Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa ở bê, nghé nuôi tại huyện bình gia tỉnh lạng sơn và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––

NÔNG NGỌC THẮNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH
GIUN ĐŨA Ở BÊ, NGHÉ NUÔI TẠI HUYỆN BÌNH GIA,
TỈNH LẠNG SƠN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

THÁI NGUYÊN - 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––

NÔNG NGỌC THẮNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH
GIUN ĐŨA Ở BÊ, NGHÉ NUÔI TẠI HUYỆN BÌNH GIA,
TỈNH LẠNG SƠN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.64.01 .01

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ QUỐC TUẤN


THÁI NGUYÊN - 2016


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng
cho bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều
đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được
ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả

Nông Ngọc Thắng


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng
nghiệp, bạn bè; sự động viên khích lệ của gia đình để tôi hoàn thành luận văn
này. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Tập thể khoa sau Đại học - Trường Đại học nông lâm Thái Nguyên đã
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn
Thạc sỹ Thú y.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đỗ Quốc Tuấn đã
tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn các anh, chị em, các bạn bè đồng nghiệp Lãnh
đạo Trạm Thú y Bình Gia, Ban lãnh đạo Chi cục Thú y tỉnh Lạng Sơn đã
nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin cảm ơn UBND các xã: Tô Hiệu, Hoàng Văn Thụ, Tân
Văn, Thiện Thuật, Thiện Hòa, Hòa Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin được dành lời cảm ơn tới gia đình, những người thân đã
động viên, chia sẻ với tôi trong suốt khoá học và thực hiện luận văn này.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận văn

Nông Ngọc Thắng


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. v
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. vi
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ........................................................................ 3
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ........................................................ 17
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .................................................... 18
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG

PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................ 21
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 21
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu. ............................................................. 21
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 21
2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa ở bê, nghé nuôi tại
huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn ..................................................................... 21
2.3.2. Nghiên cứu bệnh lý và lâm sàng của bê, nghé bị bệnh giun đũa ......... 22
2.3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa ở bê, nghé................. 22
2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu ....................................... 22
2.4.1. Bố trí điều tra và phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh
giun đũa ở bê, nghé nuôi tại huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn ......................... 22
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh lý và lâm sàng của bê, nghé bị bệnh
giun đũa ....................................................................................................... 28


iv
2.4.3. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trị
bệnh giun đũa ở bê, nghé .............................................................................. 29
2.5. Phương pháp sử lý số liệu...................................................................... 30
2.5.1. Đối với các tính trạng định tính như: tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm
giun đũa được tính theo công thức ............................................................... 30
2.5.2. Đối với các tính trạng định lượng như số lượng trứng và số lượng
trứng có sức gây bệnh giun đũa bê nghé được tính theo công thức ........... 30
2.5.3. So sánh mức độ sai khác giữa các số trung bình ................................ 31
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ....................... 33
3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa ở bê, nghé nuôi
tại huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn ................................................................ 33
3.1.1. Nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa ở bê, nghé ................................ 33
3.1.2. Nghiên cứu sự phát triển của trứng giun đũa bê nghé và sự tồn tại
của trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh ....................................................... 49

3.2. Biểu hiện lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé ..................................... 55
3.2.1. Ảnh hưởng của giun đũa trong hội chứng tiêu chảy của bê, nghé ..... 55
3.2.2. Tỷ lệ bê nghé có biểu hiện lâm sàng khi bị bệnh giun đũa .................. 59
3.2.3. Bệnh lý và lâm sàng của bê, nghé bị bệnh giun đũa ............................ 60
3.3. Nghiên cứu và đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun đũa bê nghé......... 60
3.3.1. Khả năng diệt trứng và trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh
của thuốc sát trùng ....................................................................................... 60
3.3.2. Hiệu lực thuốc tẩy giun đũa bê, nghé .................................................. 62
3.3.3. Đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun đũa cho bê, nghé ..................... 63
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 68
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA ........................................................... 60


v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê tại huyện Bình Gia tỉnh
Lạng Sơn ..................................................................................... 33
Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé tại huyện Bình Gia
tỉnh Lạng Sơn .............................................................................. 34
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê theo mùa vụ ................... 37
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé theo mùa vụ .............. 38
Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê theo tuổi ....................... 40
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé theo tuổi ................... 41
Bảng 3.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê theo tính biệt ................ 44
Bảng 3.8. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé theo tính biệt ............ 45
Bảng 3.9. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê theo tình trạng vệ sinh
trong chăn nuôi ............................................................................ 46
Bảng 3.10. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé theo tình trạng vệ
sinh trong chăn nuôi .................................................................... 47

Bảng 3.11. Tình trạng ô nhiễm trứng giun đũa bê, nghé ở chuồng trại và
khu vực xung quanh chuồng trâu, bò ........................................... 49
Bảng 3.12. Sự phát tán trứng giun đũa bê, nghé ở khu vực bãi chăn thả
trâu, bò ........................................................................................ 50
Bảng 3.13. Sự phát triển của trứng giun đũa bê, nghé trong phân thành
trứng có sức gây bệnh .................................................................. 52
Bảng 3.14. Khả năng tồn tại của trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh
trong phân .................................................................................... 54
Bảng 3.15. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê bình thường và tiêu chảy .....56
Bảng 3.16. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở nghé bình thường và
tiêu chảy .............................................................................. 57
Bảng 3.17. Tỷ lệ bê nghé có biểu hiện lâm sàng của bệnh giun đũa 59
Bảng 3.18. Khả năng diệt trứng mới theo phân ra ngoàivà trứng giun đũa
bê, nghé có sức gây bệnh của thuốc sát trùng ............................... 61
Bảng 3.19. Hiệu lực của một số thuốc tẩy giun đũa bê, nghé ....................... 62


vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ vòng đời của Neoascaris vitulorum ...................................... 8
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê nghé theo mùa vụ trong năm ......... 40
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo lứa tuổi ................... 43
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo tính biệt .................. 46
Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo tình trạng vệ sinh
thú y ............................................................................................ 48
Hình 3.5. thể hiện rõ hơn về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê bình thường và bê
tiêu chảy ...................................................................................... 57
Hình 3.6. Thể hiện rõ hơn về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở nghé bình thường và
tiêu chảy ...................................................................................... 58



