Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

So sánh pháp luật về thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam và thuế bảo vệ môi trường ở một số nước trên thế giới, đề xuất giải pháp pháp lý cho Luật thuế bảo vệ môi trường BTN Tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.29 KB, 29 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, vấn đề bảo vệ môi trường trở thành mối quan tâm hàng
đầu trên phạm vi toàn cầu. Thuế là công cụ chính sách được nhiều quốc gia
trên thế giới sử dụng nhằm thực hiện mục đích bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi
trường luôn được xác định là chủ trương, chính sách lớn, nhiệm vụ quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách thuế nhằm bảo vệ môi trường của Việt
Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Việc luật hóa các công cụ kinh tế
trong quản lí môi trường đã bắt đầu được triển khai áp dụng, tuy chưa nhiều.
Các biện pháp này đã tạo ra động lực kinh tế cần thiết, làm thay đổi hành vi
của các chủ nguồn thải, khuyến khích họ tái chế, sử dụng chất thải nhằm tiết
kiệm tài nguyên và giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong quá
trình hoạt động. Một trong các công cụ kinh tế trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường không thể không nhắc tới đó là thuế bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
hiệu quả thực tế đối với mục tiêu bảo vệ môi trường hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế. So với một số quốc gia trên thế giới thì ở Việt Nam, thuế môi trường
là công cụ kinh tế còn khá mới mẻ. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng
1
1


em xin tìm hiểu đề: “So sánh pháp luật về thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam
và thuế bảo vệ môi trường ở một số nước trên thế giới và đề xuất giải pháp
pháp lý cho Luật Thuế bảo vệ môi trường.”

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1. Khái quát về Thuế bảo vệ môi trường
a) Khái niệm, đặc điểm
Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa


(sau đây gọi chung là hàng hóa) khi sử dụng gây tác động xấu đến môi
trường.
Với cách định nghĩa như trên, thuế bảo vệ môi trường có những đặc điểm sau:
Một là, thuế bảo vệ môi trường là một loại thuế gián thu giống như một số loại
thuế tiêu dùng khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Người tiêu
dùng sản phẩm cuối cùng là người gánh tiền số tiền thuế được xác định trong
số tiền thanh toán
Hai là, mục đích hướng tiêu dùng được thể hiện khá rõ ràng ở loại thuế này.
Các mặt hàng thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường đều có tác động xấu đến
môi trường khi sử dụng chúng. Để giảm thiểu việc sử dụng các hàng hóa gây
tổn hại môi trường bằng việc làm tăng giá thanh toán đối với hàng hóa đó, tạo
điều kiện để người tiêu dùng chuyển thói quen sang sử dụng hàng hóa thân
thiện với môi trường là điều cần thiết. Cũng chính từ yếu tố hạn chế tiêu dùng
nêu trên nên pháp luật cũng định rõ các hàng hóa nằm trong diện chịu thuế của
loại thuế này
2
2


Ba là, thuế bảo vệ môi trường chia sẻ mục tiêu bảo vệ môi trường thông qua
thuế của một số loại thuế tiêu dùng khác. Thay bằng việc thay đổi mức thuế
suất hoặc mở rộng diện chịu thuế đối với thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt , thậm chí thuế nhập khẩu, việc đánh thuế bảo vệ môi trường không chỉ
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước (trong đó có sử dụng cho việc tái tạo
môi trường) mà còn chia sẻ mục tiêu cho các loại thuế suất.
b) Mục đích, vai trò
Thuế môi trường góp phần làm thay đổi hành vi của các chủ thể kinh doanh
và tiêu dùng theo hướng có lợi cho môi trường hay nói cách khác, thuế môi
trường có vai trò và ý nghĩa trong việc định hướng sản xuất và tiêu dùng – sản
xuất, nhập khẩu hàng hóa “sạch”. Thông qua việc tác động trực tiếp vào lợi

ích kinh tế của các chủ thể liên quan mà chủ yếu là người gây ô nhiễm, các
quy định về thuế môi trường sẽ làm thay đổi hành vi của họ theo hướng có lợi
cho môi trường. Theo đó, những người gây ô nhiễm hoàn toàn có lí do để
giảm lượng chất thải mà họ thải ra chừng nào chi phí cho việc này thấp hơn
các chi phí về môi trường mà họ phải trả. Xét về lâu dài trong nền kinh tế thị
trường, những công cụ kinh tế nói chung trong đó có thuế môi trường còn có
thể làm nhiều hơn những gì một tiêu chuẩn môi trường đòi hỏi.
Thuế môi trường góp phần khuyến khích sự năng động, sáng tạo trong nghiên
cứu và ứng dụng những quy định công nghệ phù hợp để giảm thiểu chất thải,
qua đó tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Vai trò này của thuế môi trường được thể hiện ở chỗ, nó khuyến
khích các chủ nguồn thải nghiên cứu và ứng dụng những quy trình công nghệ
phù hợp nhất với khả năng của họ để giảm thiểu lượng chất thải phát sinh. Bởi
lẽ, không phải chủ nguồn thải nào cũng có khả năng dồi dào về tài chính. Các
3
3


cơ sở công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp thường gặp rất nhiều khó khăn
về vấn đề này. Vì thế, nếu nhà nước quản lý theo phương cách mệnh lệnh hành
chính nghĩa là áp đặt một loại thiết bị công nghệ nhất định mà cơ sở phải đầu
tư để giảm thiểu chất thải thì sẽ có thể vượt quá khả năng tài chính cũng như
trình độ công nghệ của cơ sở đó. Như vậy có thể thấy thuế môi trường có vai
trò điều chỉnh kinh tế vĩ mô theo hướng tích cực, có tác dụng khuyến khích
người gây ô nhiễm chủ động lưa chọn những biện pháp tối ưu để giảm thiểu ô
nhiễm, vừa có lợi cho mình vừa bảo vệ môi trường, kích thích sự phát triển
công nghiệp và tăng cường công tác nghiên cứu và phát triển “sản xuất sạch”.
Thuế môi trường còn tạo ra sự chủ động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh
trong quá trình hoạt động cũng như chủ động ứng phó với các sự cố môi
trường có thể xảy ra. Thuế môi trường được sử dụng có vai trò, ý nghĩa đó là

