Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Môn quản lý quá trình dạy học STT 2 PHẠM THÁI BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.64 KB, 22 trang )

Bài tập 1: Hãy nêu những đổi mới căn bản trong giáo dục phổ thông (PT)
hiện nay và vai trò của cán bộ quản lý (CBQL) trong sự đổi mới đó.

BÀI LÀM
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển,
có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng
thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, mà Đại hội IX, X đến
Đại hội XI của Đảng vẫn nêu rất đậm nét, đó là:
- Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập; chất lượng giáo dục còn thấp,
so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới,
chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội; chưa phát huy tính sáng
tạo của người học.
- Chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống giảm sút; yếu về giáo
dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống…
- Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông,
mất cân đối; Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm
đổi mới; cơ chế quản lý giáo dục chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác
của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập: chưa nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết với
nước ngoài trong phát triển giáo dục chưa xác định rõ phương châm.
- Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự
đồng thuận của xã hội.
Để giải quyết được căn bản điều đó, những người lãnh đạo- quản lý, những
người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, sâu sắc và
bản chất hơn những vấn đề đã đặt ra.


1


Trước hết phải thấy trong mấy thập niên gần đây đổi mới giáo dục đào tạo
là xu thế toàn cầu. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công
nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt
trong các lĩnh vực điện tử- viễn thông, tin học và công nghệ thông tin. Những
thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống
xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Đây là thời đại tin học với
sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến mức chóng mặt. Đó chính
là nền tảng khoa học- công nghệ của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của
kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu
không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động
của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo.
Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng
đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ
bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng đến
mức trẻ con cũng có thể làm được và thậm chí còn thao tác nhanh hơn người
lớn… Trong bối cảnh ấy kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới
luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và trở nên
rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ xa,
hội nghị trực tuyến… Việc tìm kiếm thông tin, kiến thức và giao lưu qua mạng đã
trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc sách, báo giấy trước đây. Đã trở
thành câu nói cửa miệng của rất nhiều người, rằng với đà phát triển của công
nghệ thông tin như hiện nay, không thể biết trước điều gì sẽ xảy ra.
Các nước, bắt đầu từ những nước có nền khoa học phát triển, từ nhiều
thập niên gần đây đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hệ thống giáo dục của mình và
một chuyển biến tương đối rõ là họ chuyển dần từ dạy kiến thức chuyên môn
sang dạy cách tự học. Việc học tập không chỉ thực hiện ở nhà trường mà có thể ở
nhà hoặc ở bất cứ đâu. Cơ hội học tập không chỉ dành cho với lứa tuổi cắp sách

đến trường mà với bất cứ ai. Triết lý xã hội học tập, học suốt đời dần hình thành.
Về phương diện công nghệ, với sự trợ giúp của các thiết bị công nghệ thông tin
(mà phổ biến là máy tính xách tay) với các phần mềm ứng dụng vô cùng phong
phú thì rất nhiều kiến thức trước đây thầy cần rất nhiều thời gian và công sức
2


để dạy và trò phải vô cùng vất vả để đển nhớ thì nay chỉ cần biết có nó và nó có
thể dùng vào việc gì, còn những chi tiết, thậm chí cả những thao tác để tính toán
tìm ra kết quả chỉ cần vài cái “click” là xong. Trí tuệ con người được dùng vào
việc sáng tạo, những kiến thức cần nhớ đã có sự trợ giúp của máy tính hay một
thiết bị USB gọn nhẹ mà chỉ cần với dung lượng khoảng 2G cũng có thể ghi được
hàng chục triệu trang A4, một khối lượng mà bất cứ một trí nhớ siêu việc nào
cũng không thể so sánh được.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, trong những
thập niên gần đây thế giới cũng diễn ra những biến động vô cùng mạnh mẽ. Từ
những biến đổi về khí hậu, những thay đổi theo chiều hướng ngày ngày càng
đáng báo động của tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân
bằng sinh thái đến những biến động chính trị, quân sự khôn lường đã đặt ra yêu
cầu phải trang bị cho các thế hệ tương lai năng lực thích ứng cao trước mọi biến
động của thời cuộc và trách nhiệm của những công dân toàn cầu.
Về một phương diện khác, sự tha hóa đạo đức trong xã hội (không trừ một
nước nào) ngày càng trầm trọng đang tạo nên những bức xúc, đòi hỏi hệ thống
giáo dục phải điều chỉnh theo hướng tăng mạnh việc trang bị tảng nền văn hóa,
kỹ năng sống và các giá trị đạo đức cho người học. Chưa bao giờ yêu cầu dạy
làm người cấp bách như bây giờ.
Tri thức là của chung nhân loại. Giáo dục, đào tạo là truyền thụ kiến thức
nên từ bản chất lĩnh vực này đã chứa đựng thuộc tính không biên giới. Tuy nhiên,
bất cứ nền giáo dục nào cũng lại chịu sự chi phối rất mạnh của văn hóa dân tộc
và những bệ đỡ tư tưởng xuất phát từ những ý thức hệ khác nhau nên trong một

thời gian dài từng tồn tại sự khác biệt rất xa về cấu trúc hệ thống giáo dục và cấu
tạo chương trình. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra như một xu thế không thể cưỡng
lại các nước đều tiến hành xem xét lại hệ thống giáo dục của mình và tiến hành
rất nhiều điều chỉnh mang tính cải cách.
Đổi mới giáo dục đào tạo, với những phân tích trên đây, phải được xem là
xu thế mang tính toàn cầu. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Trong ý nghĩa
này, công cuộc đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam không phải chỉ là vấn đề của
riêng ta mà phải thực sự “nhúng” sâu trong môi trường quốc tế.
3


