Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích 4 quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.9 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU............................................................................................................................2
NỘI DUNG........................................................................................................................2
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ SỰ HỖ

TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI..............................................................................................................2
II.

MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

THỂ HIỆN SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI........................................................................................3
1.

Đối với việc thay đổi trọng tài viên....................................................................3

2.

Về việc triệu tập người làm chứng.....................................................................4

3.

Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc.................................................................4


4.

Hủy phán quyết trọng tài....................................................................................5

III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT..................................................................9
1.

Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên.................9

2.

Việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp

mất nhiều thời gian hơn so với Tòa án.....................................................................10
3.

Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời..................................................10

4.

Về quy định Tòa án xét đơn hủy phán quyết của trọng tài...............................12

KẾT LUẬN.....................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................14


MỞ ĐẦU
Trong việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại, tòa án
giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các cơ quan trọng tài bằng nhiều
phương thức khác nhau. Chúng có liên đới rất chặt chẽ với nhau, Tòa án có hỗ

trợ tốt cho các cơ quan trọng tài thì mới tạo hiệu quả trong công việc của trọng
tài và giảm thiểu được gánh nặng của mình trong hoạt động xét xử. Vì vậy em
xin chọn đề tài: “Phân tích 4 quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể
hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình
luận thực tiễn áp dụng các quy định đó.”

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ SỰ
HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI
1. Trọng tài thương mại
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Trọng tài thương
mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến
hành theo quy định của Luật này”.
Tại khoản 2 Điều 3 Luật này có quy định về thỏa thuận trọng tài như sau:
“Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng
tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại chỉ phát sinh khi
các bên có thỏa thuận trọng tài. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu các bên không
có thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp thương mại bằng Trọng tài
2


thương mại thì Trọng tài thương mại không có thẩm quyền giải quyết vụ việc
đó. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đề cao sự thỏa thuận của các bên
trong vụ tranh chấp. Các bên có quyền tự thỏa thuận với nhau về chọn hình
thức trọng tài, chọn trọng tài viên, chọn quy tắc tố tụng, địa điểm, thời gian
giải quyết tranh chấp…
2. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài thương mại

So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án, việc giải quyết tranh
chấp thương mại theo thủ tục trọng tài có nhiều ưu điểm như: giải quyết nhanh
chóng, dứt diểm các tranh chấp thương mại; đảm bảo được sự thỏa thuận và
định đoạt của các đương sự; quyết định của trọng tài là chung thẩm, không
bị kháng nghị, kháng cáo; đảm bảo bí mật và giữ uy tín cho các nhà kinh
doanh…
Là tổ chức phi chính phủ, Trọng tài Thương mại ở tất cả các nước đều
không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Điều
này tạo nên cho Trọng tài những thuận lợi về việc chủ động trong quá trình tố
tụng giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên quyền tự do định
đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan đến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên
cũng đặt ra cho Trọng tài Thương mại những khó khăn khi không có sự đồng
thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng
như việc thi hành phán quyết Trọng tài. Trên thế giới mối quan hệ đặc trưng
giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ
và giám sát của Toà án mà Trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ
nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách
nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết
tranh chấp của Trọng tài Thương mại là một sự tiếp sức cho Trọng tài, thể hiện
quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh

3


chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo
hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịnh thương
mại.
II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH THỂ HIỆN SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1. Đối với việc thay đổi trọng tài viên
Việc thay đổi trọng tài viên theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được
quy định tại Điều 43 trong hai trường hợp sau:
- Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, nếu Hội
đồng trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi trọng tài viên do Chủ
tịch Trung tâm trọng tài quyết định. Nếu Hội đồng trọng tài đã được
thành lập, việc thay đổi trọng tài viên do các thành viên còn lại của Hội
đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên Hội đồng
trọng tài còn lại không quyết định được hoặc nếu các trọng tài viên hay
trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, Chủ tịch Trung
tâm trọng tài quyết định về việc thay đổi trọng tài viên (Khoản 3 Điều
43).
- Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc
thay đổi trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của hội đồng trọng
tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng
trọng tài không quyết được hoặc nếu các trọng tài viên hay trọng tài
viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các trọng tài viên nói
trên, hoặc của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án tòa án có thẩm

