặt đạo đức lẫn quy định pháp
luật, xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân .Những hoa lợi, lợi tức
thu được từ tài sản riêng khi đã được đưa vào sử dụng chung là nguồn sống
duy nhất của gia đình, có nghĩa là nếu “cắt bỏ” những hoa lợi, lợi tức đó thì
đồng nghĩa với việc cuộc sống chung của gia đình sẽ không thể tồn tại được.
Theo điều 4 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Hôn nhân gia đình
năm 2000 cũng đã nói rõ về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng thì sự thoả thuận của vợ chồng
cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng
hoặc phải có công chứng, chứng thực...). Có nghĩa là không ai có quyền đơn


phương định đoạt tài sản đó đây không phải là duy trì sở hữu cá nhân mà là cơ sở
để đảm bảo duy trì đời sống gia đình, là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm vợ chồng
với gia đình. Những tài sản đã chi dùng cho gia đình thì người có tài sản không có
quyền đòi lại nữa. Vì vậy, người vợ hoặc chồng có tài sản riêng đó cần phải suy
xét, cân nhắc vừa vì lợi ích riêng của mình vừa vì lợi ích chung của gia đình. Điều
này cũng có nghĩa rằng, khi vợ hoặc chồng định đoạt tài sản riêng của mình, thì
nhất thiết phải có sự thỏa thuận của người kia. Quy định này còn xuất phát từ cách
điểu chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình, đó là: các chủ thể khi thực hiện quyền
của mình phải xuất phát từ lợi ích của gia đình, tạo điều kiện để gia đình làm tốt
chức năng xã hội của nó.
III- Vai trò, ý nghĩa và giải pháp hoàn thiện của cơ sở pháp lý xác định tài
sản chung – riêng của vợ chồng.
1- Tài sản chung
Vai trò, ý nghĩa của việc xác định các cơ sở pháp lý xác định tài sản
chung của vợ chồng .



Quy định căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng
thực hiện sự dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ về tài sản. Đồng thời tạo điều
kiện khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm đối với gia đình mình, cùng sát cánh
xây dựng gia đình ấm cúng, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.



Việc phân định các cơ sở xác lập tài sản chung của vợ chồng còn nhằm xác định
các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng.
Vợ chồng là đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung của họ. Vì vậy, một bên vợ,
chồng không thể tự ý định đoạt tài sản chung nếu không có sự thoả thuận của bên
kia, đặc biệt liên quan đến những tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn như nhà
ở, quyền sử dụng đất…



Các cơ sở pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng là các cơ sở pháp lý giải
quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng với nhau hoặc với người khác trong


thực tế, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản cho các bên vợ, chồng hoặc
người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.

2- Một số giải pháp hoàn thiện các cơ sở pháp lý để xác định tài sản
chung của vợ chồng .
Tính cho tới này sau hai năm thực hiện và áp dụng theo Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 thì cũng có một số hạn chế do luật dự liệu chưa đầy đủ và cụ
thể : văn bản hướng dẫn áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên
quan tới tài sản chung vợ chồng mới chỉ có Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày

03/10/2001 của Chính phủ và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Bên cạnh đó có một số quy định
của hệ thống pháp luật được Nhà nước ban hành( Bộ luật dân sự, Luật đất đai..).
Trong quá trình thực tế giải quyết các vụ án liên quan tới tài sản chung của vợ
chồng đã phát sinh ra nhiều tình huống ngoài dự liệu của các nhà làm luật. Vì thế
cần có các giải pháp hoàn thiện các cơ sở pháp lý trong các trường hợp đó.
Ví dụ như đối với trường hợp vợ, chồng bị Toà án tuyên bố là đã chết mà
sau này vì một lý do nào đó họ trở về thì việc xác định tài sản chung của vợ chồng
rất phức tạp vì pháp luật chưa dân sự và hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta
chưa dự liệu về vấn đề này.
Trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng
đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và sau đó lại khôi phục chế độ tài sản
chung. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000(Điều 29, 30) không quy định rõ vấn
đề khôi phục tài sản chung của vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
theo Điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ cần dự
liệu các vấn đề sau: khôi phục tài sản chung của vợ chồng khi đã chia tài sản chung