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây việc phát triển đàn trâu, bò về cả số lượng
lẫn chất lượng là một vấn đề quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm
cho người tiêu dùng, ổn định nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống xã
hội. Tuy nhiên, các bệnh xảy ra ở lứa tuổi bê, nghé đã gây ảnh hưởng rất
lớn đến công tác phát triển chăn nuôi trâu bò, trong đó phải kể đến bệnh
giun đũa ở bê, nghé.
Bệnh giun đũa ở bê, nghé nói riêng và bệnh ký sinh trùng nói chung
không gây thành ổ dịch lớn như các bệnh do vi khuẩn và virus, Nhưng nó
thường kéo dài âm ỉ, làm giảm năng suất chăn nuôi, ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng và phát triển của bê, nghé.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2015) [12], Phan Địch Lân và cs
(2005) [14], bệnh do giun Neoascaris vitulorum gây ra, chúng ký sinh trong
ruột non của bê, nghé và gây ra các tác hại như: gây tổn thương ruột non,
một số cơ quan (gan, phổi,…) do ấu trùng di hành, giun lấy chất dinh
dưỡng làm cho bê, nghé gầy còm, chậm lớn. Ngoài ra giun đũa còn tiết độc
tố làm cho bê, nghé bị trúng độc, sốt cao, ỉa chảy, gầy sút và dễ chết nếu
không được điều trị kịp thời.
Lạng Sơn là một tỉnh nông lâm nghiệp thuộc miền núi phía bắc của Việt
Nam có các cửa khẩu thông thương với thị trường lớn Trung Quốc, đặc điểm
địa hình thấp với 68% tổng diện tích đất tự nhiên là đồi núi đất. Yếu tố khí
hậu thổ nhưỡng trong vùng tạo cho Lạng Sơn có thảm thực vật phong phú,
bao gồm những đồi cỏ rộng lớn, những bụi cây và thảm cỏ xen kẽ trong cánh
rừng trong đó có huyện Bình Gia. Những đặc điểm trên tạo cho Lạng Sơn có
tiềm năng lớn và vị thế thuận lợi để phát triển chăn nuôi trâu bò, bê, nghé.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về bệnh giun đũa bê

nghé và biện pháp phòng trị vẫn chưa được chú ý. Vì vậy, bê nghé ở các địa


2
phương của tỉnh Lạng Sơn còn bị bệnh phân trắng, tiêu chảy do giun đũa
nhiều, gây thiệt hại kinh tế đáng kể. Trong mấy năm gần đây, điều kiện tự
nhiên và thời tiết khí hậu ở nước ta nói chung và ở các tỉnh miền bắc nói riêng
trong đó có Lạng Sơn có nhiều biến đổi. Điều đó có thể ảnh hưởng và làm
thay đổi quy luật sinh tồn của ký sinh trùng, từ đó ảnh hưởng đến đặc điểm
dịch tễ của bệnh.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế chăn nuôi ở tỉnh Lạng Sơn và
những vấn đề đề cập ở trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu một số
đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa ở bê, nghé nuôi tại huyện Bình Gia tỉnh
Lạng Sơn và biện pháp phòng trị"
.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu để bổ sung những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
học của bệnh giun đũa ở bê, nghé trong điều kiện sinh thái hiện nay.
- Xây dựng biện pháp phòng chống bệnh giun đũa ở bê, nghé để hạn chế
tỷ lệ nhiễm giun đũa, giảm thiệt hại do bệnh giun đũa gây ra, góp phần phát
triển chăn nuôi trâu bò tại tỉnh Lạng Sơn.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài làm hoàn thiện hơn những thông tin khoa học về bệnh
giun đũa ở bê, nghé nuôi tại huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn, đồng thời là cơ
sở khoa học để xây dựng biện pháp phòng trị bệnh giun đũa cho bê, nghé.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa vào kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi trâu
bò áp dụng biện pháp phòng trị bệnh giun đũa cho bê, nghé, nhằm hạn chế tỷ
lệ nhiễm giun đũa, hạn chế thiệt hại do giun đũa gây ra, góp phần nâng cao

hiệu quả chăn nuôi, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bình Gia
nói riêng và cho toàn tỉnh Lạng Sơn.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé
Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris vitulorum gây ra, thường xảy ra
hầu khắp các nơi trên thế giới.
Theo Panday V.S. và cs (1990) [51], kiểm tra phân của 20 bê nghé trong
giai đoạn 15 - 20 ngày tuổi ở đồng cỏ Zimbabwe, thấy trứng giun có trong
phân, số trứng đếm được từ 257 - 19821 trứng /gam phân.
Akyol C.V. (1993) [42] cho biết, bê ở khu vực Barsa (Thổ Nhĩ Kỳ) bị
nhiễm Neoascaris vitulorum phổ biến qua việc kiểm tra trứng trong phân. Ấu
trùng cũng được tìm thấy trong mẫu sữa. Đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun
nên làm bê nghé bị nhiễm bệnh nhanh. Tỷ lệ nhiễm bệnh giữa các vùng sinh
thái khác nhau là khác nhau.
Starke W.A., Machado R.Z., Becchara G.H. và Zocoller M.C. (1996)
[54] đã kiểm tra 75 mẫu phân bê nghé từ 9 - 115 ngày tuổi, thấy có 86,7% bê
nghé nhiễm giun đũa. Số lượng trứng cao nhất khi 45 ngày tuổi.
Theo Roberts J.A. (1990) [53], tỷ lệ chết của nghé trong 6 tháng đầu sau
khi sinh ở vùng Đông Nam Á tới 30% do giun Neoascaris vitulorum và S.
papillosus.
Gupta và cs (1985) [47] cho biết, trong 1626 bê ở bang Haryana (Ấn Độ)
có 55,8% bị nhiễm ký sinh trùng, bao gồm: giun móc 44,2%; giun đũa 15,2%;
giun đầu gai 6,2%. Tỷ lệ nhiễm trong mùa thu (62,8%) cao hơn trong mùa
xuân (54,2%), mùa hè (52,4%) và mùa đông (52,2%). Trong 2411 nghé ở