Bước sang giai đoạn mới, đất nước ta đứng trước những cơ hội và thách
thức lớn. Những vấn đề trên đã và đang đặt ra những yêu cầu, những nội dung
rất mới, rất cao về nguồn lực con người, với những giá trị xã hội mới, tiêu chí
mới về phẩm chất và năng lực của mỗi con người và cả cộng đồng (như năng lực
hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh trên trường quốc tế; năng lực làm chủ- ứng dụng
và sáng tạo khoa học và công nghệ cao; năng lực kết nối cộng đồng; năng lực lập
nghiệp; văn hóa lao động, lối sống hiện đại, văn minh và mang đậm bản sắc dân
tộc…). Tất cả những giá trị mới nêu trên tất yếu đặt ra những yêu cầu mới về
nhận thức, quan điểm, mục tiêu, cơ chế phát triển giáo dục; về nội dung, chương
trình và phương pháp giáo dục; đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục của đất nước.
Đổi mới căn bản được hiểu là đổi mới những vấn đề cốt lõi nhất để làm
thay đổi và nâng cao về chất của hệ thống giáo dục, nhằm đáp ứng với đòi hỏi
của đất nước trong giai đoạn mới, đó là:
- Đổi mới tư duy, nhận thức, triết lý về giáo dục, về sứ mạng của giáo dục; - Đổi
mới quan điểm phát triển giáo dục;
- Đổi mới mục tiêu giáo dục; nội dung và phương thức giáo dục;
- Đổi mới và lành mạnh hóa môi trường giáo dục;
- Đổi mới cơ chế phát triển giáo dục;

- Đổi mới động lực - nguồn lực phát triển giáo dục;
- Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới giáo dục.
Định hướng cơ bản của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng là “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”. Đây là những yêu cầu cơ bản đặt ra và
nó chứa đựng những tiêu chí mới cho quá trình đổi mới nền giáo dục; sẽ tạo nên
một nền giáo dục năng động- hiệu quả- chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước trong giai đoạn mới và phù hợp với xu thế của thời đại.
Trong quá trình đổi mới giáo dục này, cần phải đặt lên hàng đầu đổi mới tư
duy-nhận thức-triết lý giáo dục, đổi mới quan điểm và mục tiêu giáo dục, vì đây
là những vấn đề có tính “mở đường” cho quá trình đổi mới giáo dục.
4


Đơn cử rõ nhất là về vấn đề giảm tải chương trình giáo dục phổ thông.
Giảm tải ở đây không chỉ đơn giản là giảm khối lượng và độ khó kiến thức như
các cấp học đang thực hiện mà bao trùm hơn là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục
phổ thông có cần đổi mới không? Thay đổi như thế nào giữa giáo dục nhân cách,
cung cấp kiến thức và giáo dục kỹ năng để phù hợp từng cấp học? Mục tiêu, nội
dung và khối lượng của mỗi môn học trong tổng thể mục tiêu chung của giáo dục
phổ thông và trong mỗi cấp học đó như thế nào? Dạy và học sử, văn, toán, giáo
dục công dân, đạo đức…. tiếp tục như vậy được chăng? Chương trình giáo dục
phổ thông nên là 10, 11 hay vẫn giữ 12 năm, phân luồng, phân ban như thế nào?
Rõ ràng vấn đề giảm tải giáo dục phổ thông không được nghiên cứu thấu đáo và
việc thực hiện sẽ chỉ là sự “chữa cháy”, đầy tính hình thức và không đạt được
những mục tiêu quan trọng hơn đối với giáo dục phổ thông.
Hay như cách triển khai lấy ý kiến góp ý cho dự thảo chương trình giáo
dục phổ thông tổng thể hiện nay cũng vậy. Một khung chương trình đưa ra một
cách chung nhất với từng yêu cầu phù hợp từng cấp học song vấn đề cần tập
huấn, thảo luận để cho cán bộ quản lý, giáo viên hiểu về từng nội dung cụ thể của

khung chương trình tổng thể này một cách rõ nét nhất thì không làm. Cứ đưa
chương trình và yêu cầu lấy ý kiến thì sao đưa ra những góp ý có tính xây dựng
và đúng bản chất được. Đây là cách làm theo kiểu “cho có”, “cho xong”.
Cũng về đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ thông, có những ý
kiến của cán bộ quản lý giáo dục cho là sẽ phải chuyển từ “học sinh học được
những kiến thức gì” (định hướng nội dung) sang học ra để làm được gì (định
hướng sử dụng). Phải chăng đây là cách đổi mới đúng? Cách tiếp cận đúng?
Đúng là nội dung học phổ thông phải thiết thực, song điều đó không có ý nghĩa là
nội dung chương trình giáo dục phổ thông mang nặng tính ứng dụng cụ thể để
học sinh học rồi ra “làm việc”.
Hay như cách hiểu “lấy người học làm trung tâm”, giáo viên sợ mình bị
đánh giá là “làm hộ học sinh” nên khi lên lớp, cô chỉ việc giao bài tập hoặc nêu
vấn đề “phó mặc” cho học sinh tự giải quyết. Rõ ràng đây không phải là cách
hiểu, cách làm đúng đắn, không phải là mục tiêu cao nhất và phù hợp nhất của
giáo dục phổ thông. Khi không xác định rõ mục tiêu đúng đắn và phù hợp, lại
5


thiếu cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn, những giải pháp cụ thể có thể sẽ dẫn từ
sai lầm này sang sai lầm khác.
Điều cốt lõi trong đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo là phải lấy mục tiêu
coi trọng dạy chữ và dạy người, hình thành nhân cách, phát triển năng lực, hoạt
động thực tiễn, chuyển từ giáo dục thụ động, thi cử vì bằng cấp mà có khi chỉ
nhằm đáp ứng “tiêu chuẩn cán bộ’’ sang giáo dục chủ động, tương tác, xử lý tình
huống. Đồng thời là đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp đào tạo từ
cách làm chủ yếu quan tâm phát triển về quy mô sang đảm bảo phát triển cả về
quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục; tăng thời lượng thảo luận và thực hành;
gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo; chú trọng rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng nghề
nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm; từ một nền giáo dục cứng nhắc, thiếu liên thông

