Tải bản đầy đủ (.doc) (212 trang)

Vai trò của trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong xây dựng quân đội nhân dân việt nam vững mạnh về chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.19 KB, 212 trang )

B QUC PHềNG

HC VIN CHNH TR

VN TRNG

VAI TRò CủA TRí THứC KHOA HọC Xã HộI
Và NHÂN VĂN QUÂN Sự TRONG XÂY DựNG QUÂN
ĐộI
NHÂN DÂN VIệT NAM VữNG MạNH Về CHíNH TRị
HIệN NAY

LUN N TIN S TRIT HC


HÀ NỘI - 2018


B QUC PHềNG

HC VIN CHNH TR

VN TRNG

VAI TRò CủA TRí THứC KHOA HọC Xã HộI
Và NHÂN VĂN QUÂN Sự TRONG XÂY DựNG QUÂN
ĐộI
NHÂN DÂN VIệT NAM VữNG MạNH Về CHíNH TRị
HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Ch ngha xó hi khoa hc
Mó s



: 922 90 08

LUN N TIN S TRIT HC

NGI HNG DN KHOA HC:
1. PGS, TS Nguyn ỡnh Minh
2. PGS, TS T Vit Hựng


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Văn Trường


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐÈ TÀI LUẬN ÁN
1.1
Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.2
Một số công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
Khái quát kết quả của các công trình đã khảo cứu có liên quan đến
1.3
đề tài luận án và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ TRONG
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG
MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ
2.1
Trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự và những vấn đề cơ
bản xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị
2.2
Nội dung vai trò và những yếu tố quy định thực hiện vai trò của trí
thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị
Chương 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ TRONG
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG
MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY
3.1
Thực trạng thực hiện vai trò của trí thức khoa học xã hội và nhân
văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững
mạnh về chính trị
3.2

Nguyên nhân thực trạng thực hiện vai trò của trí thức khoa học xã hội
và nhân văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị và một số vấn đề đặt ra hiện nay
Chương 4 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
QUÂN SỰ TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ HIỆN
NAY
4.1
Yêu cầu cơ bản phát huy vai trò của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị hiện nay
4.2
Những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của trí thức khoa học xã
hội và nhân văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh về chính trị hiện nay
KẾT LUẬN

Trang

5
10
10
15
25

31
31
52


76
76
106

121
121
131
165

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

167

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

168


PHỤ LỤC

184


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt


01
02

Bộ Quốc phòng
Chủ nghĩa xã hội

BQP

03

Công tác Đảng, công tác chính trị

CTĐ,CTCT

04

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

05

Đấu tranh tư tưởng, lý luận

ĐTTTLL

06

Đời sống văn hóa tinh thần


ĐSVHTT

07

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

08

Nhà xuất bản

Nxb.

9

Quân đội nhân dân Việt Nam

QĐNDVN

10

Quân ủy Trung ương

QUTW

11

Tổng cục Chính trị


TCCT

12

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

CNXH


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trí thức KHXH&NV quân sự là một bộ phận của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam công tác trong quân đội. Bằng lao động trí óc sáng tạo,
thế giới quan khoa học, sự hiểu biết sâu, rộng về đời sống xã hội, con người,
về thực tiễn hoạt động quân sự, cùng với lòng yêu nghề, phẩm chất đạo đức
trong sáng, họ luôn đóng vai trò quan trọng trong xây dựng QĐNDVN vững
mạnh về mọi mặt, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị là nguyên tắc căn bản
trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, là cơ sở để nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị có nội dung toàn diện, bao gồm xây dựng mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu của quân đội; xây dựng các tổ chức, các lực lượng trong quân
đội vững mạnh về chính trị; xây dựng các mối quan hệ chính trị - xã hội trong
quân đội thực sự dân chủ, đoàn kết và kỷ luật; xây dựng ĐSVHTT của bộ đội
phong phú, lành mạnh và ĐTTTLL, phản bác các quan điểm sai trái, phản
động của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