sẽ tạo cho các đối tượng này tự giác thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ứng
phó sự cố, làm cho họ chủ động hơn trong việc giảm thiểu những tác động bất
lợi cho môi trường khi sự cố xảy ra để đảm bảo lợi ích kinh tế của chính họ.
Hơn nữa, chính vì việc thuế môi trường đánh vào những hàng hóa gây hại, có
tác động xấu đến môi trường cho nên trên phương diện xã hội, thuế môi
trường được sự ủng hộ của xã hội nhiều hơn.
Sử dụng công cụ kinh tế nói chung trong đó có thuế môi trường có vai trò
trong việc có thể làm giảm bớt gánh nặng quản lý cho hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Với sức ép về các vấn đề môi trường đang
đặt ra hiện nay, cùng với phương thức quản lý mệnh lệnh hành chính là chủ
yếu, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường luôn bị đặt trong tình
trạng quá tải về công việc. Thay vì việc các cơ quan quản lý nhà nước phải
thường xuyên giám sát, theo dõi việc thực hiện các quyết định hành chính đã
4
4


đặt ra cho các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh, thuế môi
trường buộc các đối tượng này tự nguyện thực hiện những hành vi có lợi cho
môi trường. Bởi vì, lợi ích kinh tế của chính cơ sở đã bị gắn chặt bởi những
tổn hại về môi trường mà họ có thể gây ra. Do đó, không cần đến sự kiểm tra,
giám sát thường xuyên và gắt gao của các cơ quan quản lí nhà nước về bảo vệ
môi trường, các cơ sở này cũng đã tự nguyện tiến hành các biện pháp giảm
thiểu ô nhiễm. Khi đó gánh nặng quản lí của các cơ quan nhà nước đã được
giảm thiểu một cách đáng kể.
2. Khái quát về Luật Thuế bảo vệ môi trường
a Sự cần thiết của Luật Thuế bảo vệ môi trường
Trước năm 2010, nước ta chưa có một sắc thuế riêng nào về bảo vệ môi
trường để thu vào hàng hoá khi sử dụng gây ô nhiễm môi trường nhằm hạn
chế sản xuất và tiêu dùng hàng hóa loại này. Tuy nhiên, Chính phủ đã ban

hành và thực thi nhiều biện pháp tài chính nhằm khuyến khích nhà đầu tư
tham gia trực tiếp các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả các nguồn tài nguyên và huy động một phần đóng góp
của đối tượng xả thải vào việc khôi phục môi trường. Các biện pháp này
được thực hiện trong một số loại thuế như thuế đất, thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế tài nguyên, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp
và thông qua các khoản phí, lệ phí thu đối với các hoạt động liên quan tới
môi trường như: Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi
trường đối với khai thác khoáng sản, phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn. Ngoài ra, một số chính sách thuế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng có những ưu
đãi cho hoạt động bảo vệ môi trường.
5
5


Một mặt, các khoản thu phí bảo vệ môi trường đã tạo thêm nguồn thu, góp
một phần chi đầu tư giải quyết các vấn đề về môi trường, đồng thời góp
phần thay đổi nhận thức và hành vi của tổ chức, cá nhân trong việc giữ gìn
môi trường, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
Việc quy định ưu đãi thuế đối với lĩnh vực môi trường đã làm cho các
doanh nghiệp có ý thức hơn trong việc tìm các biện pháp nhằm hạn chế tác
động bất lợi do hoạt động sản xuất của mình gây ra cho môi trường; quan
tâm áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến để giảm bớt xả thải chất độc
hại ra môi trường. Thúc đẩy doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng công nghệ
sạch vào sản xuất, nghiên cứu sử dụng nguyên liệu thay thế nguyên liệu
hoá thạch để sản xuất các sản phẩm thân thiện môi trường, thay thế các sản
phẩm gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, nguồn thu từ các loại phí bảo vệ môi trường còn rất hạn chế do
các loại phí này có tính pháp lý thấp, mức thu thấp nên tác động, hiệu quả

không cao. Đối với các chính sách thuế như trên đã đề cập, mục tiêu bảo vệ
môi trường không phải là mục tiêu chính, vì vậy việc khuyến khích đầu tư
sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, khuyến khích đầu tư vào các dự
án làm sạch môi trường, không thu thuế nhập khẩu hoặc thu mức thuế suất
thấp khi mua các sản phẩm, thiết bị liên quan đến hoạt động bảo vệ môi
trường đã góp một phần vào mục tiêu bảo vệ môi trường nhưng chưa tác
động trực tiếp đến hành vi tiêu dùng và hoạt động sản xuất các sản phẩm
gây tác động xấu đến môi trường. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng chính
sách thuế riêng về bảo vệ môi trường để thu vào các sản phẩm gây ô
nhiễm, những sản phẩm mà việc sử dụng chúng gây tác động xấu tới môi
trường.
6
6