hoặc khôi phục tài sản chung cần phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác nhận…
Một số ý kiến đưa ra nhằm khắc phục những vướng mắc khi thực hiện quyết định
hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng:Qua những phân tích ở
trên, chúng ta có thể thấy tuy rằng pháp luật đã quy định rất rõ ràng về việc hạn chế
quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng vẫn có nhiều vương mắc
khi thực hiện. Hệ thống phápluật Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên
vẫn không tránh khỏi hạn chế. Bởi lẽ cuộc sống là vô cùng đa dạng, phong phú và
cũng đầy rắc rối. Pháp luật có thể đề cập đến một vấn đề nhưng khó có thể tìm
thấy tất cả các khía cạnh của nó. Nhiều khi, khó có thể áp dụng một điều khoản
hoàn toàn giải quyết trường hợp nào đó. Vì vậy Quốc hội và các cơ quan chức

năng có thẩm quyền cần bám sát vào thực tế để tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ
sung, vươn tới một hệ thống chặc chẽ, hoàn thiện hơn.Cơ quan tư pháp là cơ quan
nhà nước duy nhất giải quyết các vụ việc pháp luật liên quan đến con người nhưng
không phải luôn luôn đúng. Có những trường hợp rắc rối đòi hỏi cả tình lẫn lý và
có những phán quyết nhầm lẫn. Những phán quyết này làm phương hại đến quyền
của chủ thể. Bởi vậy, trong khi xem xét, tòa án cần tìm hiểu, cân nhắc kĩ, tránh
những phán quyết đáng tiếc đưa ra.
Quy định rõ ràng “Hoa lợi lợi tức phát sinh trong thời kì hôn nhân từ tài sản
riêng là thuộc về tài sản riêng.Người sở hữu có toàn quyền quyết định với tài sản
đó” Trong trường hợp đó, lợi tức sinh ra được bắt buộc phải sử dụng vào
đời sống chung của gia đình dù có thuộc tài sản riêng. Đồng thời, cũng phải
quy định , có thể xét đến công lao đóng góp giữ gìn bảo vệ, hoặc góp phân phát
sinh hoa lợi lợi tức đó để không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại. Thứ hai,
có thể xem xét căn cứ về sự thỏa thuận của vợ chồng có thể bằng văn bản, nhưng
cũng có thể sự thỏa thuận đó được chứng kiến đảm bảo bởi 1 người thứ ba.Nhưng


để giải quyết những vướng mắc trước hết vẫn bắt nguồn từ bản thân mỗi người.
Mỗi cá nhân cần có cho mình một khối lượng tri thức nhất định về Luật, trong đó
có Luật Hôn nhân và gia đình. Để đưa nhân dân tới gần pháp luật hơn, cần nhiều
chương trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật hơn, đa dạng và phong phú hơn. Từ
đây giúp phần nào thay đổi hành vi của con người, con người biết tôn trọng bản
thân mình, phân định được quyền sở hữu và tài sản riêng trong thời kì hôn nhân.
Không chị tôn trọng mình, họ còn tôn trọng người khác. Điều 32, 33 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 rõ ràng đã bảo vệ quyền lợi cua người phụ nữ.
Vì trước kia, người vợ ly dị thường phải ra đi tay trắng. Đây là một thiệt thòi lớn
đối với công sức người vợ bỏ ra chăm sóc gia đình
2- Một số ý kiến đưa ra nhằm khắc phục những vướng mắc khi thực hiện quyết
định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng:
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy tuy rằng pháp luật đã quy

