Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.08 KB, 18 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1
Đề bài: “Xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Sưu tầm một
giao dịch dân sự vô hiệu và bình luận hậu quả pháp lý của giao dịch này ”


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................1
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ.........................................................1
1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch dân sự......................................................1
2. Phân loại giao dịch dân sự...............................................................................2
3. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự..............................................3

II.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU.......................................5

1. Khái niệm của giao dịch dân sự vô hiệu.........................................................5
2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu...........................................................6
3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu.................................................................7
III.


HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU.....................................9

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập..................9
2. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận.......................................................................................................................10
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa
lợi, lợi tức đó..........................................................................................................11
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường..................................................12
IV.

VÍ DỤ VỀ MỘT GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ 12

1. Ví dụ về một giao dịch dân sự vô hiệu...........................................................12
2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nêu trên..............................14


KẾT LUẬN..................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................15


1

MỞ ĐẦU
Để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác
nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả
nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao
dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật
dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho
nên giao dịch dân sự đã được đưa vào Bộ luật Dân sự nước ta nhằm bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp
pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của
các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp
lý của việc tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham
gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng thời có thể
kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể
khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên em đã
chọn đề tài: “Xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Sưu tầm một
giao dịch dân sự vô hiệu và bình luận hậu quả pháp lý của giao dịch này”.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về giao dịch dân sự
1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch dân sự
Điều 166 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.” Dưới góc độ khoa học, ta thấy rằng khái niệm giao dịch dân sự được đưa ra
trong rất nhiều tài liệu khác nhau, nhưng đặc điểm chung của các khái niệm này là đều
thống nhất khái niệm giao dịch dân sự gồm hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn
phương. Giao dịch dân sự thường có các đặc điểm chung sau đây:


2

Thứ nhất, giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các chủ thể tham gia giao
dịch đó. Ý chí của con người bao giờ cũng được thể hiện thông qua hành vi, mặt khác,
giao dịch dân sự bao giờ cũng là hành vi của con người nên giao dịch dân sự bao giờ

cũng là sự thể hiện ý chí của con người xác lập giao dịch.
Thứ hai, giao dịch dân sự nhằm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định. Hậu quả
pháp lý này có thể là xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự; có thể là chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự; có thể là thay đổi quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia và
xác lập giao dịch dân sự đó.
Thứ ba, giao dịch dân sự hướng tới một quan hệ với các chủ thể khác. Người lập
giao dịch dân sự luôn hướng tới việc hình thành một quan hệ dân sự với một hoặc
nhiều chủ thể khác. Thông qua quan hệ đó, các bên xác lập quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể.
2. Phân loại giao dịch dân sự
Căn cứ vào các bên tham gia giao dịch dân sự, ta có thể chia giao dịch dân sự thành
các loại sau:
a. Hợp đồng dân sự
Theo điều 385 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015, “hợp đồng là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng dân sự
là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống ngày nay. Thông thường, hợp
đồng có hai hay nhiều bên tham gia, trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ
thể tham gia trong một mối quan hệ cụ thể nào đó như mua bán, cho thuê... Vì hợp
đồng bao giờ cũng là sự thể hiện ý chí của các bên tham gia, nên luôn tồn tại yếu tố
thoả thuận giữa các chủ thể tham gia loại giao dịch dân sự này.
b. Hành vi pháp lý đơn phương
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm
phát sinh, chấm dứt, thay đổi quyền, nghĩa vụ dân sự.1
Hành vi pháp lý đơn phương có thể là giao dịch dân sự nhưng không phải mọi hành
vi pháp lý đơn phương đều là giao dịch dân sự.
Ngoài hai loại giao dịch dân sự nêu trên, còn một loại giao dịch dân sự khác là giao
dịch dân sự có điều kiện.
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – tập 1, NXB. Công an Nhân dân,
2017