Bang Haryana có 62,9% nhiễm ký sinh trùng, trong đó giun đũa là 29,1%;
giun móc 20,7%; giun đầu gai 9,2% và cầu trùng 5,2%. Tỷ lệ nhiễm trong
mùa thu (69,8%) và mùa hè (67,8%), cao hơn mùa xuân (51,9%) và mùa
đông (56,3%).
Ở Việt Nam, bệnh giun đũa bê, nghé là một bệnh rất phổ biến. Nghé có
triệu chứng đặc trưng là phân có màu trắng, nên nhân dân thường gọi là bệnh


4
"Nghé ỉa phân trắng". Năm 1923, Phạm Văn Long đã thông báo về một ca
bệnh trên nghé. Nhưng đến đầu năm 50, bệnh này mới thực sự được chú ý vì
nó gây thiệt hại lớn cho đàn trâu sinh sản ở miền núi.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết bệnh giun đũa bê, nghé thấy ở
tất cacr các nước trên thế giới. Ở các nước nhiệt đới tỷ lệ nhiễm giun đũa ở
bê, nghé cao, gây nhiều thiệt hại. Ở Việt Nam bệnh thấy nhiều ở bê, nghé nội:
bê, nghé của các giống trâu, bò nhập nội hướng thịt và sữa. Ở các cơ sở nuôi
bò sữa ở Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phúc, bê bị nhiễm giun đũa từ 10 - 18%.
Bệnh thấy ở bê, nghé tại tất cả các vùng miền núi, trung du và đồng
bằng, nhưng phổ biến nhất là nghé ở miền núi. Ở miền núi nước ta, trâu, bò
thường đẻ vào tháng 11, 12 và tháng 1, do vậy bệnh thường phát vào tháng
12, 1 và tháng 2.
Trứng giun đũa có sức gây bệnh đề kháng mạnh với điều kiện ngoại
cảnh trứng chỉ bị diệt ở nhiệt độ 450C trở lên và dưới ánh nắng mặt trời chiếu
trực tiếp.
Mùa đông thiếu cỏ, trâu, bò mẹ không đủ sữa cho con bú nên bê, nghé dễ
mắc bệnh.
Tỷ lệ nhiễm: Theo số liệu thống kê có 39,1% nghé đẻ ra bị nhiễm bệnh,
số chết chiếm 3,8% so với số nghé mắc bệnh. Lê Thị Thanh Nhàn (2008)
[26], bê, nghé ở Tuyên Quang nhiễm giun đũa với tỷ lệ 32, 89% trong đó bê,
nghé bình thường nhiễm 27,87%, bê, nghé tiêu chảy chiếm 51,56%.

Phùng Quốc Quảng và cs (2006) [28] cho biết, bệnh giun đũa ở bê phổ
biến ở lứa tuổi 20 - 25 ngày sau khi đẻ. Bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới.
Ở nước ta, bệnh thường phát vào mùa rét, tại các vùng nuôi bò thuộc đồng
bằng trung du, miền núi. Bệnh phổ biến hơn ở miền núi vì bê thường thả
rông đi theo mẹ đi ăn.
Tô Du (2005) [4] cho biết, bệnh giun đũa ở bê nghé hay mắc từ 15 - 60
ngày tuổi vì trong đất nền chuồng, hoặc ngoài bãi cỏ có dính trứng giun đũa,


5
bê nghé khi gặm cỏ liếm phải rồi mắc bệnh. Bệnh thường gặp nhiều ở nghé
đẻ vào vụ Đông - Xuân.
Bệnh giun đũa bê nghé thường thấy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở các
vùng chăn nuôi trâu bò thuộc miền núi, trung du, đồng bằng và ở các cơ sở
chăn nuôi trâu bò sữa (Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 1999 [18]).
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [22] cho biết bê nghé nuôi ở vùng
núi bị bệnh giun đũa nhiều hơn so với vùng trung du và đồng bằng. Ở nước ta
bê, nghé thường bị bệnh vào tháng 12, 1, 2 hàng năm (vụ Đông - Xuân), do
trâu bò thường đẻ vào các tháng 11, 12, 1. Bê, nghé mắc bệnh giun đũa sớm
nhất là 14 ngày tuổi, nhiều nhất ở lứa tuổi 30 - 45 ngày tuổi và muộn nhất ở
65 ngày tuổi, trâu bò không mắc bệnh.
1.1.2. Đặc điểm sinh học của giun đũa ký sinh ở bê, nghé
1.1.2.1. Vị trí của giun đũa bê, nghé trong hệ thống phân loại động vật.
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977) [39], giun đũa bê nghé có vị trí trong
hệ thống phân loại động vật học như sau:
Nghành Nemathelminthes Schneider, 1873
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân Lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Ascaridida Skrjabin et Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915

Họ Anisakidae Skrjabin et Karokhin, 1945
Giống Neoascaris Travassos, 1927
Loài Neoascaris vitulorum Goeze, 1782.
1.1.2.2. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum.
Theo Lê Hữu Khương (2012)[10]; Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [12];
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết giun tròn Neoascaris vitulorum có
thân màu vàng nhạt, đầu có ba lá môi, rìa của những môi này có răng cưu ,
thực quản dài 3 - 4,5 mm, chỗ nối tiếp với ruột phình thành dạ dày nhỏ, vòng