hiện nay, phải xây dựng nền giáo dục có tính “mở”, liên thông giữa các cấp học,
trình độ đào tạo, đảm bảo điều kiện cho mọi người dân được học tập suốt đời,
xây dựng xã hội học tập. Chú trọng hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục
trong và ngoài nhà trường, rèn luyện phương pháp tự học và mong muốn học
suốt đời. Giáo dục thường xuyên cần tổ chức được nhiều hình thức học tập cho
người dân. Có mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên, các trung tâm học tập
cộng đồng và hình thức học tập phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học, tăng
cường hình thức giáo dục từ xa, học qua in-tơ-nét. Giáo dục phải đáp ứng nhu
cầu xã hội, một nền giáo dục mở, linh hoạt, phân luồng và liên thông, tiến tới xây
dựng một xã hội học tập.
Về đổi mới căn bản giáo dục, chúng ta cũng cần phải đổi mới cơ chế,
chính sách, tiền lương, phụ cấp đối với đội ngũ giáo viên, những nhà quản lý giáo
dục: tăng lương cơ bản, đãi ngộ thích hợp... Trước kia, chỉ có học sinh kém học
sinh trung bình mới phải học phụ đạo. Việc học phụ đạo là để giúp các em có học
lực kém hoặc trung bình củng cố thêm kiến thức, đuổi kịp các bạn cùng lớp. Nay
thì ở các thành phố, hầu như việc học thêm là đương nhiên, không đi học thêm
mới là bất bình thường, cho dù học sinh đó là giỏi hay khá. Còn ở nông thôn, do
điều kiện kinh tế nhưng tình trạng dạy thêm, học thêm không ít hơn là bao.
Những hình thức biến thái của học thêm cho thấy một thực trạng là do đời sống
6


giáo viên chưa được đảm bảo, nhà giáo phải tìm cách bươn trải để nâng cao thu
nhập. Điều này làm tổn hại đến hình ảnh người thầy trong mắt học trò.
Để đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo ta cần phải đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục và đào tạo, chất lượng nghiên cứu khoa học trong giáo dục, cơ chế chính
sách đầu tư và tài chính nhằm huy động nguồn lực cho giáo dục, đào tạo, xây
dựng cơ sở hạ tầng. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân
chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục;
coi trọng quản lý chất lượng. Quản lý tốt là tiền đề căn bản để dạy tốt và học tốt.

Đảm bảo các cơ quan quản lý giáo dục địa phương được chủ động quyết định
hoặc tham gia trực tiếp về quản lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục mầm non, phổ thông, nghề nghiệp. Hoàn
thiện cơ chế quản lý lưu học sinh ở nước ngoài, cơ chế liên kết đào tạo với nước
ngoài và cơ chế quản lý những cơ sở giáo dục nước ngoài ở Việt Nam. Đổi mới
quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo theo hướng phát huy dân chủ, tính sáng tạo; giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
nhân lực, tài chính, tài sản. Thực hiện cơ chế tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội,
công khai, chịu sự giám sát của các chủ thể trong nhà trường, của Nhà nước và
của xã hội đối với cơ sở giáo dục.
Đồng thời không nên xem nhẹ hoạt động kiểm tra, thi và đánh giá trong
nhà trường phổ thông, bởi đây là một mắt xích trọng yếu, một khâu cần “đột phá”
của đổi mới giáo dục và đào tạo. Cần đổi mới kiểm tra, thi và đánh giá một cách
mạnh mẽ, nhằm bảo đảm độ tin cậy, chính xác, tính khách quan, trung thực về
kết quả học tập của học sinh; làm cơ sở cho việc điều chỉnh cách dạy, cách học.
Cụ thể là: Xác định đúng mục tiêu kiểm tra, đánh giá phù hợp với đối tượng và
yêu cầu; xây dựng nội dung và hình thức kiểm tra, thi, đánh giá theo chuẩn năng
lực; đánh giá được sự tiến bộ của người học; đổi mới việc ra đề thi, phương pháp
xử lý kết quả và sử dụng kết quả. Cần làm rõ kiểm tra, đánh giá không chỉ tập
trung vào việc xem học sinh học cái gì mà quan trọng hơn là kiểm tra học sinh đó
học như thế nào, có biết vận dụng không. Định hướng này buộc đổi mới đề thi
yêu cầu vận dụng, thực hành, kiểm tra năng lực sáng tạo… Cần kết hợp kết quả
của đánh giá thường xuyên với kết quả đánh giá cuối cùng. Việc đánh giá cũng
7


phải đa chiều: học sinh tự đánh giá; học sinh đánh giá học sinh, giáo viên đánh
giá học sinh. Học đến đâu kiểm tra, đánh giá đến đó, với các kỳ thi quan trọng, đề
bài sẽ yêu cầu vận dụng tổng hợp kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực/môn
học để giải quyết một vấn đề chung, liên quan nhiều đến thực tiễn.

Có thể nói rằng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục có tầm
quan trọng đặc biệt, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc
trong giai đoạn mới. Bởi vì, sức mạnh của một dân tộc, năng lực cạnh tranh của
một quốc gia đang chuyển mạnh từ nguồn lực tài nguyên, vốn, lao động sang tri
thức, trí tuệ, nguồn nhân lực chất lượng cao- là năng lực tổng hợp của những thế
hệ người làm chủ thể vững vàng, tin cậy, đầy bản lĩnh của một dân tộc. Và đó
phải là sản phẩm của một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại.
Đổi mới quản lý giáo dục trong nhà trường là một tất yếu khách quan và
cũng là sự đòi hỏi thật sự cấp thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Vì thế,
người cán bộ quản lý nói chung và người hiệu trưởng (HT) nói riêng cần phải có
tâm và có tầm: có năng lực, trình độ; phải đổi mới tư duy; cách nghĩ, cách làm
phải sáng tạo và phát huy hết năng lực của mình cho sự phát triển của nhà trường
phù hợp những yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết đó là phát triển đội ngũ. Đội ngũ cán bộ, viên chức là lực lượng
cơ bản tham gia xây dựng và phát triển nhà trường, trong đó đội ngũ giáo viên có
vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Vì vậy, người HT
phải nắm rõ vai trò quản lý của mình. Cụ thể, HT phải xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu và chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống,
lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lý phát triển đúng định
hướng và có hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Huy động mọi nguồn lực phát triển nhà trường bao gồm: Nguồn nhân
lực, nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực thông tin. Trên cơ sở nắm
vững các nhân tố bên trong và bên ngoài nhà trường ảnh hưởng đến nguồn lực,
HT xác định được vai trò của mình trong việc huy động các nguồn lực phát triển
nhà trường. Đó là lập kế hoạch huy động các nguồn lực của nhà trường là thiết
8



lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận, sao cho các cá nhân và
bộ phận có thể kết hợp với nhau một cách tốt nhất để thực hiện các mục tiêu về
huy động các nguồn lực của nhà trường. Lãnh đạo huy động các nguồn lực trong
nhà trường là việc định ra chủ trương đường lối, mục đích, tính chất, nguyên tắc
hoạt động của nhà trường để huy động các nguồn lực. Kiểm tra là quá trình xem
xét các hoạt động nhằm mục đích làm cho các hoạt động đạt kết quả tốt hơn,
đồng thời kiểm tra giúp phát hiện ra những sai sót, sai lệch để có biện pháp khắc
phục đảm bảo cho hoạt động huy động các nguồn lực thực hiện đúng hướng.
Phát triển giáo dục toàn diện học sinh là lãnh đạo và quản lý các hoạt
động dạy học, giáo dục nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản hình thành nhân cách con người
Việt Nam. HT cần phải trang bị cho mình cách nhìn mới về chương trình quản lý
giáo dục, đó là: Tập trung vào việc lãnh đạo quản lý nhà trường là một vấn đề cấp
thiết, vì rằng xu hướng đẩy mạnh phát triển toàn cầu đang đặt ra những cơ hội và
thách thức đối với sự phát triển trước hết phải nhanh chóng tiếp cận với tư duy
mới. Tập trung vào việc lãnh đạo quản lý, vào sự đổi mới, thực tế hiện nay cần
phải thay đổi một số vấn đề như sau: Đối với giáo viên còn nhiều bất cập về phân
công lao động, chế độ tiền lương. Đối với học sinh vẫn còn một số em cá biệt,
ham chơi hơn ham học. Đối với cha mẹ học sinh: Không hài lòng về cơ sở vật
chất trường lớp, còn phó thác về trách nhiệm giáo dục cho nhà trường.
Đảm bảo tính dân chủ, công bằng. Người HT cần tổ chức đánh giá xếp
loại thi đua một cách khách quan, dân chủ và đảm bảo tính công bằng. Xây dựng
quy chế khen thưởng phù hợp với tình hình của nhà trường nhưng vẫn động viên
khích lệ được cán bộ, giáo viên, nhân viên. Thực hiện công bằng trong giáo dục
không chỉ thể hiện ở chính sách đãi ngộ đúng đối với từng người mà còn cần
công bằng về định biên, biên chế giữa các vùng miền, giữa các đơn vị. Không để
cùng ở vị trí giáo viên đồng cấp, có nơi chỉ dạy 8-10 tiết ở vùng thuận lợi (ở thị
thành, đồng bằng, trường trung tâm… ), còn nơi khó khăn (vùng sâu, vùng xa,
khó khăn, làng nghề…) thì phải dạy 19-20 tiết/ tuần. CBGV đi vùng xa, vùng khó
phải luân phiên để đảm bảo công bằng. Người giỏi là người làm việc có chất

lượng và hiệu quả cao ở những vùng khó khăn càng cần được đãi ngộ xứng đáng
9


(như lên lương nhanh), không kể tuổi tác hay tuổi nghề. Trái lại những CBGV ở
những vùng thuận lợi mà công tác chỉ ở mức trung bình, chậm tiến bộ thì sẽ nhận
sự đãi ngộ thấp (kéo dài thời gian nâng lương). Nếu thực hiện được chế độ đãi
ngộ công bằng như vậy, chắc chắn tạo ra sự chuyển biến tích cực, khắc phục
được tình trạng trì trệ trong ngành giáo dục hiện nay.
Với các phong trào thi đua mà Bộ GD&ĐT, Công đoàn GD phát động và
triển khai thực hiện trong những năm gần đây cần thực hiện thực chất chứ không
phải thi đua theo kiểu hình thức; trong ngành giáo dục cũng như các ngành khác
điều quan trọng trước hết phải có chính sách trọng dụng người tài đi đôi với sa
thải người yếu kém, không còn đạt yêu cầu ở vị trí công tác. Ngoài ra, cũng cần
có cách dùng người phù hợp, hiệu quản và có sự đãi ngộ đúng với kết quả đóng
góp và cống hiến của từng người. Có như vậy, mới phát huy được năng lực và
tâm huyết của cán bộ quản lý cũng như đội ngũ giáo viên; cần thực hiện nghiêm
túc việc khen thưởng cũng như kỉ luật.
Trong đãi ngộ không nên cào bằng. Bởi nếu “cào bằng” thì không ai muốn
phấn đấu làm gì. Nâng lương cứ đến hẹn lại lên, người giỏi không hơn gì kẻ kém.
Nếu một nhà trường, cơ sở vật chất-kỹ thuật được trang bị đầy đủ, đội ngũ chuẩn
hoá 100%, sách giáo khoa là tối ưu, lương giáo viên trả cao ... nhưng với cung
cách quản lí hiện nay thì chất lượng và hiệu quả giáo dục cũng không được nâng
lên đáng kể. Đó là chưa nói tác hại của những cái tiêu cực khá phổ biến trong
ngành như căn bệnh thành tích vẫn còn nặng nề, công tác tuyển dụng, bổ nhiệm
không công bằng và minh bạch; nạn hối lộ, tham nhũng, lợi ích nhóm…hầu như
đâu cũng có làm ảnh hưởng tới lý tưởng của không ít cán bộ quản lý và giáo
viên; làm mất lòng tin của đội ngũ giáo viên, của cha mẹ học sinh và đem lại
những hệ lụy phản giáo dục đối với học sinh.
Giáo viên là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục, vì vậy phải

coi trọng công tác tuyển dụng để đưa vào ngành những người đủ tiêu chuẩn,
đồng thời sa thải những người yếu kém về chuyên môn và đạo đức. Phải đặt mọi
CBGV vào thế có thể bị thay đổi, bị sa thải, nếu không nỗ lực phấn đấu để không
ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm và luôn trau dồi đạo đức, nhân cách
của người Thầy. Tùy tình hình thực tế ở mỗi địa phương, cần đặt ra một tỷ lệ nhất
10