định rất rõ ràng về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng
nhưng vẫn có nhiều vương mắc khi thực hiện. Hệ thống phápluật Việt Nam ngày
càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi hạn chế. Bởi lẽ cuộc sống là
vô cùng đa dạng, phong phú và cũng đầy rắc rối. Pháp luật có thể đề cập đến một
vấn đề nhưng khó có thể tìm thấy tất cả các khía cạnh của nó. Nhiều khi, khó có
thể áp dụng một điều khoản hoàn toàn giải quyết trường hợp nào đó. Vì vậy Quốc
hội và các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần bám sát vào thực tế để tiếp tục
nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung, vươn tới một hệ thống chặc chẽ, hoàn thiện
hơn.Cơ quan tư pháp là cơ quan nhà nước duy nhất giải quyết các vụ việc pháp luật
liên quan đến con người nhưng không phải luôn luôn đúng. Có những trường hợp
rắc rối đòi hỏi cả tình lẫn lý và có những phán quyết nhầm lẫn. Những phán quyết
này làm phương hại đến quyền của chủ thể. Bởi vậy, trong khi xem xét, tòa án cần
tìm hiểu, cân nhắc kĩ, tránh những phán quyết đáng tiếc đưa ra.


Quy định rõ ràng “Hoa lợi lợi tức phát sinh trong thời kì hôn nhân từ tài sản
riêng là thuộc về tài sản riêng.Người sở hữu có toàn quyền quyết định với tài sản
đó” Trong trường hợp đó, lợi tức sinh ra được bắt buộc phải sử dụng vào
đời sống chung của gia đình dù có thuộc tài sản riêng. Đồng thời, cũng phải
quy định , có thể xét đến công lao đóng góp giữ gìn bảo vệ, hoặc góp phân phát
sinh hoa lợi lợi tức đó để không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại. Thứ hai,
có thể xem xét căn cứ về sự thỏa thuận của vợ chồng có thể bằng văn bản, nhưng
cũng có thể sự thỏa thuận đó được chứng kiến đảm bảo bởi 1 người thứ ba.
Nhưng để giải quyết những vướng mắc trước hết vẫn bắt nguồn từ bản thân
mỗi người. Mỗi cá nhân cần có cho mình một khối lượng tri thức nhất định về
Luật, trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình. Để đưa nhân dân tới gần pháp luật
hơn, cần nhiều chương trình

tuyên truyền, giáo dục pháp luật hơn, đa dạng và


phong phú hơn. Từ đây giúp phần nào thay đổi hành vi của con người, con người
biết tôn trọng bản thân mình, phân định được quyền sở hữu và tài sản riêng trong
thời kì hôn nhân. Không chị tôn trọng mình, họ còn tôn trọng người khác. Điều 32,
33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 rõ ràng đã bảo vệ quyền lợi cua
người phụ nữ. Vì trước kia, người vợ ly dị thường phải ra đi tay trắng. Đây là một
thiệt thòi lớn đối với công sức người vợ bỏ ra chăm sóc gia đình

C- Kết bài.


Tóm lại, các cơ sở pháp lý để xác định tài sản của vợ chồng đặc biệt là Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định các căn cứ xác lập tài sản chung của
vợ chồng dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc của tài sản thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng. Những quy định có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở pháp lý đảm
bảo quyền lợi của vợ chồng đối với tài sản chung; giúp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng xảy ra tranh chấp về tài
sản chung của vợ chồng.


Tài liệu tham khảo:
1

Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.

2

Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2003.


3

Nguyễn Văn Cừ là Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

4

Bộ tư pháp, Viện khoa học pháp lý, Đinh Thị Mai Phương(chủ biên), Bình luận
khoa học Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004.

5

Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.

6

Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2002 quy định chi tiết thi
hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.


7

Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NQHĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫ TAND các cấp áp dụng một số quy định của
Luật hôn nhân và gia đình .

8

Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008.


9

Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.

10 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992(sửa đổi, bổ sung

năm 2001).



×