Ngày 15/11/2010, Quốc đã thông qua Luật thuế bảo vệ môi trường và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Luật quy định về đối tượng chịu
thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai
thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường. Luật được ban
hành có vai trò quan trọng trong việc tạo khuôn khổ pháp lí đồng bộ, ổn
định điều chỉnh toàn diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường
nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần
làm thay đổi hành vi của tổ chức, cá nhân, nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường trong đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, khắc phục hạn chế trong chính
sách thu hiện hành, tạo nguồn lực tài chính bù đắp chi phí bảo vệ môi
trường bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển bền vững,
khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
c) Khái niệm, cấu trúc
Luật Thuế bảo vệ môi trường là văn bản quy phạm pháp luật nằm trong hệ
thống pháp luật Việt Nam quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không

chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và
hoàn thuế bảo vệ môi trường.
3. Nội dung cơ bản của Luật Thuế bảo vệ môi trường
a Đối tượng chịu thuế
Theo Luật Thuế bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2010, gồm có nhóm đối
tượng chính:
Nhóm 1: Xăng, dầu, mỡ nhờn, bao gồm: xăng, trừ etanol; nhiên liệu bay; dầu
diezel; dầu hoả; dầu mazut; dầu nhờn; mỡ nhờn. Đây là các sản phẩm có chứa
một số chất hoá học như chì, lưu huỳnh... mà ngay cả khi chưa sử dụng, các
chất chứa trong các loại xăng dầu đã phát thải ra môi trường và gây ảnh hưởng
7
7


xấu đến môi trường. Ở Việt Nam hiện nay, xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu
hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế. Đồng thời, xăng dầu
còn là mặt hàng không thể thiếu nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng
của người dân, đặc biệt là nhu cầu đi lại. Theo đó, xăng, dầu được sử dụng
trên phạm vi rất rộng, với số lượng tiêu thụ hàng năm là vô cùng lớn, gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường trên diện rộng, đặc biệt là ở các đô thị và các
thành phố lớn. Vì vậy, việc đưa các sản phẩm xăng dầu vào đối tượng chịu
thuế nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả;
khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo.
Nhóm 2: Than đá, bao gồm than nâu, than antraxit, than mỡ, than đá khác:
khi được sử dụng cho mục đích đốt cháy sẽ thải ra môi trường các loại khí như
CO2, SO2 đều là các khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và là
nguyên nhân của hiện tượng môi trường nguy hiểm như mưa axit. Phạm vi sử
dụng than cũng rộng khắp nên việc đưa than đá vào đối tượng chịu thuế cũng
nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; giảm sự
phụ thuộc vào năng lượng có nguồn gốc hoá thạch, khuyến khích sử dụng

năng lượng tái tạo.
Nhóm 3: Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC): dùng làm môi chất
sử dụng trong thiết bị lạnh và trong công nghiệp bán dẫn. Sự phát thải chất
HCFC vào khí quyển, làm ô nhiễm bầu không khí và là nguyên nhân chính
gây suy giảm tầng ôzôn và gây hiệu ứng nhà kính. Việt Nam đã tham gia ký
kết Nghị định thư Montreal về hạn chế sử dụng các chất làm suy giảm tầng
ôzôn. Theo đó, các nước đang phát triển (trong đó có nước ta) sẽ phải loại trừ
hoàn toàn việc sử dụng HCFC vào năm 2030. Việc đưa chất HCFC vào đối
tượng chịu thuế bảo vệ môi trường sẽ góp phần vào việc thực hiện cam kết
8
8


Nghị định thư Montreal ở Việt Nam, khuyến khích doanh nghiệp giảm dần sử
dụng HCFC bằng việc chuyển đổi công nghệ sản xuất. Tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu dung dịch HCFC thì phải kê khai, nộp thuế bảo vệ môi
trường.
Nhóm 4: Túi nilon: được làm từ màng nhựa đơn, là sản phẩm phải trải qua
thời gian rất lâu để phân hủy (có thể tới hàng trăm năm) hoặc không thể tự
phân hủy được. Túi nilon thải bỏ sau khi sử dụng sẽ tích tụ trong đất gây suy
thoái môi trường đất. Khi bị phân hủy thì còn sinh ra các chất làm đất bị trơ,
không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây trồng. Việc đưa túi nhựa xốp
vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của
toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi hành vi của người tiêu dùng trong việc sử
dụng túi nhựa xốp, khuyến khích sản xuất các sản phẩm thay thế thân thiện
hơn với môi trường.
Nhóm 5: Thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử
trùng kho thuộc diện hạn chế sử dụng: là những hợp chất độc có nguồn gốc từ
tự nhiên hoặc tổng hợp từ các chất hóa học được dùng để phòng trừ dịch hại
trên cây trồng và bảo quản nông sản hay còn gọi là thuốc bảo vệ thực vật. Vì

giá thành thấp và chưa có nguồn thông tin đầy đủ, người dân hiện đang lạm
dụng, sử dụng không đúng thời hạn, liều lượng các loại thuốc bảo vệ thực vật,
dẫn đến ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người
dân. Vì vậy, việc đưa các sản phẩm trên thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối
tượng chịu thuế là cần thiết, nhằm nâng cao nhận thức của người sử dụng,
khuyến khích họ thay đổi thói quen sử dụng lạm dụng, giảm thiểu những tác
hại xấu của hoá chất bảo vệ thực vật đối với môi trường.

9
9


d) Đối tượng không chịu thuế
+ Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc chuyển qua cửa khẩu biên giới Việt
Nam
+ Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu trong thời hạn theo quy định của pháp
luật
+ Hàng hóa do cơ sở sản xuất trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác cho cơ sở kinh
doanh xuất khẩu để xuất khẩu, trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
mua hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để xuất khẩu.
Lý do không đánh thuế bảo vệ môi trường với các sản phẩm hàng hoá nêu trên
vì các sản phẩm này không được sử dụng trong nước nên không phải nguồn
gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Trong quá trình sản xuất các sản phẩm
này, nếu doanh nghiệp xả thái ra môi trường các chất gây ô nhiễm thì phải nộp
phí bảo vệ môi trường. Ngoài ra, việc không đánh thuế bảo vệ môi trường đối
với hàng hoá xuất khẩu còn giúp đảm bảo tính cạnh tranh của hàng hoá khí
xuất khẩu ra nước ngoài.
e) Người nộp thuế
+ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng
chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế BVMT

+ Trường hợp ủy thác nhập khẩu hàng hóa thì người nhận ủy thác nhập khẩu
là người nộp thuế.
+ Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua than khai
thác nhỏ, lẻ mà không xuất trình được chứng từ chứng minh hàng hóa đã được
nộp thuế bảo vệ môi trường thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu
mua là người nộp thuế.