3

c. Giao dịch dân sự có điều kiện
Giao dịch dân sự có điều kiện là những giao dịch mà sự phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt hiệu lực của nó phụ thuộc vào các điều kiện mà một trong các bên xác lập
giao dịch dân sự đó đã đưa ra khi xác lập giao dịch (hành vi pháp lí đơn phương hoặc
hợp đồng). Như vậy, đây là những giao dịch dân sự đã được xác lập nhưng nó chỉ phát
sinh hiệu lực hoặc bị hủy bỏ khi có những điều kiện nhất định xảy ra. Sự kiện được coi
là điều kiện của giao dịch do chính người xác lập giao dịch định ra, trong hợp đồng thì
điều kiện đó do chính các bên thỏa thuận.
3. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Điều 117 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định”.
Theo đó, ta thấy:
 Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không bắt buộc phải thiết lập theo
một hình thức nhất định, giao dịch đó được coi là có hiệu lực khi có đủ ba điều kiện
được quy định tại khoản 1 của điều 117 Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015:
 Thứ nhất, chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập.
Các chủ thể chỉ được phép tham gia giao dịch dân sự mà pháp luật không cấm, phù
hợp với năng lực pháp luật của mình. Nếu chủ thể này là cá nhân, thì phải có đủ khả

năng nhận thức và khả năng tài sản để thực hiện các nghĩa vụ phát sinh giao dịch dân
sự mà họ tham gia. Cụ thể như sau:
+ Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự


4

+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.

 Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Giao dịch dân sự phải được thiết lập trên cơ sở tự do, tự nguyện. Vì vậy, giao dịch
dân sự thiếu sự tự nguyện sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Sự tự nguyện cũng
là một trong những nguyên tắc được quy định tại khoản 2 điều 3 Bộ luật Dân sự 2015:
“Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận”. Vi phạm sự tự nguyện là vi phạm pháp luật.
Pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự được thiết lập
không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch: giao dịch dân sự được xác
lập bởi sự giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay giao dịch xác lập vào thời điểm mà
người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Tất nhiên, những giao
dịch được xác lập bởi những yếu tố kể trên tức là đã vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện
của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu.
 Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội
Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 118. Mục đích của giao dịch dân sự

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác
lập giao dịch đó.”
Trong bất kỳ một giao dịch nào, các bên tham gia đều hướng đến một mục đích
nhất định, từ đó sẽ có sự xác lập quyền và nghĩa vụ (tức là nội dung của giao dịch)
nhằm hiện thực hóa mục đích đó. Như vậy mục đích và nội dung của giao dịch có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Mục đích và nội dung là một trong những yếu tố chủ yếu tạo
thành một giao dịch dân sự, do vậy điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch
cũng là những điều kiện cần thiết cho một giao dịch dân sự hợp pháp: “Mục đích và
nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã


5

hội”. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Việc quy định cụ thể những điều cấm
của pháp luật là để đảm bảo lợi ích công cộng và của các chủ thể. Còn đạo đức xã hội
là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Tuy nhiên trong thực tế, căn cứ để xác định mục đích và nội dung của giao dịch dân
sự trái với đạo đức xã hội khá phức tạp vì đó là những chuẩn mực ứng xử do cộng
đồng xã hội tự đặt ra và thừa nhận nó như những quy tắc chung chứ không được quy
định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật như các điều cấm của pháp luật.
 Đối với giao dịch dân sự mà pháp luật đã quy định phải được thiết lập theo một
hình thức nhất định thì ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện trên, hình thức của giao
dịch này còn phải tuân theo quy định của pháp luật mới được coi là có hiệu lực.2
II. Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu
1. Khái niệm của giao dịch dân sự vô hiệu
Nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu được
sử dụng khác rộng rãi nhưng lại chưa có tài liệu nào nêu ra khái niệm cụ thể của giao
dịch dân sự vô hiệu. Trong Bộ luật Dân sự nước ta, tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015

có quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, căn cứ vào các quy định
này mà xây dựng nên quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu: “Giao dịch dân sự
không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 117 của Bộ luật này thì vô
hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác” (Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015).
Như vậy các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự làm cơ sở cho việc xác định
giao dịch dân sự vô hiệu. Căn cứ vào các quy định trên, ta có thể khái quát: “Giao dịch
dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự do pháp luật quy định”.
Bằng việc quy định các điều kiện và một số trường hợp cụ thể dẫn đến giao dịch
dân sự vô hiệu, Nhà nước có thể kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định để đảm bảo
tính ổn định trong giao lưu dân sự. Nhìn chung các quy định về giao dịch dân sự vô
hiệu có một số ý nghĩa sau đây:
 Định hướng, tạo khuôn mẫu cho các chủ thể pháp luật dân sự khi tiến hành xác
lập giao dịch dân sự phải tuân theo các quy định của pháp luật, không được thoả thuận
2 PSG. TS. Phạm Văn Tuyết, Hướng dẫn môn học Luật Dân sự - tập 1; NXB. Tư pháp; 2017