6
thần kinh và lỗ bài tiết ở ngang nhau phần đầu. Giun đực không có cánh đuôi,
dài 13 - 15 cm, rộng nhất 0,35 cm, đuôi dài 0,21 - 0,46 mm, thon tròn, trước
và sau hậu môn ở phía bụng có 20 - 27 gai, có một đôi gai giao hợp dài 0,95 1,20 mm. Giun cái dài 19 - 23 cm, chỗ rộng nhất là 0,5 cm, âm hộ ở khoảng
1/8 trước thân, đuôi hình nón dài 0,37 - 0,42 mm, đuôi có nhiều gai bao phủ.
Trứng giun hơi tròn, có vỏ với nhiều chỗ lõm nhỏ, dài 0,080 - 0,090 mm,
rộng 0,070 - 0,075 mm.
Phan Lục (2005) [23] cho biết , giun đũa có kích thước to, vàng nhạt, dài
13 - 22 cm,, trên đầu có 3 môi. Thực quản hình ống dài, phần cuối có chỗ
phình to ra gọi là dạ dày giả . Xung quanh lỗ hậu môn của giun đực có nhiều
gai chồi, có hai gai giao hợp to bằng nhau. Trứng có 4 lớp vỏ màu nhạt, lớp
ngoài cùng lỗ chỗ như tổ ong, trứng dài 0,08 - 0,09 mm, rộng 0,07 - 0,75 mm.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [21] đã mô tả cấu tạo của giun đũa: Giun
đực dài 110 - 189 mm, rộng nhất 3,52 - 4,81 mm; đuôi dài 0,21 - 0,46 mm,
thon dần về cuối mút; thực quản dài 4,49 mm; gai sinh dục dài 0,57 - 1,19
mm, có màng mỏng bao bọc; ở phía trước hậu môn có 20 - 27 nhú xếp thành
2 hàng, sau hậu môn có 5 đôi nhú, đôi nhú thứ nhất kép. Giun cái dài 151 200 mm, rộng 4,0 - 5,7 mm; đuôi hình nón, phủ nhiều gai, dài 0,37 - 0,42
mm; gần mút đuôi có 2 nhú bên; lỗ sinh dục nằm ở phần trước cơ thể, cách
mút đầu khoảng 1/10 - 2/10 chiều dài cơ thể; trứng hình cầu kích thước 0,076
- 0,095 x 0,065 - 0,080 mm.

Theo mô tả của Urquhart G.M. và cs (1996) [56] thì giun đũa T.
viturlorum là ký sinh trùng đường ruột lớn nhất của ở bê nghé, giun cái dài có
thể đến 30,00 cm. Giun đũa có thân dày, màu hơi hồng khi còn sống, và lớp
biểu bì khá trong suốt nên có thể nhìn thấy được các cơ quan nội tạng, trứng
giun đũa có một lớp vỏ dày và trong suốt.
1.1.2.3. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum
Vòng đời của giun đũa bê nghé không cần ký chủ trung gian. Nếu cho bò
mẹ trước khi đẻ 124 - 192 ngày nuốt trứng giun có súc gây bệnh thì bê đẻ ra


7
20 - 31 ngày trong phân đã có trứng giun đũa. Điều đó chứng tỏ giun đũa bê,
nghé có thể qua máu truyền vào bào thai. Ở trâu mẹ thời kỳ chửa đầu nuốt
trứng giun cảm nhiễm thì tất cả nghé đẻ ra đều bị nhiễm giun qua nhau thai.
Giun đũa bê, nghé nhiễm vào cơ thể bằng 2 con đường nhiễm trực tiếp và
nhiễm qua bào thai (Nguyễn Hùng Nguyệt và cs, 2008 [24]).
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết giun cái đẻ trứng ở ruột non,
trứng theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ và độ ẩm thích hợp, phát triển thành
trứng có sức gây bệnh (ở t0 15 - 170C cần 38 ngày, 19 - 220C cần 20 ngày,
250C cần 10 - 12 ngày, 28 - 300C cần 7 ngày, 31 - 320C cần 6 ngày. Nhưng ở
nhiệt độ 34 - 350C thì trứng không phát triển). Bê, nghé mắc bệnh giun đũa
do 2 cách nhiễm;
- Nhiễm trực tiếp: Bê, nghé nuốt trứng giun đũa, trứng nở thành ấu trùng
ở ruột non, chui vào mạch máu, niêm mạc, theo máu về gan. Một số ít chui
vào ống lâm ba màng treo ruột, vào tĩnh mạch màng treo ruột rồi vào gan, sau
khi nhiễm 4 - 5 ngày hầu hết ấu trùng di hành tới phổi sớm nhất là sau 18 giờ,
muộn nhất là sau 12 ngày vẫn có ấu trùng ở phổi, khi đi tới phổi ấu trùng lột
xác thành ấu trùng kỳ 3, ấu trùng này từ mạch máu phổi chui vào phế bào,
qua khí quản rồi cùng với niêm dịch ấu trùng lên hầu, được nuốt xuống ruột
non, lột xác lần nữa và phát triển thành trứng trưởng thành.

- Nhiễm qua bào thai: Nếu cho bê nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh
thì sau 43 ngày có thể thầy giun đua trưởng thành ở cơ thể bê. Ngoài ra nếu
cho bò mẹ trước khi đẻ 124 - 129 ngày nuốt trứng giun có sức gây bệnh thì bê
đẻ ra 20 -31 ngày trong phân đã có trứng giun đũa. Điều đó chứng tỏ, giun
đũa bê, nghé có thể từ cơ thể mẹ truyền vào bào thai.
Phạm Sỹ Lăng (2005) [15] cũng cho biết, bệnh giun đũa bê, nghé lây
nhiễm qua 2 con đường:


8
- Qua đường tiêu hóa do bê, nghé ăn phải trứng giun đũa cảm nhiễm.
- Ấu trùng từ máu trâu bò mang thai xâm nhập vào bào thai.
Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun
trưởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.
Giun đũa có chu kỳ phát triển trực tiếp, không qua ký chủ trung gian.
Giun trưởng thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng, trứng theo phân
ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi thì phát triển thành phôi thai trong trứng.
Trứng có phôi thai là trứng đã có sức gây bệnh. Sau đó trứng này lại vào
cơ thể con vật theo thức ăn, nước uống. Khi mới theo phân ra ngoài trứng
không phân chia. Tuỳ theo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian
trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm có khác nhau.