định sẽ bị đưa ra ngoài biên chế (hoặc kết thúc hợp đồng) hằng năm những
CBGV không còn đáp ứng được yêu cầu về năng lực chuyên môn, năng lực quản
lí cũng như tư cách đạo đức yếu kém; điều đó là lẽ đương nhiên của một “cơ thể
sống” luôn cần sự đồng hóa và dị hóa. Việc này xem ra như thiếu nhân đạo,
nhưng nhìn tổng thể lại là nhân đạo nhất. Phải tạo ra một áp lực cho tất cả CBGV
để họ luôn có ý thức phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng, học tập để đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ.
Hiện nay, không ít sinh viên khá giỏi tốt nghiệp ngành sư phạm vẫn chưa
có việc làm, họ rất thiết tha được làm thầy để được thể hiện năng lực và tâm
huyết với nghề mà mình yêu thích . Phải để họ thay thế giáo viên yếu kém. Trong
giáo dục cũng cần phải có sự cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên, từ đó nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Yêu cầu đối với cán bộ quản lý là phải tìm ra những biện pháp có tính sáng
tạo và khả thi để đưa đơn vị từ trung bình vươn lên khá, khá rồi làm cho tốt, tốt
rồi vẫn phải tiếp tục phấn đấu để tốt hơn nữa. Có làm như vậy thì khẩu hiệu Mỗi
thầy cô giáo là tấm gương tự học và sáng tạo mới thành hiện thực. Chính trong
khó khăn mới phát hiện ra người tài. Mặt khác, muốn phát huy được động lực
phấn đấu vững bền đối với cán bộ quản lý và giáo viên thì cần xây dựng và thực
hiện chế độ đãi ngộ tương ứng với kết quả cống hiến của từng người.

Bài tập 2: Thiết kết một hoạt động quản lý dựa trên một mô hình lý thuyết.
11



BÀI LÀM
Trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi có sự phân công lao động đã
xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù, đó là tổ chức, điều khiển các
hoạt động lao động theo những yêu cầu nhất định. Dạng lao động mang tính đặc
thù đó được gọi là hoạt động quản lý.
Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý vừa là khoa học,
vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi
mô. Đó là những hoạt động cần thiết phải thực hiện khi những con người kết hợp
với nhau trong các nhóm, các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
Khái niệm “quản lý” được định nghĩa khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau, trên bình diện mọi sự vật hiện tượng luôn vận động và
phát triển không ngừng. Quản lý là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý để lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển đối tượng quản lý
thực hiện nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Như vậy, có thể nói quản lý là tác động
liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý) tới khách
thể quản lý (người bị quản lý), trong một tổ chức về mặt chính trị, văn hóa, kinh
tế, xã hội… bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, các phương
pháp và biện pháp cụ thể… nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục tiêu của
tổ chức …
Ngày nay, việc quản lý các tổ chức trong thời đại công nghệ thông tin ngày
càng phức tạp và khó khăn hơn vì cả thế giới đang trải qua cuộc cách mạng công
nghệ cao, xã hội trở nên có học vấn cao hơn. Do đó, việc quản lý các tổ chức
hiện đại đòi hỏi nhà quản lý cần có cấp độ kỹ năng cao hơn trước.
Khi nói đến hoạt động quản lý thì trước hết phải nói đến khái niệm tổ
chức, theo đó, tổ chức được xem như một nhóm có cấu trúc nhất định những con
người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó mà một con người riêng lẻ
không thể nào đạt đến (tức là có quy mô, cấutrúc và có mục đích chung). Còn
hoạt động quản lý chính là các tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể

quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
12


Quản lý giáo dục (QLGD) là quá trình tác động có định hướng của người
QLGD trong việc vận dụng những nguyên lý, phương pháp chung nhất của khoa
học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được mục tiêu mà giáo dục đề ra.
QLGD không những là nhân tố quyết định đến sự phát triển của giáo dục mà còn
là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng GD - ĐT.
Quản lý nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có
hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã
đề ra một cách hiệu quả.
Hoạt động dạy học là quá trình giáo viên tiến hành các thao tác có tổ chức,
có định hướng và học sinh bằng hoạt động của bản thân, từng bước có năng lực
tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các
hiểu biết, các kĩ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên
cơ sở đó có khả năng giải quyết được các yêu cầu thực tế đặt ra trong toàn bộ
cuộc sống của mỗi học sinh.
Trong nhà trường, quản lý hoạt động dạy học là quá trình cán bộ quản
lý xác lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra hoạt động dạy của giáo
viên và hoạt động học của học sinh nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay là chuyển đổi thành
công từ quản lý hoạt động dạy học lấy kiến thức sang quản lý hoạt động dạy học
lấy năng lực của người học làm mục tiêu dạy học.
QL hoạt động dạy học ở trường tiểu học theo nhiều cách tiếp cận nó đòi
hỏi người cán bộ quản lý (CBQL) phải có cách quản lý để GV có khả năng khơi
dậy hứng thú của HS, làm cho HS hứng thú trong suốt năm học và biết điều
chỉnh phương pháp giảng dạy của mình theo nhu cầu của HS. Ỏ đây, ta quan tâm
đến: quản lý đường đi và việc tham gia của HS cũng như các can thiệp của GV;

quản lý các giai đoạn cần ưu tiên trong việc xây dựng kế hoạch môn học hoặc bài
học của GV và trong đánh giá HS; quản lý việc đưa ra các hoạt động thích hợp
với một sự dẫn dắt hoạt động và một sự giao tiếp hiệu quả; quản lý ảnh hưởng
của các yếu tố bên trong và bên ngoài của môi trường, thôi thúc GV và HS trong
tiến hành riêng rẽ của họ.
Trong quá trình này, ta quan tâm đến quản lý các yếu tố cơ bản sau:
13