6

hoặc thi hành trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do,
tự nguyện cho các chủ thể.
 Ngăn chặn các loại giao dịch dân sự mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội,
bảo đảm cho các giao lưu dân sự hợp pháp được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho công dân.
 Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia giao dịch còn
bảo đảm quyền lợi cho người thứ ba ngay tình, bảo đảm tính công bằng khi giải quyết
hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
 Là cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc cho các bên tự hòa giải với nhau khi xảy
ra tranh chấp hoặc được tòa án áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giao dịch dân sự
vô hiệu.

2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu
Mục đích hay nói cách khác là những mong muốn, nguyện vọng mà bất kỳ chủ thể
nào tham gia giao dịch đều muốn đạt được. Pháp luật luôn tạo điều kiện và giúp đỡ các
chủ thể hành động theo ý chí của mình nếu họ không vi phạm một trong bốn điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự nói trên. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không
tuân thủ các điều kiện đó dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu và các chủ thể phải gánh
chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đây cũng là hai đặc
điểm đặc trưng của giao dịch dân sự vô hiệu:
Vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy
định.
Đặc điểm này tuân theo đúng tinh thần của quy định về giao dịch dân sự tại Điều
122 Bộ luật Dân sự 2015. Một đặc điểm mang tính quyết định một giao dịch trở nên vô
hiệu hay không đó là việc giao dịch đó không tuân thủ đầy đủ bốn điều kiện mà pháp
luật đã quy định đối với giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 117 Bộ luật Dân sự
2015: điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch, điều kiện
về mục đích và nội dung của giao dịch, điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể và điều
kiện về hình thức trong một số trường hợp pháp luật quy định.
Các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Bất kỳ một sự vi phạm nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật bằng những chế
tài nhất định. Trong giao dịch dân sự cũng vậy, một khi các chủ thể không tuân theo


7

quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì cũng phải
chịu hậu quả do việc tuyên bố giao dịch đó đem lại. Cụ thể, khi giao dịch bị tuyên bố
là vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch
đó. Tính vô hiệu được xác định từ thời điểm các bên xác lập giao dịch (tức là từ khi
giao kết hoặc tuyên bố ý chí). Đồng thời, khi giao dịch vô hiệu, các bên quay lại tình

trạng ban đầu, hoàn trả những gì đã nhận của nhau. Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn
thất của các bên vì không đạt được mục đích ban đầu khi tham gia giao dịch, ngoài ra
nếu bên nào có lỗi làm thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Như vậy hậu quả pháp lý có
thể và hầu như thường gây bất lợi cho các bên tham gia giao dịch dân sự.
3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu
Dựa vào các tiêu chí khác nhau sẽ có các cách phân loại giao dịch dân sự khác nhau
như sau:
a) Căn cứ vào trình tự tuyên bố một giao dịch vô hiệu
Ta có hai loại giao dịch dân sự như sau:
 Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối:
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự mà Toà án có quyền tuyên vô
hiệu ngay cả khi không có sự yêu cầu của các bên chủ thể. Giao dịch dân sự này bao
gồm các giao dịch dân sự có nội dung và mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội hoặc có mục đích che giấu một giao dịch khác hay nhằm trốn tránh
nghĩa vụ với người thứ ba.
Ví dụ: Giao dịch mua bán ma tuý
 Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là những giao dịch dân sự mà Toà án chỉ có thể
tuyên vô hiệu khi có yêu cầu từ một bên chủ thể nhất định. Loại giao dịch dân sự này
bao gồm giao dịch dân sự vi phạm tính tự nguyện của chủ thể, người tham gia giao
dịch không có hoặc không đủ năng lực hành vi dân sự, hình thức của giao dịch không
phù hợp với quy phạm pháp luật nhưng giao dịch đó không thuộc loại giao dịch mà
hình thức là điều kiện có hiệu lực.
b) Căn cứ vào nguyên nhân vô hiệu
Ta có bốn loại giao dịch dân sự sau đây:
 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về nội dung, mục đích