4


quyền giao cho một thẩm phán quyết định về việc thay đổi trọng tài
viên (Khoản 4 Điều 43).
Như vậy, theo Điều 43 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì tòa án chỉ
hỗ trợ việc thay đổi trọng tài viên trong trường hợp trọng tài vụ việc giải quyết
còn việc chỉ định trọng tài viên hoặc thay đổi trọng tài viên mà vụ tranh chấp
được giải quyết tại trung tâm trọng tài thì do Chủ tịch Trọng tài quyết định.
Việc thay đổi trọng tài viên (Hội đồng trọng tài vụ việc thuộc thẩm quyền của

tòa án là tòa án nơi có Hội đồng giải quyết tranh chấp thực hiện (điểm b khản
2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại).
3. Về việc triệu tập người làm chứng
Đây là một điểm mới trong Luật Trọng tài thương mại 2010, theo Điều 48 thì
Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên hợp
giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng
trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên hợp và không có lý do chính
đáng về việc vắng mặt của họ gây ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp,
thì Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu
tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài. Trình tự thủ tục
yêu cầu tòa án triệu tập người làm chứng được thực hiện theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự; người làm chứng có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành
quy định của tòa án.
4. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc
Theo Điều 62 của Luật Trọng tài thương mại thì tòa án nơi Hội đồng trọng tài
vụ việc đã ra phán quyết trước khi yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức
thi hành án sẽ có đơn yêu cầu tòa án xem xét phán quyết trọng tài vụ việc.
Trình tự, thủ tục đăng ký phán quyết trọng tài:

5


- Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn đăng ký phán
quyết, Chánh án tòaán nhân dân (nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán
quyết) chỉ định 1 thẩm phán xem xét đơn đăng ký phán quyết) chỉ định
1 thẩm phán xem xét đơn đăng ký phán quyết.
- Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải
kiểm tra tính xá thực việc thực hiện theo đơn và thực hiện việc đăng ký.
- Trong trường hợp xác định phán quyết trọng tài không có thật thì thẩm
phán từ chối đăng ký, trả lại đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo, đồng

thời thông báo ngày cho bên có yêu cầu biết và nêu rõ lý do trong thời
hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thông báo thì người yêu cầu đăng ký
phán quyết trọng tài có quyền khiếu nại với Chánh án tòa về việc từ
chối đăng ký phán quyết trọng tài.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Chánh án
tòa án phải xem xét giải quyết và ra quyết định giải quyết việc khiếu nại.
Quyết định của Chánh án là quyết định giải quyết cuối cùng.
Nội dung đăng ký phán quyết trọng tài được quy định như sau:
-

Thời gian, địa điểm thực hiện việc đăng ký.
Tên tòa án tiến hành việc đăng ký.
Họ, tên, địa chỉ của bên yêu cầu thực hiện việc đăng ký.
Phán quyết được đăng ký.
Chữ ký của người có thẩm quyền và đóng dấu của tòa án.

Đây là một chế định hoàn toàn mới của Luật Trọng tại thương mại năm 2010,
do đó cần được Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan có nghị
quyết, văn bản hướng dẫn cụ thể.
5. Hủy phán quyết trọng tài
Theo Điều 69 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì toàn án có thẩm
quyền xem xét việc hủy quyết định trọng tài khi có yêu cầu của một bên nếu
có căn cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

6


- Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp
với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của luật này.

- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trong
trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền
của trọng tài thì nội dung đó bị hủy.
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam có liên quan.
Thời hạn yêu cầu để hủy quyết định trọng tài là 30 ngày kể từ ngày nhận
được phán quyết trọng tài.
Theo Điều 71 của Luật Trọng tài thương mại thì khi một hoặc các bên có
yêu cầu hủy quyết định trọng tài phải có đơn gửi đến tòa án với các nội
dung chủ yếu như sau:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn
+ Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu
+ Yêu cầu và căn cứ hủy phán quyết trọng tài
Cùng với việc đưa đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài thì còn phải gửi
kèm theo các tài liệu chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên có
yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Trừ trường hợp khi phán quyết trọng tài
trái ngược với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam có liên quan thì
trách nhiệm chủ động xác minhthu thập chứng cứ để quyết định hủy hay
không hủy phán quyết trọng tài thuộc về tòa án. Ngoài ra bên yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài còn phải nộp bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng
tài đã được chứng thực hợp lệ; bản chính hoặc bản sao trọng tài được
chứng thực hợp, các giấy tờ tài liều kèm theo đơn yêu cầu nếu bằng tiếng
nước ngoài thì phải dịch ra tiếng Việt Namvà bản dịch phải được chứng
thực hợp lệ.
7