- Quản lý GV giữ vai trò chủ đạo trong quá trình quản lý hoạt động dạy học.
Thông qua quản lý việc sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học
thích hợp và thông qua chính nhân cách của GV, quản lý việc GV chỉ đạo và trực
tiếp tác động lên quá trình cải biến nhân cách của HS. QL vai trò chủ đạo của
GV thể hiện ở việc quản lý tổ chức điều khiển hoạt động học tập, bao gồm:
+ Quản lý việc đề ra mục đích, yêu cầu nhận thức, học tập.
+ Quản lý việc xây dựng kế hoạch hoạt động của GV cùng với dự kiến
kế hoạch hoạt động của HS.
+ Quản lý việc tổ chức hoạt động dạy của GV và hoạt động học tương ứng
của HS.
+ Quản lý việc khơi dậy và kích thích tính tự giác, tích cực của HS.
+ Quản lý việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS, từ đó
có cách điều chỉnh cho phù hợp.
- Quản lý HS giữ vai trò trung tâm, là đối tượng của quá trình quản lý hoạt
động dạy học.
Quản lý hoạt động do HS thực hiện bao gồm quản lý hai chức năng: quản
lý chức năng lĩnh hội và quản lý chức năng tự điều khiển. Trong đó, quản lý tự
điều khiển có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện tính tự giác, tích cực, chủ động
sáng tạo trong mọi hoạt động lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo của HS
nhằm mục tiêu đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
Các thành tố của quá trình hoạt động DH có mối quan hệ qua lại

tác động lẫn nhau, trong đó GV giữ vai trò chủ đạo, HS giữ vai trò chủ động.
- Quản lý môi trường dạy học
Ở đây không chỉ là quản lý các đòi hỏi của xã hội (mô hình nhân cách) đặt
ra cho nhà trường, trong đó có quá trình quản lý hoạt động dạy học; cũng không
chỉ quản lý các điều kiện vật chất, tinh thần; các yếu tố bên trong, bên ngoài GV
và HS ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học. Ngoài ra, cần lưu ý quản lý các tình
huống hoạt động dạy học do GV tạo ra cho HS hoạt động, cải biến và thích nghi.
Những nhiệm vụ nhận thức được đề xuất một cách hợp lý trong từng tình huống
dạy học nhanh chóng được HS nhận thức và tự giác thực hiện bằng việc chủ
động huy động, sử dụng một cách hiệu quả tất cả các điều kiện bên trong (như
14


động cơ học, tri thức, kĩ năng, vốn sống được hình thành trước đó, tình cảm và ý
chí), và các điều kiện bên ngoài (như tài liệu học tập, thời gian và các thiết bị kĩ
thuật, sự giúp đỡ của GV, của bạn cùng học và những người lớn khác...), kết quả
là họ lĩnh hội được tri thức, kĩ năng của môn học và nhiều giá trị khác.
Quản lý môi trường dạy học được hiểu là quản lý môi trường hoạt động, là
quản lý yếu tố kết nối giữa GV- HS. Các yếu tố này luôn ở trong trạng thái động,
tương tác tích cực với nhau, trở nên có ý nghĩa hơn đối với HS lẫn GV và hoạt
động của họ.
Vậy quản lý môi trường dạy học là những điều kiện cụ thể và đa dạng của
hoạt động dạy học do GV tạo ra, tổ chức cho HS hoạt động, thích nghi, trên nền
tảng những lựa chọn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu đặt ra cho HS nhằm đạt
được các nhiệm vụ dạy học.
Trong nhà trường, mọi hoạt động đều nhằm phục vụ mục tiêu nâng cao
chất lượng của hoạt động dạy học. Tuy nhiên, hoạt động dạy học vẫn là trọng tâm
của công tác quản lý ở trường phổ thông. Quản lý hoạt động dayj học trong các
nhà trường hiện nay cần tập trung ưu tiên các nội dung quản lý cơ bản sau: Quản
lý hoạt động dạy; Quản lý hoạt động học; Quản lý môi trường dạy học.

Trong bài tập này, em tập trung thiết kết quản lý hoạt động dạy của người
giáo viên tiểu học.
Thứ nhất, quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học.
Mục tiêu, chương trình dạy học là Pháp lệnh của Nhà nước do các chuyên
gia giáo dục học, tâm lý học, xã hội học và các nhà quản lý giáo dục,... cùng phối
hợp nghiên cứu để sắp xếp khoa học và được thể hiện trong sách giáo khoa, giáo
trình và phân phối chương trình.
Để quản lý tốt việc thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học ở nhà trường
cần:
- Xây dựng kế hoạch dạy học: Đảm bảo dạy đủ số môn học, hoạt động bắt
buộc và đủ thời lượng tối thiểu nêu trong kế hoạch dạy học. Các hoạt động dạy ở
các lớp 1, 2, 3 chủ yếu thực hiện ở nhà trường, hạn chế học và làm bài ở nhà.
- Chủ động lựa chọn, cập nhật nội dung dạy học và đưa các nội dung GD
địa phương theo quy định của chương trình từng môn học. Phân phối thời lượng
15


dạy học các môn học bắt buộc, các nội dung dạy học tự chọn theo đặc điểm
nhận thức của HS.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học: Hướng dẫn, giám sát, khuyến khích
GV xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung từng tiết giảng, từng bài, từng chương
và từng môn học nhằm thực hiện đúng mục đích phát triển giáo dục tiểu học.
- Tổ chức hoạt động đánh giá và tự đánh giá (định kỳ, không định kỳ, bất
thường) trong đội ngũ GV về kết quả thực hiện mục tiêu, nội dung, kế hoạch theo
chương trình tiểu học.
Thứ hai, quản lý đổi mới phương pháp dạy học
Dạy học là một khoa học đồng thời còn là một nghệ thuật. Nhà giáo dụcngười GV phải đáp ứng tốt mọi quan tâm của xã hội. Để làm được việc này, GV
phải luôn chủ động, sáng tạo trong vai trò của mình. Đổi mới PPDH là một yêu
cầu cấp bách có tác dụng thiết thực để nâng cao chất lượng GD.
Đổi mới phương pháp là biết kết hợp các phương pháp truyền thống và