8


Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về nội dung, mục đích bao gồm các giao dịch
dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội và giao dịch dân sự giả tạo.
 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm tính tự nguyện:
Loại giao dịch này bao gồm các giao dịch dân sự giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối,
đe doạ.
 Giao dịch dân sự vô hiệu do người giao kết không đủ nhận thức, không làm chủ
được hành vi giao kết
Loại giao dịch này bao gồm các giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự thực hiện.
 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định của pháp luật về hình
thức của giao dịch
Các giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô
hiệu, trừ các trường hợp quy định tại điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra
quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc
về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba
nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết
định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải
thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
c) Căn cứ vào mức độ vô hiệu của giao dịch dân sự
 Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ:
Đây là loại giao dịch mà tất cả các nội dung của giao dịch đều vi phạm các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc có một phần nội dung của giao dịch vô hiệu
nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giao dịch. Giao dịch này không có giá trị
pháp lý.



9

Ví dụ: Giao dịch dân sự có đối tượng giao dịch là tài sản Nhà nước cấm lưu thông
như động vật quý hiếm.
 Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần:
Đây là giao dịch dân sự chỉ có một số nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự, còn các nội dung khác không vi phạm hoặc có một phần của giao
dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại trong giao dịch.
III.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Khi một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu thì vấn đề hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự được đặt ra. Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn
trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi
tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân
thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập

Khác với hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu không
được pháp luật thừa nhận hiệu lực pháp lý. Theo đó, giao dịch vô hiệu sẽ không làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm
xác lập. Nếu các bên mới chỉ giao kết mà chưa thực hiện nghĩa vụ thì không được thực
hiện nghĩa vụ đó nữa, nếu các bên đang thực hiện nghĩa vụ thì không tiếp tục thực hiện
nữa.


10

Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp vi phạm một trong các điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự cũng không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên. Trong trường hợp mục đích và nội dung của giao dịch vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc trường hợp giao dịch được xác
lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác sẽ đương nhiên vô hiệu. Theo
đó, giao dịch đó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các
bên. Với các trường hợp giao dịch vô hiệu còn lại, nếu không có đơn yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu, Toà án không ra quyết định tuyên bố giao dịch được xác
lập vô hiệu hoặc quá thời hạn yêu cầu tuyên giao dịch vô hiệu thì giao dịch đã xác lập
đó vẫn phát sinh hiệu lực pháp lý. Nếu có đơn yêu cầu trong thời hạn, Toà án tuyên bố
giao dịch được xác lập vô hiệu thì giao dịch đó vô hiệu từ thời điểm được xác lập, từ
đó, không phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên.
2. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận
Hậu quả pháp lý này được đặt ra trong trường hợp các bên đã hoặc đang thực hiện
giao dịch dân sự. Trong trường hợp giao dịch đã được xác lập mà các bên chưa thực
hiện các quyền, nghĩa vụ đã thoả thuận cũng như chưa chuyển giao tài sản cho nhau thì
hậu quả pháp lý này không được đặt ra. Theo nguyên tắc chung, một giao dịch dân sự
vô hiệu sẽ không làm phát sinh hiệu lực các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả
thuận. Vì vậy, nếu như các chủ thể đã hoặc đang thực hiện giao dịch và chuyển giao tài

sản cho nhau, dù là một phần hay toàn bộ thì họ vẫn phải khôi phục lại tình trạng như
ban đầu như khi họ giao kết.
Khôi phục có thể hiểu là làm cho có lại được hay trở lại như trước. Khôi phục lại
tình trạng ban đầu trong giao dịch dân sự vô hiệu bao gồm việc hoàn trả những gì đã
nhận và bồi thường thiệt hại trong trường hợp có thiệt hại thực tế xảy ra. 3 Trách nhiệm
khôi phục lại tình trạng ban đầu có thể thuộc về một bên hoặc cả hai bên tham gia giao
dịch dân sự.