trong quân đội. Xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó trí
thức KHXH&NV quân sự đóng vai trò quan trọng.
Thực tiễn những năm qua, với trình độ học vấn cao, phương pháp tư
duy khoa học nhạy bén, trí thức KHXH&NV quân sự đã tính tích cực, chủ
động trong nghiên cứu khoa học, phổ biến, giáo dục, ứng dụng và làm giàu tri
thức KHXH&NV, góp phần củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực
lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
việc thực hiện vai trò của trí thức KHXH&NV quân sự vẫn còn những hạn
chế như: Nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển tri thức


6
KHXH&NV, nhất là những vấn đề lý luận xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị chưa chủ động, chất lượng chưa cao; phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng
tri thức KHXH&NV nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của
cán bộ, chiến sĩ còn có mặt hạn chế; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
chính trị của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
viên chức quốc phòng có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới; việc tiếp thu, ứng dụng tri
thức KHXH&NV trong xây dựng hệ thống các tổ chức vững mạnh về chính
trị còn chưa cao; tính chủ động, sáng tạo, tính chiến đấu và hiệu quả
ĐTTTLL, phản bác quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội còn thiếu vững chắc.
Hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị có bước phát triển cao hơn. Trong khi đó, các thế lực
thù địch, phản động đang triệt để lợi dụng những thành tựu của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến
hoà bình", âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội nhằm phá hoại nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; công kích,
xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và quân đội;
từng bước làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, mất cảnh giác, xa rời mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu, phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính
dân tộc. Tình hình trên, đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới, phức tạp cả
về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi KHXH&NV nước ta, trực tiếp là trí thức
KHXH&NV quân sự phải đi sâu nghiên cứu, lý giải có căn cứ khoa học nhằm
góp phần củng cố, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần làm cơ sở nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nhận định về
vấn đề này, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X
tại Đại hội XI đã chỉ rõ: “Khoa học xã hội làm tốt nhiệm vụ tổng kết thực


7
tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho
việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển đất nước trong giai đoạn mới”
[37, tr.78-79], đồng thời phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo
những giá trị văn hoá mới của Việt Nam.
Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
trong nước và ngoài nước bàn đến trí thức, trí thức quân đội, trí thức
KHXH&NV, trí thức KHXH&NV quân sự. Song, do mục đích, nhiệm vụ, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên các công trình đó chưa đề cập
hoặc có đề cập nhưng chưa toàn diện, thiếu hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn
về vai trò của trí thức KHXH&NV quân sự trong xây dựng quân đội về chính
trị, làm cơ sở định hướng việc phát huy vai trò của đội ngũ này trong xây
dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Vai trò của trí thức khoa

học xã hội và nhân văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị hiện nay” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò của trí thức
KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN về chính trị, đề xuất yêu cầu
và những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ này trong xây dựng
QĐNDVN vững mạnh về chính trị hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, khái
quát những kết quả chủ yếu và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết.
Luận giải một số vấn đề lý luận về vai trò của trí thức KHXH&NV
quân sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị.
Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của trí thức KHXH&NV quân sự
trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị, chỉ ra nguyên nhân của
thực trạng và một số vấn đề đặt ra hiện nay cần tập trung giải quyết.


8
Đề xuất yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò của trí thức KHXH&NV
quân sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của trí thức KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu vai trò của trí thức KHXH&NV quân
sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị.
Phạm vi về không gian: Tập trung nghiên cứu, khảo sát ở Viện
KHXHNVQS, Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan

Lục quân 1, Sư đoàn 316 (QK2), Sư đoàn 395 (QK3), Sư đoàn 3 (QK1)
Phạm vi về thời gian: Các tư liệu, số liệu sử dụng nghiên cứu, khảo sát
chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của ĐCSVN
và của QUTW, BQP về trí thức và phát huy vai trò của trí thức trong cách
mạng XHCN, về xây dựng quân đội và đội ngũ cán bộ quân đội.
* Cơ sở thực tiễn:
Hoạt động của trí thức KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị những năm qua, được thể hiện ở các số liệu nghiên cứu,
khảo sát; các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác giáo dục và đào tạo, nghiên cứu
khoa học, CTĐ,CTCT của một số viện nghiên cứu, học viện, trường sĩ quan và
đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của quân đội.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu


9
của KHXH&NV, trong đó tập trung vào các phương pháp: Hệ thống – cấu
trúc; phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; điều tra, khảo sát thực tế; thống kê
và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Làm rõ quan niệm về trí thức KHXH&NV quân sự và những nội dung
vai trò của đội ngũ này trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị.
Đánh giá được những thành tựu, hạn chế thực hiện vai trò của trí thức
KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị và
những vấn đề đặt ra hiện nay cần tập trung giải quyết.

Đề xuất được những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của trí thức
KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, làm rõ những vấn đề
lý luận về trí thức KHXH&NV quân sự và vai trò của trí thức KHXH&NV
quân sự trong xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để
các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường, đơn vị quân đội nghiên
cứu, vận dụng trong tham mưu, đề xuất, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc
phát huy vai trò của trí thức KHXH&NV quân sự trong xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể
dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có
liên quan ở các học viện, nhà trường, các cơ quan nghiên cứu trong quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; 4 chương (7 tiết); Kết luận; Danh mục các công
trình nghiên cứu của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án; Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.


10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề
tài luận án
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về trí thức, trí thức khoa học xã
hội và nhân văn
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của trí thức với tư cách là bộ phận cấu

thành nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, nguồn lực quyết định sự phát triển
đất nước, tập thể tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc Diện trong cuốn sách:
“Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước”
[67] do Nguyễn Như Diệm dịch, đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng
trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình - “Tổng công trình sư của công cuộc cải
cách, mở cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc”.
Trong đó, các tác giả đã làm nổi bật tư tưởng của Đặng Tiểu Bình về những
vấn đề rất cơ bản như: Trí thức, nhân tài là then chốt của phát triển; đường lối
tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và
giáo dục trí thức, nhân tài; về tuyển chọn trí thức, nhân tài ưu tú; về sử dụng
và bố trí trí thức, nhân tài; về tạo môi trường cho trí thức và nhân tài phát
triển; về cải cách chế độ nhân sự trong việc sử dụng trí thức, nhân tài. Có thể
nói, cuốn sách đã phác họa bức tranh mang tính tổng thể, sâu sắc về tư tưởng
của Đặng Tiểu Bình và sự vận dụng tư tưởng đó trong chiến lược xây dựng,
phát triển đội ngũ trí thức và nhân tài ở Trung Quốc hiện nay.
Tác giả Vương Huy Diệu trong cuốn sách: “Chiến lược quốc gia nhân
tài biến đổi thế giới” [17], đã trình bày một cách sâu sắc chiến lược phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao của Trung Quốc. Trong đó, tác giả đã phân
tích những vấn đề cơ bản về trí thức, nhân tài ở Trung Quốc hiện nay; đề xuất
những chủ trương, nội dung, chính sách, đặc biệt là giáo dục và đào tạo phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong thời kỳ phát triển