hiện đại, bằng nhiều cách khác nhau, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của
HS trong quá trình dạy học. Hoạt động dạy học không chỉ tập trung vào nội dung
mà còn tập trung vào hình thành phương pháp học tập, tự phát hiện, tự giải quyết
vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức. GV và HS đều là chủ thể của hoạt động DH.
Không nên nhồi nhét, áp đặt, truyền thụ kiến thức một chiều.
Thứ ba, quản lý việc triển khai quan điểm sư phạm tương tác vào trong
hoạt động dạy của giáo viên.
Việc chuẩn bị bài lên lớp là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình
dạy học. Sự thành công của bài dạy được thể hiện rất nhiều ở giai đoạn này.
Chuẩn bị chu đáo theo đúng kế hoạch bài dạy của GV theo chương trình SGK, tài
liệu tham khảo, phương tiện phục vụ hoạt động DH, hình thức tổ chức hoạt động
dạy học.
- Chuẩn bị chi tiết cho từng bài dạy, tiết dạy với công việc là soạn giáo án,
chuẩn bị cơ sở phương tiện DH thích hợp, xử lý tốt các tình huống sư phạm.
- Soạn bài: Trên cơ sở SGK, sách hướng dẫn, với những điều kiện,
phương tiện dạy học xây dựng bài soạn. Đây được coi là "bản thiết kế kĩ thuật"
cho một tiết lên lớp.
16


- Giờ lên lớp là công đoạn hoàn thiện của quá trình chuẩn bị theo kế hoạch
giảng dạy. Mỗi giờ lên lớp, hoạt động DH có sự tác động của các yếu tố cơ bản
trong quá trình DH như: mục đích, nội dung, PP, phương tiện DH. Giờ lên lớp sẽ
quyết định chất lượng dạy học. GV được coi là người "thi công", trực tiếp điều
khiển HS học tập đạt kết quả.
Để quản lý tốt việc chuẩn bị bài lên lớp, giờ lên lớp của GV, cán bộ quản lý
cần chú ý một số nội dung cơ bản sau đây:
- Chỉ đạo nhóm, tổ chuyên môn (CM) thống nhất kế hoạch chuẩn bị bài lên
lớp. Cố gắng phát huy tối đa tinh thần sáng tạo, tìm kiếm những cái mới trong
việc soạn bài. Chỉ đạo chi tiết, thống nhất về nội dung, tránh tình trạng dập

khuôn, máy móc.
-Tích cực kiểm tra việc soạn bài, sổ thông báo, sổ báo bài của GV. Thông
qua báo cáo thường kỳ của tổ, nhóm chuyên môn, thông qua ý kiến của GV chủ
nhiệm, GV bộ môn, PHHS và phỏng vấn HS, kiểm tra vở ghi của HS để tìm hiểu
đánh giá việc thực hiện chương trình, duy trì nề nếp hoạt động DH.
- Cung cấp đầy đủ sách hướng dẫn, sách tham khảo, SGK, trang thiết bị
phục vụ cho hoạt động dạy học trong nhà trường.
- Xây dựng tiêu chuẩn giờ lên lớp theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT trên cơ
sở đó có sự vận dụng một cách linh hoạt giữa các bộ môn.
- Có kế hoạch dự giờ, thăm lớp, rút kinh nghiệm. Dự giờ, thăm lớp là cách
kiểm tra việc soạn bài và lên lớp tốt nhất của CBQL các cấp. Qua việc dự giờ,
người CBQL có cơ sở để phân tích sư phạm của bài dạy, xác định được trình độ,
năng lực sư phạm của GV, cách thức tổ chức, điều khiển lớp của GV từ đó giúp
GV tìm ra mặt mạnh, mặt yếu để GV phấn đấu.
Thứ tư, quản lý việc sử dụng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
GV là người được đào tạo chu đáo về nghiệp vụ sư phạm, có kiến thức
khoa học chuyên ngành, có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt. Tuy nhiên, trong
thực tế GV ở mỗi trường đều có nhiều thế hệ khác nhau, được đào tạo từ nhiều
nguồn khác nhau, do đó trình độ không đồng đều. Vì vậy, việc bồi dưỡng, nâng
cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ GV là rất cần thiết. GV là nhân tố quyết

17


định chất lượng dạy học. Thực hiện bồi dưỡng thường xuyên theo chu kì nhằm
chuẩn hóa, nâng chuẩn là việc cần thường xuyên quan tâm, động viên.
Để làm tốt công tác này, CBQL cấp Phòng và cấp trường cần chú ý các vấn
đề sau:
- Người CBQL trước hết phải là tấm gương tự học, tự rèn, trong việc học
tập, bồi dưỡng để mọi người noi theo.

- Tổ chức và chỉ đạo các tổ CM sinh hoạt có chất lượng, thường xuyên dự
giờ, thăm lớp, học tập lẫn nhau trong đồng nghiệp.
- Tổ chức sinh hoạt, trao đổi sáng kiến kinh nghiệm.
- Cử GV có kinh nghiệm, năng lực chuyên môn vững giúp đỡ GV mới, GV
ít kinh nghiệm; đề cao tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp, giúp GV có ý thức tự học
hỏi, khiêm tốn, cố gắng vươn lên.
- Tạo điều kiện để GV được dự các lớp bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng
thường xuyên. Cử đi học tại chức hoặc học tập trung đối với những GV có khả
năng phát triển.
Thứ năm, quản lý hoạt động kiểm tra - đánh giá giáo viên
Kiểm tra, đánh giá trong quản lý nhà trường là công việc không thể thiếu.
Hoạt động này nhằm thu thập thông tin, tiếp nhận các dữ kiện, đánh giá kết quả
hoạt động dạy học, đối chiếu với mục tiêu để có những quyết định tiếp theo
trong quá trình điều hành hoạt động dạy học.
Khi kiểm tra, đánh giá GV sẽ có những thông tin giúp CBQL nắm bắt đầy
đủ hơn về hoạt động của GV.
Để thực hiện tốt hoạt động này, người CBQL cần chú ý:
- Triển khai các văn bản quy định, yêu cầu về việc kiểm tra, đánh giá GV;
- Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá GV trong nhà trường;
- Thực hiện kế hoạch kiểm tra, đánh giá GV: định kỳ, đột xuất,...;
- Thông báo kết quả kiểm tra, đánh giá GV;
- Điều chỉnh, xử lý kịp thời những nội dung và thông tin sau kiểm tra, đánh giá.
* Quản lý tương tác hoạt động dạy- hoạt động học
Quản lý tương tác hoạt động dạy và hoạt động học là một trong những mối
quan hệ tương tác chủ đạo trong quản lý hoạt động dạy học. Chúng có chức năng
18