Hình 1.1. Sơ đồ vòng đời của Neoascaris vitulorum
Galila A.B. và cs (1990) [46] cho biết, ở 250C trứng giun đũa phát triển
thành trứng chứa ấu trùng sau 7 ngày.
Phạm Chức (1980) [3] cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng giun đũa trong
1 giờ; Axit phêníc 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút đến một giờ.


9

Theo Vy Đức Nhật Quang (2014) [27], trứng giun đũa phát dục thành
phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19 - 220C, Nhưng phải cần 38 ngày
ở nhiệt độ 15 - 170C.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [18] cho biết, con cái đẻ trứng
ở ruột non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành
trứng có khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15 - 170C cần 38 ngày, 19 - 220C cần
20 ngày, 250C cần 10 - 12 ngày, 28 - 300C cần 65 ngày, nhưng khi nhiệt độ
đến 34 - 350C thì trứng không phát triển).
Theo Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [22], trứng giun đũa bê, nghé
có sức đề kháng với điều kiện ngoại cảnh, chỉ bị diệt ở nhiệt độ 450C trở lên
và ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp.
Sau khi trứng giun cảm nhiễm vào cơ thể trâu bò mẹ, dưới tác dụng của
dịch vị và dịch ruột non, ấu trùng nở ra và từ ruột non theo mạch máu vào
gan, qua tim lên phổi, ấu trùng đến tim trái và từ đó vào đại tuần hoàn. Phần
lớn ấu trùng đều theo mạch máu đến các mô và phủ tạng, ở đó nó đóng kén và
có thể sống từ 5 đến 6 tháng hay hơn. Trường hợp trâu bò cái nhiễm phải
trứng giun trong thời gian chửa thì ấu trùng có thể qua hệ tuần hoàn của nhau
thai đến bào thai, hoặc có thể trâu bò cái nhiễm trong thời gian không chửa,
ấu trùng đóng kén ở mô và phủ tạng, khi trâu bò chửa ấu trùng thoát ra khỏi
kén theo mạch máu đến nhau thai và vào bào thai.
Kén của ấu trùng có thể thấy ở nhiều mô và phủ tạng của trâu bò mẹ
như: cơ, thận, não, gan, phổi. Ấu trùng có thể sống ở đó 6 tháng. Ở con vật
không chửa, quá thời gian 6 tháng ấu trùng chết. Ở con vật chửa trong vòng 6
tháng, ấu trùng chui ra khỏi kén đi vào nhau thai.
Ở bào thai ấu trùng sống trong gan, ấu trùng sống không biến đổi trong
suốt thời kỳ bào thai còn ở trong tử cung, thời kỳ cuối trước khi đẻ ấu trùng
có thể từ gan lên phổi biến thái một lần. Nhưng nói chung, ở mọi trường hợp,
chỉ sau khi bê nghé được đẻ ra, ấu trùng mới tiếp tục biến thái sau khi hoàn



10
thành một đợt di hành qua phổi, khí quản, ruột giống Như sự di hành của giun
đũa lợn, xuống ruột, giun lớn lên nhanh chóng và phát triển thành giun trưởng
thành đẻ trứng.
Trong điều kiện tự nhiên, ở bê nghé từ 17 ngày tuổi trở lên đã có thể tìm
thấy trứng giun đũa trong phân. Thường tuổi bê, nghé mắc bệnh là 15 - 42
ngày (Boulenger C.L., 1922 [43], đối với một số giun đũa khác như Ascaris
của lợn, người, Parascaris của ngựa, thời gian từ khi con vật bắt đầu cảm
nhiễm trứng giun đũa cho đến khi thành giun trưởng thành có khả năng đẻ
trứng phải tối thiểu trên một tháng. Tuổi mắc bệnh quá sớm của bê nghé làm
người ta nghĩ đến bê nghé có thể mắc bệnh từ khi còn trong bào thai. Mặt
khác, nhiều thí nghiệm: gây bệnh cho bê, nghé một ngày tuổi trở lên nuốt
trứng giun đũa có phôi đều không thành công.
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé
1.1.3.1. Cơ chế sinh bệnh.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11], Tác động cơ giới: Ấu trùng di
hành làm tổn thương phổi, gan. Giun trưởng thành làm tắc ruột non, có khi
làm thủng ruột, chui vào ống dẫn mật, gan.
Tác động do độc tố: Giun tiết chất độc làm bê, nghé trúng độc. Bê, nghé
ỉa lỏng, gầy sút, sốt.
Tác động chiếm dinh dưỡng: Giun lấy dinh dưỡng của ký chủ nuôi bản
thân làm bê, nghé gầy yếu, thiếu máu.
Khi bê nghé nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, sau 43 ngày có
thể thấy giun đũa trưởng thành ở ruột non bê nghé. Trong thời kỳ ấu trùng
giun đũa di hành đến một số khí quan như phổi, gan. Khi giun trưởng thành ở
ruột non số lượng nhiều, vít chặt làm tắc ruột non, có khi làm thủng ruột hoặc
chui vào ống dẫn mật, gan.
Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé bị trúng độc, gây ỉa chảy, gầy sút
nhanh. Giun lấy chất dinh dưỡng làm bê nghé gầy yếu (Lê Hữu Khương