10
10


f) Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế BVMT là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối
Về số lượng hàng hóa tính thuế được quy định như sau:
+ Đối với hàng hóa sản xuất trong nước, số lượng hàng hóa tính thuế là số
lượng hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho, khuyến
mại, quảng cáo.
+ Đối với hàng hóa nhập khẩu, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng
hóa nhập khẩu.
Đối với trường hợp số lượng hàng hoá chịu thuế bảo vệ môi trường xuất, bán
và nhập khẩu tính bằng đơn vị đo lường khác đơn vị quy định tính thuế tại
biểu mức thuế Bảo vệ môi trường do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành thì
phải qui đổi ra đơn vị đo lường quy định tại biểu mức thuế Bảo vệ môi trường
để tính thuế.
+ Đối với hàng hoá là nhiên liệu hỗn hợp chứa xăng, dầu, mỡ nhờn gốc hoá
thạch và nhiên liệu sinh học thì số lượng hàng hoá tính thuế trong kỳ là số
lượng xăng, dầu, mỡ nhờn gốc hoá thạch có trong số lượng nhiên liệu hỗn hợp
nhập khẩu hoặc sản xuất bán ra, trao đổi, tặng cho, đưa vào tiêu dùng nội bộ
được quy đổi ra đơn vị đo lường quy định tính thuế của hàng hoá tương ứng.
Cách xác định như sau:

Số lượng xăng, dầu,
mỡ

nhờn

gốc

thạch tính thuế

hoá =

hợp nhập khẩu, sản xuất
bán ra, tiêu dùng, trao
đổi, tặng cho

11
11

Tỷ lệ phần trăm (%)

Số lượng nhiên liệu hỗn

xăng, dầu, mỡ nhờn
X

gốc

hoá

trong nhiên

hợp

thạch



liệu hỗn


g) Biểu khung, mức thuế:
Biểu khung thuế: Bảng 1, Phụ lục.
Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 đã quy định Biểu khung thuế với mức
thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế tuyệt đối tối đa. Các mức thuế tuyệt đối
tối thiểu và tối đa được xây dựng theo nguyên tắc phân biệt theo mức độ gây
tác động xấu đến môi trường và có tính đến việc kế thừa chính sách thu hiện
hành (phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường) để không tác động lớn đến sản
xuất, tiêu dùng, không xáo trộn việc quản lý thu thuế.
Do biểu thuế có sự dao động giữa mức tối thiểu và tối đa nên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội có quyền quyết định mức thuế cụ thể trong giới hạn biểu thuế áp
dụng cho từng mặt hàng cụ thể.
h) Hoàn thuế
Người nộp thuế bảo vệ môi trường được hoàn thuế đã nộp trong các trường
hợp sau:
1. Hàng hóa nhập khẩu còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu sự
giám sát của cơ quan Hải quan được tái xuất khẩu ra nước ngoài;
2. Hàng hóa nhập khẩu để giao, bán cho nước ngoài thông qua đại lý tại
Việt Nam; xăng, dầu bán cho phương tiện vận tải của hãng nước ngoài trên
tuyến đường qua cảng Việt Nam hoặc phương tiện vận tải của Việt Nam
trên tuyến đường vận tải quốc tế theo quy định của pháp luật;
3. Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức kinh doanh

hàng tạm nhập, tái xuất.
4. Hàng hóa nhập khẩu do người nhập khẩu tái xuất khẩu ra nước ngoài;
5. Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản
phẩm theo quy định của pháp luật khi tái xuất khẩu ra nước ngoài.
12
12


i) Ưu đãi thuế
Chưa có quy định về vấn đề ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế theo tinh thần của
một số luật về thuế khác.
II. PHÁP LUẬT VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI – ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁP LÝ
1 Nội dung cơ bản của pháp luật về Thuế bảo vệ môi trường của một
số nước trên thế giới
a Trung Quốc
Luật Thuế bảo vệ môi trường đầu tiên của Trung Quốc sẽ được thực hiện từ
ngày 1/1/2018, theo đó:
- Người nộp thuế: Là cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh trực tiếp thải
chất gây ô nhiễm chịu thuế ra môi trường.
- Đối tượng chịu thuế: Chất gây ô nhiễm bao gồm chất gây ô nhiễm
không khí, nước, chất thải rắn và tiếng ồn được quy định tại biểu khung
thuế.
- Miễn thuế:
1. Chất thải từ sản xuất nông nghiệp (không bao gồm nuôi trồng quy mô hóa).
2. Chất thải từ xe máy, đầu xe lửa, tàu thuyền, máy bay và các nguồn ô nhiễm
di động khác.
3. Chất thải từ khu xử lý nước, rác thải sinh hoạt,
định


được

công nhận theo quy

của pháp luật, trừ trường hợp vượt quá tiêu chuẩn quy định của địa

phương và Nhà nước.
4. Chất thải thể rắn được tái sử dụng bởi người nộp thuế phù hợp với tiêu
chuẩn của địa phương và Nhà nước.
5. Các trường hợp khác được bộ ngoại giao phê chuẩn.
13
13