11
mới. Theo tác giả, đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, yếu tố thúc đẩy xã hội
Trung Quốc phát triển trở thành cường quốc về kinh tế, quân sự trên thế giới.
Tác giả Hùng Quang Khải trong bài viết: “Cuộc cách mạng quân sự
mới” [80], đã luận giải một loạt vấn đề về củng cố, tăng cường sức mạnh cho
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh
đến vị trí, vai trò của trí thức, coi đó là vấn đề cốt lõi trong chiến lược “trị

quốc”, binh hùng, tướng mạnh để giành chiến thắng trong chiến tranh công
nghệ cao, đưa Trung Quốc trở thành cường quốc quân sự trên thế giới. Để
thực hiện vấn đề này, theo tác giả, bên cạnh việc chi ngân sách lớn cho công
tác đào tạo tại chỗ, Trung Quốc cần có chính sách đặc biệt thu hút, trọng dụng
đội ngũ trí thức ngoài xã hội vào phục vụ trong lĩnh vực quân sự, kể cả các
nhà khoa học quân sự hàng đầu trên thế giới. Thực tế cho thấy, nhờ làm tốt
các vấn đề trên mà sức mạnh quân sự của Trung Quốc không ngừng được
tăng lên, từng bước khẳng định vị thế quân sự của mình.
Đề cập trực tiếp đến các nhà trường quân đội Trung Quốc, tác giả Lăng
Tường trong bài viết: “Tổng quan về 5 trường đại học tổng hợp trong toàn
quân” [149], đã phân tích sâu sắc việc kiện toàn hệ thống nhà trường quân sự,
đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học quân
sự. Theo tác giả, hệ thống các trường quân sự Trung Quốc được kiện toàn đổi
mới từ năm 1989 với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực quân sự đáp ứng yêu cầu
của chiến tranh hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu đó, các trường đại học của
Trung Quốc rất chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục,
nhất là giảng viên có học hàm, học vị được quan tâm phát triển toàn diện và
chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong tổng số trí thức quân đội Trung Quốc.
Cũng bàn đến trí thức, nhưng giáo sư Dave Ulrich, một chuyên gia
hàng đầu về nhân lực ở Mỹ trong công trình “Lý thuyết Nhân tài 3C” (3C
Talent Formula) [151], lại nhấn mạnh đến bộ phận tinh hoa nhất của đội ngũ
này là “nhân tài”. Ông đã đưa ra quan niệm khá thú vị về nhân tài với phương
trình 3C (Talent = Competence, Commitment, Contribution / Nhân tài = Năng


12
lực, Cam kết, Cống hiến). Theo tác giả, nhân tài có vai trò, vị trí rất quan
trọng đối với sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia, song không phải ai cũng
được gọi là nhân tài. Nhân tài trong quan niệm của ông là người phải có cái
đầu (năng lực sáng tạo), bàn tay, đôi chân (làm việc hết mình) và trái tim (sự

viên mãn, thăng hoa, cống hiến), có khả năng làm tốt những công việc của
ngày hôm nay và đặc biệt là của tương lai. Bằng kinh nghiệm, trí tuệ và thế
giới quan khoa học, tác giả cũng đưa ra những tiêu chí rất cơ bản để phát hiện
những trí thức là “người giỏi” và trình bày hệ thống các giải pháp xây dựng,
bồi dưỡng họ trở thành “nhân tài”, mang lại giá trị cao cho xã hội.
Tác giả Vladimir Alexanderovits Mau trong cuốn sách “Trí thức, lịch
sử và cách mạng - Bút ký về cuộc sống của nước Nga hiện nay” (do Ngân
Xuyên dịch) [93], đã khẳng định: Giới trí thức đã đưa lại cho đất nước một
khối lượng cơ bản các nhà lý thuyết và thủ lĩnh của cách mạng, chính xác
hơn, của các cuộc cách mạng; các cuộc tranh luận về trí thức là gì, về sự khác
biệt giữa giới có học và giới trí thức, rất lý thú nhưng cũng rất bất tận. Theo
tác giả, chúng ta chỉ cần hiểu “trí thức” theo nghĩa Nga của từ này là đủ: Đó là
người xuất thân quý tộc có học, tách khỏi giai tầng hay giai cấp của mình,
không có các gốc rễ xã hội, thế nhưng lại có khả năng và thị hiếu suy luận dài
dòng về ý nghĩa cuộc sống và vai trò của mình trong lịch sử toàn thế giới; có
ba dấu hiệu của giới trí thức về mặt nguyên tắc phân biệt nó với các nhóm xã
hội khác: Thái độ đối với sự giàu có, với lịch sử và với nhà nước.
Bàn đến trí thức nhưng ở lĩnh vực cụ thể, tác giả X.G.Lu-cô-nhin và
V.V.Xêrêbriannicốp trong cuốn sách: “Phương pháp giảng dạy các môn khoa
học xã hội” [90], đã tổng kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ở
các trường quân sự của Liên Xô, vận dụng những phương pháp và hình thức
tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội, nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng
dạy cho tất cả giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng viên mới bước vào
nghề sư phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ thể ở nhà trường quân sự phải vạch
ra phương hướng phấn đấu cho học kết hợp với kiểm tra thường xuyên quá