11
(2012) [10]) Giun đũa Neoascaris vitulorum cũng Như các loài giun sán khác,
ngoài tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, còn gây tổn thương
niêm mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá
(E.coli, Salmonella, Proteus...) xâm nhập gây rối loạn quá trình phân tiết,
viêm ruột và tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.
Ngoài ra, giun đũa còn gây viêm ruột cata, một số ít bị biến đổi hoại tử ở
gan. Giun ở trong ống dẫn mật gây viêm có mủ, viêm do tổn thương ở phổi
cũng được phát hiện. Gia súc non mắc bệnh giun đũa bị viêm ruột thứ phát có
thể chết đến 80%.
Đặc điểm chủ yếu của bệnh là gây tiêu chảy song không liên tục, có sự
xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, bê nghé
có biểu hiện nôn từng cơn, kém ăn, thể trạng sa sút. Nếu không phát hiện sớm
và điều trị kịp thời bê nghé chết rất nhanh.
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [36], ấu trùng sau khi xâm nhập vào
cơ thể bê nghé, ấu trùng di hành gây tổn thương nhiều cơ quan. Chúng đem
theo nhiều vi khuẩn, virus gây các truyền nhiễm kế phát. Giun chiếm đoạt
nhiều chất dinh dưỡng, tiết độc tố đầu độc vật chủ làm bê nghé gầy yếu, ỉa
chảy, ỉa phân trắng. Do giun có kích thước lớn, khi ký sinh với số lượng lớn
thường gây tắc ruột, thủng ruột, tắc ống mật.
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [22] cho biết giun đũa ký sinh trong
ruột non bê nghé sẽ gây ra các tác động:
- Tác động cơ giới: Ấu trùng di hành làm tổn thương gan, phổi. Giun
trưởng thành dùng các lá môi vào niêm mạc ruột và gây tổn thương niêm mạc
ruột, viêm cata, ảnh hưởng đến tiêu hóa, sữa không tiêu hóa bị vón lại.
Sữa này bị vi khuẩn lên men phân hủy, sinh ra nhiều sản phẩm của quá
trình phân hủy protit. Vì vậy, khi phân ra ngoài có màu trắng sữa, lỏng và có
mùi thối khắm. Số lượng giun đũa nhiều sẽ gây tắc, thủng ruột, gây viêm
phúc mạc.



12
- Tác động do độc tố: giun đũa ký sinh ở bê, nghé sẽ tiết độc tố làm cho
con vật trúng độc.
- Tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng: giun đũa lấy dinh dưỡng làm
cho bê nghé gầy còm.
1.1.3.2. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11], bệnh tiến triển ngắn nhất là 5 - 8
ngày, phổ biến nhất là 11 - 30 ngày. Bê, nghé thường chết trong khoảng 7 - 16
ngày kể từ khi phát bệnh. Thời gian tiến triển của bệnh dài, ngắn tủy theo
tuổi, sức khỏe con vật, cách nuôi dưỡng. Bê,nghé bị bệnh giun đũa dáng đi lù
đù, chậm chạp, đầu cúi, lưng cong, đuôi cụp. Lúc đầu còn chậm chạp theo
mẹ, khi nặng bê, nghé bỏ bú, nằm một chỗ, thở yếu, bụng đau, nằm ngửa dãy
giụa, chân đạp lên phía bụng, có thể thấy sôi bụng. Bê, nghé gầy sút nhanh,
lông xù, mắt lờ đờ, niêm mạc nhợt nhạt, mũi khô, hơi thở thối, một số con
thân nhiệt tăng tới 40 - 410C. Khi bê, nghé sắp chết thân nhiệt hạ xuống dưới
mức bình thường.
Một triệu chứng điển hình là phân bê, nghé lỏng, màu trắng, rất thối. Có
thể xem phân để chẩn đoán bệnh. Khi mới đẻ phân bê, nghé màu xanh đen,
dẻo, hơi tanh; ngày sau phân màu vàng, mùi chua; 3 - 4 ngày sau phân cứng
dần lại, màu đen hơn. Nếu bê, nghé mắc bệnh giun đũa thì phân lổn nhổn hơi
táo, màu đen chuyển sang màu vàng sẫm, sau đó phân ngả sang màu trắng và
lỏng dần, khi bệnh nặng thì phân trắng hẳn và lỏng, mùi thối khắm, con vật ỉa
vọt cần câu, phân dính bết ở xung quanh hậu môn, đuôi và khuỷu chân; con
vật gầy sút nhanh. Xác chết gầy, bệnh tích thấy rõ ở đường tiêu hóa. Niêm
mạc ruột có tụ máu lấm tấm đỏ. Sữa đặc lại thành cục, màu trắng, không tiêu
ở dạ múi khế. Thấy nhiều giun đũa ở ruột non. Có thể 200 - 300 giun hoặc
nhiều hơn trong ruột non, xếp thành 5 - 6 hàng ở đoạn tá tràng, vít chặt ruột
và hàng nọ nối tiếp hàng kia. Có thể thấy giun ở các bộ phận khác như dạ cỏ,

dạ múi khế, ống dẫn mật. Ở gan có những điểm hoại tử màu trắng đục.