- Căn cứ tính thuế và mức thuế:
Căn cứ tính thuế dựa trên chất gây ô nhiễm phải chịu thuế.
Tính thuế: Số thuế bảo vệ môi trường phải nộp bằng đơn vị ô nhiễm nhân với
thuế suất bảo vệ môi trường của các đối tượng phải chịu thuế.
- Biểu khung thuế: Bảng 2, Phụ lục.
j) Châu Âu
Theo OECD, pháp luật về thuế bảo vệ môi trường của đa số các nước Châu
Âu được chia làm bốn nhóm chính: năng lượng, ô nhiễm, tài nguyên và vận
tải. Trong đó:
Năng
lượng

Sản phẩm năng lượng cho Xăng
Dầu
mục đích vận tải
Dầu diesel

Các sản phẩm năng lượng phục vụ vận
tải khác (LPG, khí ga tự nhiên, kerosene,

Giao
thông
vận tải

dầu hoả,,…)
Sản phẩm năng lượng cho Khí ga
Than
mục đích ổn định
Dầu nhờn
Tiêu thụ và sản xuất điện năng
Tiêu thụ và sản xuất nhiệt năng
Khác
Khí thải nhà kính
Nhiên liệu chứa carbon
Khí thải nhà kính
Nhập khẩu, mua bán
phương tiện giao thông
Đăng kí hoặc sử dụng
phương tiện giao thông
Phí đường bộ
Các loại phương tiện giao
14

14


thông khác (tàu, thuyền,

máy bay, tàu điện,…)
Dịch vụ hàng không
Bảo hiểm xe cộ
Ô nhiễm Các chất thải ra không khí NOx
SOx
được đo lường hoặc ước
Các chất thải khác (bao gồm cả CO2)
tính
Các chất làm suy giảm
tầng ozon
Chất thải ra môi trường Làm giảm oxy (BOD, COD)
Khác
nước được đo lường hoặc

Tài
nguyên

ước tính
Các nguồn làm ô nhiễm Phân bón hoá học
Thuốc bảo vệ động vật
môi trường nước
Phân bón
Xử lý rác thải
Thu gom, xử lý
Các sản phẩm đặc biệt
Tiếng ồn
Nước
Tài nguyên sinh học
Tài nguyên thiên nhiên
Thay đổi cảnh quan


Cụ thể:
Thuế năng lượng: Thuế đánh vào việc tiêu thụ năng lượng và các sản phẩm
năng lượng, chủ yếu là xăng, dầu, khí ga, than và điện. Căn cứ tính thuế là số
lượng tiêu thụ. Tiền thuế phải nộp tương ứng với số năng lượng được tiêu thụ
nhân với thuế suất tuyệt đối trên một đơn vị số lượng. Số lượng hoặc trọng
lượng của năng lượng bị đánh thuế là số lượng hoặc trọng lượng thực tế nhập
khẩu hoặc tiêu thụ trong kì tính thuế.

15
15


16
16


Thuế chất ô nhiễm căn cứ vào lượng xả thải ra môi trường không khí, nước, chất
thải rắn và tiếng ồn.
Thuế tài nguyên: đánh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực khai
thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đối tượng chịu thuế chủ yếu là
các tài nguyên khoán sảng như khoáng sản kim loại, khí thiên nhiên, nước
khoáng,...
Người nộp thuế: là người sử dụng hoặc sản xuất nhập khẩu hàng thuộc đối tượng
chịu thuế.
4. Nhận xét
-

Đối tượng chịu thuế:


Nhìn chung, các mặt hàng thuộc đối tượng chịu thuế đều là những sản phẩm có khả
năng gây hại đủ lớn đối với môi trường và “đủ điều kiện” để phải gánh chịu thuế
bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc pháp luật quy định để mở tại khoản 9 Điều 2
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung các mặt hàng
chịu thuế là hết sức hợp lý và cần thiết.
Tuy nhiên, việc quy định đối tượng chịu thuế chỉ có 8 mặt hàng là còn khá hẹp so
với thế giới, chưa thực sự gánh nổi mục tiêu bảo vệ môi trường mà sắc thuế này
muốn hướng tới. Bởi ngoài những sản phẩm đã được đề cập ở trên thì còn khá
nhiều sản phẩm khác chưa được rà soát để đưa vào thuế bảo vệ môi trường mặc dù
mức độ gây nguy hiểm cũng không nhỏ. Điều này tạo ra tình trạng bất bình đẳng
trong việc xác định đối tượng chịu thuế và cũng vì thế ảnh hưởng đến mục tiêu cơ
bản là bảo vệ môi trường mà luật thuế này hướng tới. Nhiều sản phẩm gây ảnh
hưởng đến môi trường nhưng không nằm trong danh sách đối tượng chịu thuế ví
dụ như thuốc lá, ô tô, xe máy vì lý do những sản phẩm trên đã chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt. Tuy nhiên, lời giải thích trên có phần bất hợp lý bởi mục đích của thuế
tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường là không giống nhau, mặc dù có mục
tiêu là bảo vệ môi trường nhưng đó không phải là mục đích chính của thuế tiêu thụ


đặc biệt. Hơn nữa, theo nghiên cứu cho thấy sản phẩm ô tô, xe máy khi hoạt động
gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, cụ thể là làm biến đổi khí hậu, giảm sút
chất lượng không khí, gây ra tiếng ồn…Việc bỏ qua các đối tượng chịu thuế này
chưa phù hợp với quan điểm khi xác định đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường là
những mặt hàng gây tác động ở mức độ đủ lớn nhất định đối với môi trường.
Bên cạnh một số mặt hàng không được đưa vào đối tượng chịu thuế, quy định về
đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường còn chưa thực sự rõ ràng, gây khó khăn
trong thực tiễn áp dụng. Cùng với nhiều nước trên thế giới đã thu thuế đối với các
sản phẩm nhựa như Anh, Ailen, Đài Loan… Luật thuế bảo vệ môi trường năm
2010 của Việt Nam cũng đã đưa túi nhựa xốp vào đối tượng chịu thuế nhằm mục
tiêu nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi

hành vi của người tiêu dùng trong việc sử dụng túi nhựa xốp. Tuy nhiên, định
nghĩa về túi ni long thuộc diện chịu thuế như trên còn chung chung mặc dù đã
được hướng dẫn cụ thể hơn tại Nghị định số 67/2011/NĐ-CP và Nghị định số
69/2012/NĐ-CP của Chính phủ, theo đó đã hướng dẫn cụ thể cách hiểu về túi ni
lông thuộc diện chịu thuế và bao bì đóng gói sẵn hàng hóa nhưng vẫn chưa đưa ra
quy định liên quan đến việc nhận diện hình dạng túi ni lông (túi, bao bì) hoặc thế
nào là túi ni lông đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường, gây khó khăn cho
doanh nghiệp và cơ quan quản lí khi tính thuế. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân sản xuất,
nhập khẩu dung dịch HCFC phải kê khai, nộp thuế bảo vệ môi trường. Trên thực
tế, dung dịch HCFC còn tồn tại dưới dạng chất hỗn hợp có chứa HCFC (như chất
Polyol có trộn sẵn chất HCFC-141, được sử dụng để sản xuất tấm cách nhiệt; tỷ lệ
HCFC có trong Polyol trộn sẵn HCFC-141b chiếm khoảng từ 13% đến 30%),
nhưng Luật thuế bảo vệ môi trường hiện hành chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể
về chất hỗn hợp chứa dung dịch HCFC có thuộc đối tượng chịu thuế hay không.
Mặc dù, Bộ Tài chính đã có công văn số 12128/BTC-CST ngày 01/9/2015 hướng
dẫn thu thuế bảo vệ môi trường đối với dung dịch HCFC dưới dạng chất hỗn hợp.


Tuy nhiên, để đảm bảo cơ sở pháp lý chặt chẽ về thu thuế bảo vệ môi trường đối
với dung dịch này dưới dạng chất hỗn hợp, tránh vướng mắc trong thực hiện thì
cần thiết sửa đổi, bổ sung quy định này tại Luật thuế bảo vệ môi trường.
-

Đối tượng không chịu thuế bảo vệ môi trường.

Nhiều ý kiến cho rằng cần đánh thuế bảo vệ môi trường đối với hành vi sản xuất
các mặt hàng trực tiếp hoặc được ủy thác cho cơ sở sản xuất kinh doanh xuất khẩu
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trong thực tế, nhiều hoạt động sản xuất ra mặt
hàng xuất khẩu gây tác hại lớn đến môi trường. Nhiều cơ sở sản xuất nước ngoài
lợi dụng điều này để gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và có âm mưu biến nước

ta thành “bãi thải” của thế giới. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị đưa hàng hóa do tổ
chức, cá nhân mua để xuất khẩu vào đối tượng không chịu thuế bảo vệ môi trường
vì hàng hóa xuất khẩu không được sử dụng ở Việt Nam nên không gây tác động
xấu đến môi trường khi sử dụng. Mặt khác, khi hàng hóa gây ô nhiễm của Việt
Nam khi nhập khẩu vào nước khác sẽ đương nhiên phải chịu thuế bảo vệ môi
trường của nước đó nếu chính sách của nước này quy định đánh thuế đối với sản
phẩm đó. Nếu kiên quyết đánh thuế bảo vệ môi trường đối với hành vi xuất khẩu sẽ
làm giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vốn chưa thực sự vững mạnh của nước ta.
-

Người nộp thuế.

So với các nước trên thế giới, Việt Nam tính thuế bảo vệ môi trường chủ yếu theo
nguyên tắc người sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm trả tiền, theo đó người tiêu dùng
phải chịu trách nhiệm về các chi phí phải sử dụng để hoàn trả những tổn thất về
môi trường tương đương với mức ô nhiễm họ gây ra. Thuế bảo vệ môi trường là
thuế gián thu, mục đích của việc áp dụng thuế là định hướng, khuyến cáo người
tiêu dùng lựa chọn hàng hóa thân thiện với môi trường và thể hiện sự điều tiết của
nhà nước, hạn chế sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm, góp phần bảo vệ môi trường,
bảo đảm phát triển bền vững. Xuất phát từ đặc điểm đó, việc quy định chủ thể có


hành vi sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế là người nộp thuế
nhưng chính người tiêu dùng là người phải gánh chịu thuế do thuế đã được cộng
vào giá bán của sản phẩm hợp lí, tránh được sự phản ứng gay gắt từ người tiêu
dùng. Quy định này giúp đảm bảo hiệu quả thu thuế của nhà nước nhưng lại dẫn
đến việc nhiều người tiêu dùng không nhận thức được việc mình đang là chủ thể
chịu thuế bảo vệ môi trường. Trong khi đó, Luật Thuế bảo vệ môi trường Trung
Quốc còn tính thuế theo mức độ gây ô nhiễm môi trường, căn cứ vào quy mô, tính