Tại Điều 72 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định về thủ
tục tòa án xét đơn yêu cầu phán quyết trọng tài cụ thể như sau:

- Sau khi thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, tòa án có thẩm
quyền thông báo ngay cho trung tâm trọng tài hoặc các trọng tài việc
của trọng tài vụ việc và các bên có tranh chấp.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý, Chánh án tòa án chỉ
định một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba thẩm phán, trong đó có một
thẩm phán làm chủ tọatheo sự phân công Chánh án tòa án.
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu
cầu phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Tòa
án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời
hạn 7 ngày làm việc trước ngày mở phiên hợp. Hết thời hạn này, Viện
kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho tòa án để mở phiên họp xem xét đơn
yêu cầu.
- Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các bên đang tranh chấp,
luật sư của các bên (nếu có), kiểm sát viên Viện kiểm sát cung cấp.
Trường hợp một trong các bên yêu cầu Hội đồng xét đơn vắng mặt hoặc
đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc
tới phiên họp mà không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp mà
không được Hội đồng xét đơn yêu cầu chấp nhận thì Hội đồng vẫn tiến
hành xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài.
- Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu không xét xử lại nội
dung vụ tranh chấp đã được Hội đồng trọng tài giải quyết mà chỉ kiểm
tra, đối chiếu phán quyết của Hội đồng trọng tài và các tài liệu kèm theo
với các căn cứ quy định tại Điều 69 của Luật này để quyết định.
- Hội đồng xét đơn yêu cầu có quyền ra quyết định hủy hoặc không hủy
phán quyết trọng tài. Trong trường hợp bên yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài rút đơn hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý

8



do chính đáng hoặc rời phiên họp mà không được Hội đồng xét đơn yêu
cầu chấp thuận thì Hội đồng ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu.
- Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, tòa án gửi
quyết định cho các bên, trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên trọng tài
vụ việc và Viện kiểm sát cung cấp.
- Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu
cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài trong thời hạn không quá sáu mươi ngày để tạo điều kiện
cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tàitheo quan điểm
của Hội đồng trọng tài để lại bỏ căn cứ để huỷ bỏ phán quyết trọng tài.
Hội đồng trọng tài phải thông báo ý kiến của mình cho tòa án biết về
việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài không
tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài.
- Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết
trọng tài, các bên có thể thỏa thuận đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết
tại trọng tài hoặc tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không
hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.
- Trong mọi trường hợp, thời gian giải quyết tranh chấp tại trọng tài, thời
gian tiến hành thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại tòa án không tính vào
thời hiệu khởi kiện.
- Quyết định của tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
- Quyết định của tòa án được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự nếu có đủ căn cứ cho
thấy quyết định của Tòa án là vi phạm nghiêm trọng pháp luật làm ảnh
hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên hoặc có tình tiết mới là
căn cứ để hủybỏ quyết định đó.
Luật Trọng tài thương mại có điểm mới là: Việc tòa án xem xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài chỉ tiến hành ở một cấp xét xử duy nhất là tòa án
9



tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán
quyết trọng tài. Nếu không thống nhất với phán quyết của tòa án thì các bên có
thể yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có tình tiết mới.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tòa án và cơ quan thi hành án có
nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động trọng tài thương mại. Song thực tế hiện nay, hoạt
động hỗ trợ của Tòa án chưa thực sự phát huy vai trò của nó, sự hỗ trợ của tòa
án đối với trọng tài chưa được toàn diện, hiệu quả, thiếu hiệu lực và đặt trọng
tài vào vị trí bất lợi nhiều hơn so với tòa án, thể hiện ở những điểm sau:
1. Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên
Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay đổi
Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Bởi, theo quy định tại khoản 4 Điều 42
Luật Trọng tài thương mại năm 2010, các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng
tài từ chối giải quyết tranh chấp hoặc các bên tranh chấp là những chủ thể có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy
định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi
Trọng tài viên (là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu) mà không có
quy định về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này, sẽ là
“nguy cơ” làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có
quyền yêu cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án
không có thẩm quyền trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không
có Trọng tài viên thay thế.
Tại Điều 9 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, có hướng dẫn về thay đổi Trọng
tài viên trọng tài vụ việc quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật Trọng tài thương
mại năm 2010, nhưng vẫn chưa quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu
cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên
10



thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và
các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của
mình (khoản 2 Điều 42 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Các bên chỉ có
quyền gửi yêu cầu thay đổi trọng tài viên trong thời hạn cho phép. Hết thời
hạn theo quy định mà các bên không đưa ra yêu cầu thay đổi Trọng tài viên thì
họ sẽ mất quyền yêu cầu. Điều này vừa có tác dụng bảo đảm quá trình tố tụng
vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên, buộc họ phải theo dõi quá
trình thành lập Hội đồng trọng tài cũng như trong suốt quá trình giải quyết.
Bởi thực tế nhiều trường hợp khi một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách
nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức
trọng tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài theo
ý chí của mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị đơn)
không muốn tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó, họ không
đáp lại yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau đó, họ lại tìm
cách trì hoãn tố tụng bẳng cách yêu cầu thay đổi Trọng tài viên. Do vậy, việc
quy định cụ thể về thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến
Tòa án có thẩm quyền sẽ hạn chế được tình trạng này.
6. Việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp
mất nhiều thời gian hơn so với Tòa án
Trọng tài không phải cơ quan được giao quyền lực cưỡng chế của Nhà nước,
nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu xuất hiện trường hợp cần áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trọng tài không thể ra quyết định mang tính
chất bắt buộc thực hiện mà phải yêu cầu Tòa án thực hiện thay theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự (Điều 50, 51, Luật Trọng tài thương mại
năm 2010). Điều này khiến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất thêm
thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một bên thực hiện một số

11



hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi hành phán quyết sau
này.
Bên cạnh đó, Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra, xác
minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Tuy pháp luật có quy định
trong các điều 45, 46, 47 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nhưng quyền
của họ chỉ dừng lại ở “yêu cầu” còn việc cung cấp hay không thì phụ thuộc
vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm chứng.
7. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định rất thận trọng khi cho các bên
có thể lựa chọn Tòa án hoặc Hội đồng trọng tài để yêu cầu thực hiện các biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Nhằm tránh tình trạng ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời chồng chéo lẫn nhau mà vẫn đảm bảo tính kịp thời.
Tuy nhiên, quy định này hiện còn nhiều ý kiến trái chiều khác nhau. Cụ thể:
Luật cho phép các bên yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
thì tất nhiên sẽ có những trường hợp Tòa án tích cực, có trách nhiệm ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu nhưng cũng
sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho Hội đồng trọng tài với lí
do bản thân Hội đồng trọng tài cũng có quyền ra quyết định thực hiện các biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Hoặc ngược lại, cũng có trường hợp giữa Toà án và
Hội đồng trọng tài “tranh nhau” ra quyết định thực hiện với yêu cầu của hai
bên đương sự, khi mà theo quy định của pháp luật thì bên nào nhận việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước thì bên đó sẽ thực hiện, bên kia không
có quyền thực hiện để tránh chồng chéo, trên thực tế trong một số trường hợp,
có thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại Trung tâm trọng
tài và làm đơn gửi Tòa án yêu cầu ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của Điều 53 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, như