13
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [31], bê nghé bị bệnh giun đũa có
dáng đi lù đù, đầu cúi, lưng cong đuôi cụp, bụng ỏng, có khi con vật nằm một
chỗ không theo mẹ. Bệnh nặng bê nghé gầy rạc, xù lông, mắt lờ đờ, chảy
nước mắt có nhử, mũi khô, thân nhiệt khoảng 40 - 410C. Con vật mệt mỏi,
đứng lên nằm xuống, ỉa phân lúc đầu táo hoặc lổn nhổn, màu đen, dần dần
chuyển thành màu trắng, lỏng.
Theo Vy Đức Nhật Quang (2014) [27], con vật ăn kém, ỉa chảy, đôi khi
táo bón, chướng hơi, đi lại không yên, đau bụng, ho, co giật. Trường hợp tự
thải giun hay được điều trị thì các triệu chứng sẽ mất đi, ở thể mãn tính bệnh
kéo dài 2 - 3 tháng.
Chu Thị Thơm và cs (2006) [31] cho biết về lâm sàng của bệnh giun đũa
bê nghé: bệnh xảy ra phổ biến ở bê nghé từ 11 - 30 ngày tuổi. Bê nghé ủ rũ, lù
xù, chậm chạp đầu cúi, lưng cong, đuôi cụp, thường chết vào ngày thứ 7 - 16.
Lúc đầu còn theo mẹ, khi bệnh nặng nghé bỏ bú, không theo mẹ, nằm một
chỗ, thở yếu, đau bụng, nằm ngửa dãy dụa, đạp chân lên phía trước bụng. Có
khi nghe rõ tiếng sôi bụng. Bê, nghé gấy sút nhanh chóng, da khô, lông dựng,
mắt lờ đờ, niêm mạc nhợt nhạt, mũi khô, hơi thở thối.
Phân màu trắng, mùi rất thối, con vật ỉa chảy nặng, ỉa vọt cần câu, phân
dính ở khuỷu chân và xung quanh hậu môn. Có thể xem đây là một triệu
chứng điển hình giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh giun đũa bê nghé.
Vy Đức Nhật Quang (2014) [24], theo số lượng nhiễm, bê nghé thường
đau bụng, chướng hơi (biểu hiện đạp chân lên bụng, lưng hơi cong lên) tiêu
chảy đôi khi táo bón, nếu nặng bê nằm một chỗ, bỏ ăn
1.1.4. Chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé
Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé dựa vào triệu
chứnglâm sàng, các thông tin về dịch tễ học, xét nghiệm mẫu phân bê nghé

bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa, kết hợp mổ khám kiểm
tra bệnh tích ở ruột non cho phép chẩn đoán chính xác bệnh.


14
* Đối với bê nghé sống:
Đặng Xuân Bình [1], việc chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris
vitulorum ở bê nghé có thể căn cứ vào những đặc điểm dịch tễ học: vùng và
mùa phát bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh, tuổi mắc bệnh...
Lê Hữu Khương (2012) [10], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết,
bệnh giun đũa bê nghé thường mắc nhiều nhất ở miền núi, bệnh thường phát
nhiều vào tháng 12, 1, 2. Tuổi mắc bệnh sớm nhất là 14 ngày, tuổi càng cao thì
tỷ lệ nhiễm càng giảm, tới 3 - 4 tháng tuổi thì không bị nhiễm. Trâu bò không
mắc bệnh này. Đây chính là những điều tra cơ bản để sơ bộ chẩn đoán bệnh.
Triệu chứng lâm sàng đáng chú ý như: phân màu trắng rất thối, nếu bệnh nặng
bê nghé ỉa vọt cần câu, phân dính ở xung quang hậu môn và khuỷu chân...là
những dấu hiệu hết sức quan trọng để chẩn đoán bệnh giun đũa bê nghé.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, đặc điểm dịch tễ học
của bệnh thì chưa chẩn đoán chính xác được bệnh gì, vì có rất nhiều bệnh ký
sinh trùng có biểu hiện giống nhau. Chính vì vậy, xét nghiệm phân tìm trứng
giun đũa Neoascaris vitulorum là căn cứ quyết định kết quả chẩn đoán bệnh.
Các phương pháp thường dùng là phương pháp Fullerborn, Darling, có thể
dùng phương pháp đếm trứng giun trong 1 gam phân bằng buồng đếm Mc.
Master để xác định mức độ nhiễm giun đũa nặng hay nhẹ.
* Đối với bê nghé chết:
Mổ khám, quan sát những biến đổi bệnh tích trong đường tiêu hoá của
bê, nghé, tìm giun đũa trưởng thành ở ruột non.
Theo Lê Hữu Khương (2012) [10], áp dụng phương pháp mổ khám toàn
diện có thể phát hiện tất cả các loài giun sán ký sinh trong cơ thể bê nghé.
Phương pháp này được đánh giá là phương pháp chẩn đoán bệnh chính xác

nhất, không những xác định được tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, mà còn
quan sát được những tổn thương ở đường tiêu hoá do giun sán gây ra.


15
1.1.5. Biện pháp phòng trị bệnh
Phùng Quốc Quảng và cs (2006) [28] đã đưa ra phương pháp phòng
bệnh giun đũa cho bê nghé như sau:
- Để chủ động phòng bệnh, sau khi đẻ 7 - 10 ngày, cần cho bê nghé uống
một trong số các thuốc tẩy giun như: Piperazin, Hexachloretan, Mebenvet...
uống một lần trong một buổi sáng. Khi uống bắt bê, nghé nhịn đói.
- Cho bò mẹ ăn uống tốt để có đủ sữa cho con bú, kết hợp vệ sinh
chuồng trại, môi trường. Cho uống nước sạch. Giữ chuồng nuôi ấm và khô
ráo. Tập trung phân ủ để diệt trứng giun.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Lê Thị Tài (1997) [17], Piperazin, Mebendazol,
Tetramisol, Thiabendazol có tác dụng rất tốt khi sử dụng để tẩy giun đũa cho
bê nghé.
Theo Robert J.A. (1989) [53], hiệu quả tẩy giun đũa bê nghé của
Pyrantel là 100%; Febentel là 100%; Levamisol (7,5 mg/kg TT cho uống) là
83%, Levamisol tiêm (0,1 ml/kg TT) là 73%, Piperazine là 57%.
Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [31] đã dùng 8 hạt cau tươi giã nhỏ, trộn
với 20 gam bột diêm sinh, hoà với 1/3 lít nước hơi ấm, cho uống vào buổi
sáng trong 3 ngày liền; hoặc một nắm vỏ xoan (50 gam) giã nhỏ, trộn với 2
gam muối, hoà với 1/3 lít nước ấm, để lắng, gạn lấy nước cho uống vào buổi
sáng, 3 ngày liền; hoặc 2 đến 3 lá đu đủ non giã nhỏ, hoà với 1/3 lít nước, cho
uống vào buổi sáng ba ngày liền. Có thể cho uống 3 ml tinh dầu giun trộn với
60 ml dầu đu đủ, cho uống một lần vào buổi sáng. Cũng có thể cho uống
Phenothiazine 1,5 - 2,0 gam/ngày trong ba ngày, hoặc Piperazin 0,2 - 0,3
gam/kg TT.
Bùi Quý Huy (2011) [9] cho biết , để chủ động phòng trị bệnh giun đũa bê

nghé ngay sau khi sinh, chúng ta dùng một số thuốc đặc trị bệnh giun đũa cho
bê nghé, có thể dùng:
Piperazin liều 0,3 - 0,5g/kg thể trọng trộn với thức ăn nước uống.