chất hoạt động và mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng doanh nghiệp. Khối
lượng chất thải càng lớn, hàm lượng chất độc hại càng cao thì mức thuế ô nhiễm
môi trường phải nộp càng nhiều. Như vậy, để giảm thuế, các doanh nghiệp phải
nghiên cứu và ứng dụng những quy trình công nghệ mới nhất, hạn chế lượng chất
thải ra môi trường.
- Căn cứ tính thuế:
Đây là căn cứ phổ biến mà các công thức tính thuế vẫn được áp dụng, căn cứ này
chặt chẽ bởi nó căn cứ vào lượng hàng hóa tính thuế. Đối với thuế bảo vệ môi
trường chỉ áp dụng mức thuế suất tuyệt đối chứ không áp dụng các loại thuế theo
tỷ lệ phần trăm như một số loại thuế khác. Do hàng hóa chịu thuế có thể do nhập
khẩu hoặc do sản xuất có thể tồn tại dưới dạng hỗn hợp hay dạng tinh chế nên pháp
luật cũng quy định cụ thể cho từng trường hợp để vừa tránh thất thu vừa đảm bảo
được công bằng không chỉ là sự cân bằng giữa các loại hàng hóa, sản phẩm mà còn
đảm bảo lợi ích công bằng giữa các chủ thể dù sản xuất hay nhập khẩu đều phải
linh hoạt cân đối với nhau theo khung định sẵn về lượng hàng hóa, sản phẩm. Việc
không tính thuế theo lượng hàng hóa sử dụng nhằm mục tiêu hạn chế tiêu dùng,
bởi vì các mặt hàng phải chịu thuế bảo vệ môi trường có tính chất đặc biệt xuất
phát từ đặc tính của hàng hóa gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường bởi vậy cho


nên đánh vào hoạt động sản xuất và nhập khẩu rõ ràng là nhằm hạn chế tiêu dùng,
để bảo vệ môi trường khỏi tối thiểu các tác động xấu có thể xảy ra.
Mức thuế có sự giao động và căn cứ trên sự giao động mà Ủy ban thường vụ Quốc
hội có quyền quyết định mức cụ thể linh hoạt nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các
loại sản phẩm hàng hóa cũng như là cân đối với lượng hàng hóa sản xuất và nhập
khẩu để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên trong hoạt động sản xuất, nhập khẩu các
mặt hàng phải chịu thuế bảo vệ môi trường.
Có thể nhận thấy rằng, việc pháp luật quy định tính thuế bảo vệ môi trường với
mức thuế suất tuyệt đối là hợp lý. Bởi đây là phương pháp tốt nhất, thể hiện sự đơn
giản, minh bạch trong thực hiện, bảo đảm sự chủ động trong việc tính toán giá

thành sản phẩm cũng như đối với việc thu ngân sách nhà nước, không phụ thuộc
vào sự biến động của giá cả hàng hóa. Mức thuế tuyệt đối được quy định theo Biểu
khung thuế nên dễ thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm trên thì mức thuế tuyệt đối có một hạn chế đó là nó sẽ gây khó
khăn trong công tác thực hiện, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện
nay với tình trạng trượt giá khó kiểm soát, khung tính thuế và mức thuế tuyệt đối
sẽ liên tục phải thay đổi để phù hợp với thực tiễn, khi đó gây khó khăn trong công
tác thực thi pháp luật.
-

Biểu thuế:

Việc quy định biểu thuế và linh hoạt theo sự quyết định của Ủy ban thường vụ
Quốc hội tạo điều kiện cho các chủ thể sản xuất kinh doanh và mặt hàng chịu thuế
được hưởng các lợi ích cân bằng và phù hợp với không chỉ sản phẩm mà còn với
lượng hàng hóa của mình, khi quy định linh hoạt sẽ là điều kiện để tạo ra thị
trường ổn định về mặt hàng hóa cũng như giá cả của hàng hóa, sản phẩm. Tuy
nhiên việc trao quyền cho Ủy ban quyết định cũng cần phải có sự kiểm soát nhất
định tránh các trường hợp do sự chủ quan hay do các tác động bên ngoài dẫn tới
quy định quá chênh lệch gây thất thiệt cho người sản xuất và cả người tiêu dùng.


Mức thuế do ủy ban quyết định, tuy có nằm trong khung nhưng với quy định mức
dao động của khung biểu thuế hiện tại thì quyết định một mức quá chênh lệch cũng
có thể gây thất thiệt nghiêm trọng không chỉ với nguồn thu thuế mà với cả người
sản xuất, nhập khẩu, tiêu dùng.
Mức thuế trong khung biểu thuế xét theo mức độ phù hợp cân đối giữa các loại
hàng hóa thì nằm trong sự cân đối hài hòa với nhau, tuy nhiên sự biến động không
ngừng của thị trường, nhu cầu ngày càng tăng cao, kinh tế ngày càng phát triển,
mở rộng dẫn tới mức thuế có thể chưa theo kịp sự phát triển tài chính của đất nước

hiện nay. Ủy ban thường vụ Quốc hội cần căn cứ không chỉ vào mức thuế trong
biểu thuế mà còn cần căn cứ vào nhu cầu thị trường và tình hình tài chính – kinh tế
xã hội để cân đối sao cho phù hợp. Đồng thời biểu thuế cũng cần thay đổi trong
một khoảng thời gian phù hợp trước hết là đảm bảo cho nhà sản xuất, nhập khẩu
cũng như người tiêu dùng kịp thời thích nghi nhưng cũng cần phải cân đối với tình
hình tài chính – xã hội và đặc biệt là lợi ích thu được từ hàng hóa cũng như vấn đề
tài chính của người tiêu dùng. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại thực trạng mất cân bằng
khi xăng, dầu đang chiếm tỷ lệ trên 93% tổng số thu thuế bảo vệ môi trường dù
mức độ gây ô nhiễm của than cũng ở mức tương đương.
-

Hoàn thuế:
Các trường hợp pháp luật hiện hành quy định về hoàn thuế là hoàn toàn hợp lý,

các trường hợp trên nhằm các mục đích như tránh đánh thuế hai lần theo như
nguyên tắc của pháp luật về thuế hiện hành, hàng hóa không có mục đích sử dụng
tại Việt Nam thì sẽ không gây ảnh hưởng đến môi trường của Việt Nam, bởi vậy
cho nên việc không thu thuế đối với hàng hóa này là hoàn toàn chính xác. Việc
hoàn thuế trong các trường hợp trên cũng chặt chẽ, đẻ tránh các trường hợp khi xảy
ra sự cố gây thiệt hại đến môi trường của Việt Nam thì các hàng hóa trên sẽ không
thể trốn tránh nghĩa vụ thuế của mình.