12



vậy, người yêu cầu sẽ không phải mất thời gian chờ thành lập Hội đồng trọng
tài, quyết định của Tòa án được thi hành triệt để hơn. Trong khi đó, lại khó
tránh tình trạng mỗi bên yêu cầu một cơ quan giải quyết, gây ra tình trạng
“tranh nhau” thực hiện dù có thể chưa thực sự cần thiết phải áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời.
Dù Hội đồng trọng tài cũng được giao quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời nhưng trên thực tế việc thực hiện thường khó khăn. Tuy Hội đồng trọng
tài có quyền yêu cầu bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số
biện pháp khẩn cấp tạm thời như bảo toàn chứng cứ, bảo quản tài sản,...Nhưng
trên thực tế quy định này lại phụ thuộc vào thiện chí các bên khi mà Hội đồng
trọng tài không có quyền lực cưỡng chế thi hành. Trong khi đó, việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nặng tính cưỡng chế, do cơ quan chức năng
thực hiện theo Luật định, chứ Hội đồng trọng tài không thể làm được. Cũng có
ý kiến cho rằng theo thông lệ quốc tế, trọng tài không có thẩm quyền áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trọng tài chỉ ra văn bản yêu cầu áp dụng và gửi
sang Tòa án để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
8. Về quy định Tòa án xét đơn hủy phán quyết của trọng tài
Theo quy định tại Điều 68 và Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010,
thì Tòa án không xem xét lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã
giải quyết, mà chỉ xem xét các vấn đề về tố tụng trọng tài đúng hay không
đúng để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.
Thực tế cho thấy, thời gian qua một số quyết định của Tòa án hủy quyết định
của trọng tài gây thiệt hại cho quyền lợi của đương sự vì theo quy định tại
khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, quyết định hủy hoặc
không hủy phán quyết trọng tài của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu
lực thi hành. Do đó, đương sự, Hội đồng trọng tài không có quyền kháng cáo

13



theo thủ tục phúc thẩm hoặc khiếu nại, kiến nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
tái thẩm đối với phán quyết của Tòa án. Vấn đề có xem xét lại quyết định của
Tòa án hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm hay không đã được đặt ra từ thực tiễn.
Có ý kiến cho rằng, theo quy định của khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, quyết định của Tòa án về việc hủy hoặc không hủy
phán quyết trọng tài là quyết định có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng vẫn có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc tình
tiết mới. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013: “Toà án
nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án khác, trừ trường hợp
luật định”. Đồng thời, theo quy định của khoản 2 Điều 17 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015: “Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Mặt khác,
theo tinh thần quy định của khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp
luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”. Do vậy,
nếu hiểu quy định của khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm
2010, theo hướng không áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
quyết định của Tòa án thì có thể sẽ vi hiến. Từ đó, quyết định của Tòa án trong
trường hợp này vẫn cần thiết phải được xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm nếu có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới để đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
Quan điểm này là hoàn toàn hợp lý, theo đó cần phải xem xét lại các
quyết định của Tòa án trong trường hợp phán quyết của Tòa án có sai sót làm
14



ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên đương sự là chính đáng và thể
hiện bản chất của Nhà nước ta, vì Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (khoản 2 Điều 2 Hiến
pháp năm 2013) đã khẳng định. Do vậy, trên cơ sở các quy định pháp luật hiện
hành, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, đề xuất sửa đổi
quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, theo
hướng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy
định của BLTTDS năm 2015 đối vối quyết định của Tòa án về việc hủy phán
quyết của Hội đồng trọng tài.

KẾT LUẬN
Nếu như trên thế giới, việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng
tài là phương thức được các doanh nghiệp ưa chuộng nhất thì tại Việt Nam,
còn ít doanh nghiệp biết đến trọng tài thương mại và chưa mặn mà với cơ chế
giải quyết này hoặc bỏ qua cơ chế giải quyết bằng trọng tài để tìm đến sự can
thiệp của cơ quan tài phán nhà nước là Tòa án. Điều này đang đi ngược lại với
thông lệ quốc tế, nhất là trong thời buổi Việt Nam đang hội nhập sâu và rộng
vào nền kinh tế thế giới như hiện nay. Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, để
đẩy mạnh và phát huy được những ưu thế của trọng tài thương mại Việt Nam
đòi hỏi phải có sự quan tâm, nỗ lực của toàn Đảng, Nhà nước và các Bộ,
ngành có liên quan, kết hợp với trang bị kiến thức cơ bản cho các doanh
nghiệp về Trọng tài thương mại. Có như vậy, hoạt động trọng tài của ta mới có
thể phát triển một cách phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, từ đó tạo
nền tảng pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp bước vào sân chơi hội nhập.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
15



1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2),
Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
2) Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb.
Giáo dục, 2008.
3) Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của
trọng tài thương mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2005.
4) Nguyễn Viết Tý, Sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam, Khoa Luật ĐHQGHN, 2011.
5) Luật thương mại năm 2005.
6) Luật trọng tài thương mại năm 2010.
7) />
16



×