3 Hà Thị Thanh Hương, TS. Nguyễn Minh Tuấn hướng dẫn; Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp
lý của giao dịch dân sự vô hiệu; 2012


11

Hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là một hoàn cảnh của việc khôi phục lại tình
trạng ban đầu. Đây được coi là một biện pháp để giải quyết hậu quả của giao dịch dân
sự vô hiệu nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu. Đối tượng cho việc hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận khi giao dịch dân sự vô hiệu là tài sản mà các bên trong giao
dịch dân sự vô hiệu đã chuyển giao cho nhau. Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản
và thời điểm xác lập quyền sở hữu cho các chủ thể, tài sản được phân loại thành tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản tồn tại vào thời
điểm xác lập giao dịch và đã được xác lập quyền sở hữu của tài sản đó. Tài sản được
hình thành trong tương lại được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng
bộ vào thời điểm giao dịch được giao kết nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành
tại một thời điểm trong tương lai. Trong trường hợp tài sản khi xác lập giao dịch là tài
sản hình thành trong tương lại, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được chỉ đặt
ra khi vào thời điểm xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, tài sản đó
đã tồn tại dưới dạng vật chất nhất định và đã được chuyển giao.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi,
lợi tức đó

Bộ luật dân sự năm 2005 không bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong
trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở
hữu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu
giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu này bảo vệ người thứ ba ngay tình,
tạo ra cơ chế pháp lý hài hòa, công bằng hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cả người thứ ba ngay tình và của cả chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác. Thực
hiện cơ chế pháp lý này cũng góp phần thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và
hiệu quả của công tác đăng ký ở nước ta, nâng cao niềm tin của người dân vào hệ
thống đăng ký quyền sở hữu, vật quyền khác, qua đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh, ổn định của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người


12

thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao
dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ
người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu nhưng có
quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người
thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại, nếu có.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ
ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền
hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị huỷ, sửa

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường
Trong vấn đề này, trước hết phải xác định được mức độ thiệt hại của các bên tham
gia giao dịch, từ đó mới phát sinh hậu quả bồi thường. Để đưa ra hướng xử lý cụ thể và
xác đáng, cần xác định một cách rõ ràng lỗi của các bên làm cho giao dịch dân sự bị vô
hiệu.
Ví dụ trong một giao dịch mua bán bình cổ giữa các cá nhân với nhau được xác
định là giao dịch vô hiệu, cần xác định lỗi của cả 2 bên. Bên bán bị coi là có lỗi nếu
làm cho bên mua tin tưởng rằng cái bình cổ đó có từ thế kỷ XII nhưng thực chất nó
xuất hiện từ thế kỷ XV. Thông tin này từ người bán là hoàn toàn sai sự thật nhằm làm
cho người mua tin theo và giao kết hợp đồng mua bán. Bên mua được coi là có lỗi khi
nói dối bên bán về mục đích thực hiện hoạt động mua bán của mình nhưng thực chất
lại không phải như vậy.
IV. Ví dụ về một giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó
1. Ví dụ về một giao dịch dân sự vô hiệu
Vào ngày 11/4/2016, bà Mai Thị L và ông Nguyễn C có mượn bà Phạm Thị Kim N
số tiền 1.090.000.000 đồng. Trong quá trình vay tiền, bà L và ông C không trả nợ đúng
hạn. Vụ việc đã được Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử vào ngày
25/10/2016, buộc ông Nguyễn C và bà Mai Thị L phải trả cho bà Phạm Thị Kim N
1.090.000.000 đồng tiền gốc và 22.481.250 tiền lãi.


13

Trong thời gian này bà L và ông C không trả tiền cho bà Kim N mà đem tài sản là
nhà và đất tại phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất Số CA 536107 thửa đất số 35, tờ
bản đồ số chuyển nhượng cho con trai là Nguyễn Công T.
Cũng theo hồ sơ vụ án và lời trình bày của bị đơn đã thể hiện, nhà và đất nêu trên
trước đây ông C, bà L thế chấp và vay tại Ngân Hàng TMCP V - Chi nhánh Đà Nẵng
để vay số tiền 750.000.000 đồng và cùng ngày 05/9/2016 ông C, bà L đã trả Ngân hàng