chính trong việc thúc đẩy quản lý hoạt động dạy học theo mục tiêu đã định. Đồng
thời là phương tiện hữu hiệu để cả GV và HS cùng điều chỉnh hoạt động của bản

thân, giúp cho quá trình dạy học luôn nằm trong tầm kiểm soát, loại bỏ được khả
năng chệch hướng và đảm bảo tính vừa sức đối với HS. Quản lý thông qua mối
quan hệ tương tác này, HS luôn tìm được niềm tin và sự nâng đỡ từ phía GV, tạo
động lực để HS dấn thân vào quá trình học tập đầy khó khăn và thử thách.
Quản lý hoạt động học, thông qua hoạt động học, tác động đến GV hệ
thông tin dưới dạng các câu hỏi, lời bình luận hoặc bằng thái độ, cử chỉ,… Đáp
lại tác động này từ phía HS, GV tác động đến HS bằng các thông tin như câu trả
lời, các thông tin phụ, sự động viên hay bằng hội thoại trao đổi với HS về vấn đề
HS quan tâm để các em nắm bắt ý nghĩa thông tin tốt hơn và những lời khuyên
bổ ích cho những định hướng tiếp theo của mình. Như vậy, trong tương tác nêu
trên thì HS đã tác động và GV về phần mình đã phản ứng một cách chính xác và
kịp thời trong một môi trường mà cả hai đều chấp nhận.
Quản lý hoạt động dạy, bằng phương pháp sư phạm của mình, GV đã tác
động đến HS thông qua những gợi ý về hướng đi, chỉ ra các giả thiết phải vượt
qua, các phương pháp và phương tiện cần sử dụng để HS đạt được các mục tiêu
học tập đề ra.
Đôi khi GV tạo ra những chướng ngại, vật cản để gia tăng cơ hội hoạt
động và học tập cho HS. Đáp lại những tác động của GV, HS đi theo con đường
mà GV vạch ra hay những gợi ý để HS chọn lựa. Khi con đường được HS lựa
chọn đạt được mục tiêu học tập, HS dễ dàng có thiện cảm với GV. Trong quan hệ
này, GV đã hoạt động và HS thì phản ứng. Hay nói cách khác, GV là tác nhân
gây ra những phản ứng của HS và nhận được những tác động trở lại từ phía HS.
Nhìn chung, quản lý quan hệ tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động
học trong quá trình quản lý hoạt động dạy học chủ yếu hướng đến mục tiêu kiểm
soát và giúp HS tự kiểm soát hoạt động học tập của bản thân, tăng cường xây
dựng và duy trì hoạt động học tập cho HS, gia tăng động cơ và duy trì hứng thú
học tập cho HS, tạo cơ hội và điều kiện phát triển khả năng tìm tòi, khám phá cho
HS, giúp HS sáng tỏ hay gạn lọc ý tưởng từ đó tích lũy tri thức cho bản thân, tăng
cường sự tham gia học tập của HS, phát triển khả năng giao tiếp, xây dựng mối
19



quan hệ và sự gắn kết giữa những HS… Xét về tương quan nắm thế chủ động của
mối quan hệ tương tác này thì cơ bản có xu thế nghiêng về phía GV, tức là GV
thường áp đặt, điều khiển thậm chí khống chế trong quan hệ tương tác giữa bản
thân với HS. Tuy nhiên, theo quan điểm hiện đại thì nó phải vận hành theo hướng
ngược lại mới đúng, nghĩa là HS cần nắm thế chủ động, tích cực thực hiện và
tham gia tương tác với GV để tìm kiếm nguồn động lực, tìm kiếm đường hướng
giải quyết vấn đề của bản thân hay nhiệm vụ học tập.
Chừng nào sự dịch chuyển vai trò nắm thế chủ động từ thầy sang
trò được thực hiện tối ưu, thì khi ấy quá trình quản lý hoạt động dạy học mới thực
sự là hướng vào HS, HS mới được đặt ở vị trí trung tâm như định hướng đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục.
Phân tích mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học, chúng ta có
thể đi đến kết luận: Hoạt động học, trong đó có hoạt động nhận thức của học sinh
có vai trò quyết định kết quả dạy học. Để hoạt động học có kết quả thì trước tiên
chúng ta phải coi trọng vai trò người giáo viên, giáo viên phải xuất phát từ lôgíc
của khái niệm khoa học, xây dựng công nghệ dạy học, tổ chức tối ưu hoạt động
cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng của dạy cũng như của học,
đồng thời bảo đảm liên hệ nghịch thường xuyên, bền vững. Vì vậy, muốn nâng
cao mức độ khoa học của việc dạy học ở trường phổ thông thì người cán bộ quản
lý phải đặc biệt chú ý hoàn thiện hoạt động dạy của giáo viên; chuẩn bị cho họ có
khả năng hình thành và phát triển ở học sinh các phương pháp, cách thức phát
hiện lại các thông tin học tập. Đây là khâu cơ bản để tiếp tục hoàn thiện tổ chức
hoạt động học của học sinh. Nếu xét quá trình dạy học như là một hệ thống thì
trong đó, quan hệ giữa hoạt động dạy của thầy với hoạt động học của trò thực
chất là mối quan hệ điều khiển. Với tác động sư phạm của mình, thầy tổ chức,
điều khiển hoạt động của trò. Từ đó, chúng ta có thể thấy công việc của người
quản lý nhà trường là: hành động quản lý (điều khiển hoạt động dạy học) của
hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào hoạt động dạy của thầy và trực tiếp đối với

thầy; thông qua hoạt động dạy của thầy mà quản lý hoạt động học của trò.

20


Hiểu được những điều đó, trong công tác quản lý chỉ đạo của mình, em
chú trọng tới vai trò của người thầy trong hoạt động giáo dục cũng như xác định
việc làm đầu tiên và tiên quyết là quản lý hoạt động dạy của giáo viên.

Nhận xét của giảng viên chấm bài:
................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

21


................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

.................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................


................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................................................................

Điểm:

Giảng viên kí và ghi rõ họ tên
..................................................................................................................

22



×