16
Siliconuorat natri: cho uống 0,035g/kg thể trọng chia 2 lần mỗi ngày,
uống trong 2 ngày.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [34]: Piperazin 0,3 - 0,5 gam/kg TT,
Silicofluorat natri liều 0,035 g/kg TT chia hai lần trong ngày, tinh dầu giun 30
- 60 ml, cho uống. Kết hợp giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, ủ phân, chăm sóc chu đáo
cho trâu bò mẹ. Lê Hữu Khương (2012) [10] cũng sử dụng những hoá dược
như trên tẩy giun đũa bê nghé cho kết quả tốt.
Theo CaoThị Tuyết Lan (1996) [11], dùng Mebenvet liều 120 mg/kg TT
tẩy cho nghé nhiễm giun đũa thị xã Lai Châu có hiệu quả tốt.
Vương Đức Chất (1995) [2] đã tẩy giun đũa cho bê nghé bằng thuốc
Piperazin 0,25 g/kg TT lúc 15 - 20 ngày tuổi, Mebendazole 10 mg/kg TT đạt
kết quả tốt.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [16] cho biết, dùng các loại hoá
dược Như Piperazin 0,3 - 0,5g/kg TT, Tetramizole 10 mg/kg TT, Mebenvet
0,5 g/kg TT và một số hoá dược khác để tẩy trừ Neoascaris vitulorum cho kết
quả rất tốt, bê nghé khỏi bệnh phân trắng.
Chu Thị Thơm và cs (2006) [35] đã đưa ra các phác đồ sau: Dùng Piperazin
0,5 g/kg TT trộn lẫn với thức ăn hay hoà vào nước cho uống, tẩy vào buổi sáng;
Phenolthiazin 0,5 g/kg TT uống 2 lần trong ngày, uống 2 ngày liền; Tetramisol
10 - 15 mg/kg TT, cho uống sau khi bê nghé đã bú hoặc ăn. Ngoài ra tác giả còn
đưa ra một số loại thuốc nam có tác dụng tẩy giun đũa như:
- Vỏ xoan: cạo bỏ lớp vỏ nâu, sao vàng tán nhỏ thành bột. Cho gia súc
uống 3 - 5 g liên tục 3 buổi sáng. Hoặc có thể săc lấy nước, cô đặc, cho uống
vào lúc sáng sớm trước khi cho ăn với liều lượng 30 - 50 ml.

- Hạt cau: nghiền nhỏ 4 g hạt cau, sắc lấy nước cho gia súc uống. Hoặc
nghiền nhỏ, rang khô đem trộn thức ăn, cho ăn vào buổi sáng.


17
1.1.6. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nguyễn Văn Diên (2014) [7] cho biết, nghé nhiễm bệnh từ trong bào
thai, đến tuổi ngoài hai tháng rưỡi không phát bệnh nữa, có trường hợp khi
đến tuổi ấy nghé tự tống giun ra ngoài.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [32], qua điều tra trên 32 xã thuộc nhiều
tỉnh miền núi và trung du miền bắc nước ta, nghé ốm do bệnh giun đũa chiếm
39,1%, nghé chết chiếm 38,7% so với số nghé ốm. Đặc biệt bệnh chỉ phổ
biến trên đàn trâu sinh sản ở miền núi và trung du, ở vùng đồng bằng bệnh
giảm rõ rệt.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1966) [33], ở Sơn Tây, Phia Đén (Cao Bằng)
Ngọc Thanh (Vĩnh Phú), đàn bê mắc bệnh giun đũa chiếm 20% so với số bê
đẻ ra và bê chết do giun đũa chiếm 5% so với số bê ốm.
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [31], bê nghé từ 15 - 60 ngày tuổi
hay mắc bệnh ỉa cứt trắng, bệnh thường hay gặp nhất ở miền núi.
Vương Đức Chất (1995) [2] cũng thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa trên đàn bê
ở Hà Nội qua mổ khám là 15,6%.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [16] cho biết, bệnh giun đũa bê
ghé có tỷ lệ nhiễm từ 23% - 64% ở nghé trong độ tuổi 1- 3 tháng, bê trong độ
tuổi 17 ngày đến 3 tháng tuổi cũng bị nhiễm bệnh.
Theo Phạm Sỹ Lăng (2002) và cs [19], có thể sử dụng một trong các loại
hóa dược sau để điều trị bệnh giun đũa bê nghé: Piperazin dùng liều 0,3 0,5gam/kg TT, thuốc cho uống trực tiếp hoặc trộn với thức ăn; Levamisol
dùng với liều 15 - 20 mg/kg TT, cho uống hoặc 10 - 15 mg/kg TT dùng tiêm;
Mebenvet(10% Mebendazol) dùng liều 0,5 gam/kg TT; Ivermectin dùng liều
0,2 mg/kg TT tiêm cho bê nghé.
Lê Thị Thanh Nhàn (2008) [26] đã điều trị tiêu chảy cho bê nghé do

giun đũa bằng cách: sử dụng một trong các thuốc kháng sinh Như Norfacoli
hoặc Colistin để điều trị tiêu chảy, sau vài ngày dùng thuốc tẩy giun đũa cho


×