số tiền nêu trên để được xóa thế chấp, và làm thủ tục tặng cho con trai tài sản. Lý giải
việc tặng cho con trai tài sản nêu trên, ông C bà L cho rằng để tài sản đứng tên con trai
thì sẽ dễ vay của Ngân hàng hơn, vì ông bà có tên trong danh sách nợ xấu. Tuy nhiên
lời trình bày của ông C, bà L là không đúng với thực tế bởi vì anh T không làm thủ tục
để đi vay tiền Ngân hàng, mà ngay sau khi được ông C, bà L tặng cho Tài Sản thì ngày
15/9/2016 (sau 10 ngày) anh Nguyễn Công T đã nhận tiền đặt cọc 1.700.000.000 đồng
và thỏa thuận bán tài sản được tặng cho cho bà Võ Thị S với giá 02 tỷ đồng. Lời khai
của bị đơn và bà S cho rằng trước đó có cho ông C, bà L vay 750 triệu để xóa thế chấp
vào ngày 05/9/2016 là không phù hợp với chứng cứ là giấy nhận tiền đặt cọc
1.700.000.000 đồng vào ngày 15/9/2016. Từ đó có căn cứ khẳng định tại thời điểm
05/9/2016 ông C và bà L có khoản tiền 750 triệu đồng để xóa thế chấp Ngân hàng, để
rút tài sản ra tặng cho con trai.
Sau khi anh T nhận tiền đặt cọc của bà Võ Thị S, vợ chồng ông C, bà L cũng không
thanh toán tiền cho bà N, mà dùng số tiền đó để trả nợ cá nhân khác, và cho con trai
tiền làm ăn và trả nợ riêng của cá nhân anh Nguyễn Công T.4
Nhận xét: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa
ông Nguyễn C và bà Mai Thị L, cho con trai là Nguyễn Công T vào ngày 05/9/2016, là
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với bà Phạm Thị Kim N là có căn cứ, phù
hợp với Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì vậy, hợp đồng hay giao dịch dân sự
này là vô hiệu.
4 Xem bản án số: 51/2017/DS-PT; Ngày 25 tháng 7 2017 tại địa chỉ sau:
/>

14

2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nêu trên
- Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
Trong trường hợp này, anh T phải trả lại tài sản là nhà và đất tại phường T, quận S,
thành phố Đà Nẵng cho ông C và bà L. Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời
điểm xác lập quyền sở hữu cho các chủ thể, tài sản này là tài sản hiện có. Tài sản này

cũng là bất động sản phải đăng ký. Bà S là người thứ ba ngay tình nhưng chưa nhận
được tài sản nên không có nghĩa vụ trả lại tài sản này.
Đồng thời, ông C bà L và ông T phải trả lại cho bà S số tiền là 1.700.000.000 đồng
vì bà S là người thứ ba ngay tình. Trong đó:
 Ông Nguyễn C và bà Mai Thị L phải trả cho bà Võ Thị S số tiền là 750.000.000
đồng.
 Ông Nguyễn Công T phải trả cho bà Võ Thị S số tiền 950.000.000 đồng.
KẾT LUẬN
Giao dịch dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể tham gia giao dịch. Tuy nhiên việc xây dựng và thỏa mãn các
quyền và lợi ích của các bên giao dịch phải dựa trên điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. Nếu vi phạm vào các điều kiện này, giao dịch dân sự đó sẽ bị vô hiệu và
các chủ thể tham gia giao dịch sẽ phải chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu.
Việc xây dựng các quy định về giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của nó có ý
nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm lợi ích các chủ thể, dựng nên một hành lang pháp lý
tạo ra tính ổn định cho giao dịch dân sự.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2015
2. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2005
3. Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – tập 1; NXB.
Công an Nhân dân; 2017
4. PSG. TS. Phạm Văn Tuyết; Hướng dẫn môn học Luật Dân sự - tập 1; NXB. Tư
pháp; 2017
5. Hà Thị Thanh Hương, TS. Nguyễn Minh Tuấn hướng dẫn; Giao dịch dân sự vô
hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu; 2012
6. Vũ Thị Hồng Yến; Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức theo Điều
129 Bộ luật Dân sự năm 2015; Tạp chí Tòa án nhân dân - Số 15/2017, tr. 22 25, 48

7. Nguyễn Minh Hằng; Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo và xử lý hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu; Tạp chí Kiểm sát - Số 22/2014, tr. 24 - 29.
8. Nguyễn Vũ Hường, PGS. TS. Phùng Trung Tập hướng dẫn; Bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu: Luận văn Thạc sĩ Luật
học; 2016
9. />10. />11. />12. Lưu Bình Dương; Bàn về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu trong
luật Dân sự Việt Nam; Tạp chí Kiểm sát – số 5/2003



×