5. Đề xuất giải pháp pháp lý
- Sửa đổi Luật Thuế bảo vệ môi trường, theo đó, quy định đầy đủ, chi tiết, cụ
thể hơn về đối tượng chịu thuế, các trường hợp không chịu thuế bảo vệ môi
trường. So với các nước trong khu vực thì hiện nay luật thuế Bảo vệ môi
trường tương đối hẹp khi chỉ quy định tám đối tượng chịu thuế. Tuy nhiên
thực tế hiện nay, việc xác định một hàng hóa có thuộc đối tượng chịu thuế
Bảo vệ môi trường hay không là rất phức tạp, không chỉ phụ thuộc vào thực

thể hàng hóa đó mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như các chất cấu
thành trong hàng hóa, khâu kinh doanh hàng hóa, mục đích sử dụng của
hàng hóa... Đồng thời việc xác định đối tượng chịu thuế còn ảnh hưởng tới
các bộ ngành khác. Vì vậy cần có sự đồng bộ và kết hợp hiệu quả giữa các
cơ quan nhà nước để đám bảo sự thống nhất, tránh sự chồng chéo, trùng lặp
và đặc biệt đảm bảo sự phù hợp với mục đích của thuế Bảo vệ môi trường.
Hơn nữa, việc quy định đầy đủ, chi tiết về đối tượng chịu thuế cũng như
cách thức, phương pháp xác định sẽ đảm bảo được việc quản lý thu thuế
chính xác, tránh các trường hợp gian lận, sai sót trong kê khai, tính thuế
cũng như quản lý thuế, phát huy được vai trò bảo vệ môi trường của sắc thuế
này. Đồng thời, rà soát, tính toán, đánh giá mức độ gây ô nhiễm của các
hàng hóa chịu thuế để xây dựng mức thuế phù hợp với từng hàng hóa, đảm
bảo mức thuế bảo vệ môi trường được xây dựng tương ứng với mức độ gây
ô nhiễm của hàng hóa. Bên cạnh đó, cần có các quy định cụ thể về việc sử
dụng nguồn thu thuế Bảo vệ môi trường. Tất cả các khoản thuế thu được từ
các sắc thuế khác nhau được tập trung và phục vụ cho nhu cầu chi nói chung
của ngân sách nhà nước, trong đó, cho mục tiêu bảo vệ môi trường. Điều này
thể hiện rõ quan điểm, cách thức, mục tiêu sử dụng thuế nhằm bảo vệ môi
trường của luật thuế này, đồng thời, giải thích rõ hơn việc tồn tại Luật thuế
Bảo vệ môi trường bên cạnh các sắc thuế khác đã điều tiết vào hàng hóa,


dịch vụ như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu –
nhập khẩu. Cuối cùng, cần cân đối các nguồn thu trong biểu thuế Luật bảo
vệ môi trường, bổ sung thêm quy định về vấn đề ưu đãi thuế.
- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, phối hợp giữa các bộ
ngành trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo
vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội
phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm

các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...
- Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, ý thức bảo vệ môi
trường. Mục đích của thuế Bảo vệ môi trường là làm thay đổi cục diện môi
trường của đất nước. Tuy nhiên chưa có sự tích cực trong việc tuyên truyền,
giáo dục nâng cao hiểu biết cho người dân khi có nhiều người dân không
biết khoản thuế mình đóng là thuế Bảo vệ môi trường vì vậy vẫn chưa có ý
thức bảo vệ môi trường cũng như còn chống đối không chịu nộp thuế. Nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường chấp hành nghiêm chỉnh luật thuế bảo vệ môi
trường của người dân. Để đảm bảo luật thuế bảo vệ môi trường thực thi có
hiệu quả trên thực tế đòi hỏi một bên quan hệ của đối tượng điều chỉnh luật
thuế là người dân phải có ý thức chấp hành thuế Bảo vệ môi trường. Đây là
một vấn đề có vai trò quan trọng trong vấn đề môi trường nói chung và đặc
biệt là việc chấp hành luật thuế Bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy việc nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi các sản phẩm thân thiện với môi
trường nhằm tạo ra sản phẩm thay thế cho đối tượng chịu thuế. Tích cực
đưa ra các giải pháp tạm thời thân thiện với môi trường cho người dân áp
dụng. Thực trạng hiện có thể thấy việc nộp thuế bảo vệ môi trường còn
mang màu sắc cơ chế bắt buộc. Bởi vì người tiêu dùng dù muốn bảo vệ môi
trường cũng không có sản phẩm thay thế hợp lý những sản phẩm thuộc đối
tượng chịu thuế để lựa chọn. Do đó, họ trở thành người gây ô nhiễm một


cách thụ động. Từ thực trạng trên cho thấy: muốn thuế bảo vệ môi trường có
thể hạn chế được hành vi tiêu dùng các mặt hàng chịu thuế cần thiết phải có
các sản phẩm thay thể thực sự các mặt hàng này. Điều này, đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải có kế hoạch, định hướng cũng như đầu tư cho việc
nghiên cứu các sản phẩm thay thế nhằm đáp ứng nhu cầu cho người dân.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững.
Vấn đề ô nhiễm môi trường không loại trừ bất cứ một quốc gia nào, ngay cả
những quốc gia có chính sách bảo vệ môi trường nếu không có sự chung tay

giải quyết mang tầm quốc tế. Việc hợp tác quốc tế có thể giúp nước ta nhận
được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế cũng như học hỏi thêm về pháp luật
thuế bảo vệ môi trường của các nước khác để hoàn thiện hơn các văn bản
quy phạm pháp luật về môi trường cũng như tăng cường năng lực quản lý
của các cơ quan môi trường các cấp nhằm đáp ứng như cầu đổi mới hiện
nay.


×