13
trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý luận và nghiệp vụ sư phạm làm cơ
sở để củng cố niềm tin, thế giới quan cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc

cho đội ngũ giảng viên ở các trường quân sự.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu về xây dựng quân đội và xây
dựng quân đội về chính trị
Tác giả M.V. Phrunde trong cuốn sách: “Xây dựng quân đội củng cố
quốc phòng sẵn sàng chiến đấu” [117], đã nhấn mạnh: Để có được một nền
quân sự mạnh đủ sức răn đe, bảo vệ Tổ quốc thì cần phải quan tâm, đầu tư
xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và hậu phương trong chiến tranh
tương lai. Trong đó, tác giả đặc biệt đánh giá cao vai trò quyết định của con
người trong mối quan hệ với yếu tố kỹ thuật trong chiến tranh hiện đại. Do
đó, theo tác giả cùng với việc tăng cường, rèn luyện kỷ luật quân sự trong bộ
đội chính quy và dân binh địa phương thì cần phải chú trọng trang bị kiến
thức toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ; kết hợp đào tạo, huấn luyện cán bộ chỉ
huy và cán bộ chính trị của Hồng quân một cách bài bản, chính quy và có hệ
thống.
Tác giả Mark Galeotti trong bài viết: “Cải tổ quân đội Nga” [94], đã
nghiên cứu có hệ thống và bài bản về quân đội Nga, nhất là việc nghiên cứu
tổ chức biên chế để nâng cao chất lượng, sức mạnh tổng hợp của quân đội
Nga trong chiến tranh hiện đại. Mark Galeotti đã phân tích chủ trương “Cắt
tỉa gọn” lực lượng vũ trang Nga bằng cách thực hiện tinh giảm biên chế và
sắp xếp lại hệ thống nhà trường quân sự. Theo đó, quân đội Nga cần phải
hướng tới việc nâng cao chất lượng binh sĩ hơn là dành quá nhiều kinh phí để
trả lương bổng cho đội ngũ tướng lĩnh và những chương trình huấn luyện
không mang tính thực tiễn. Đồng thời, nước Nga cần phải cải tổ hệ thống các
trường quân sự theo hướng thu hẹp quy mô, số lượng để tập trung nâng cao
chất lượng đào tạo sĩ quan thuộc mọi quân, binh chủng, nhất là đào tạo sĩ
quan có trình độ cao. Đây không chỉ là lực lượng quyết định chất lượng đào


14
tạo, huấn luyện binh sĩ mà còn là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu khoa

học, đặc biệt là nghiên cứu các loại vũ khí và kỹ thuật quân sự mới.
Cũng bàn đến vấn đề xây dựng quân đội, nhưng nhóm tác giả của Học
viện Quân chính Lênin trong cuốn sách: “Nhân tố chính trị - tinh thần trong
chiến tranh hiện đại” [74], lại tiếp cận và đi sâu nghiên cứu làm rõ bản chất
quân đội cách mạng của giai cấp công nhân, đó là đội quân chiến đấu vì hạnh
phúc của nhân dân, trấn áp các thế lực phản động. Đồng thời, khẳng định sức
mạnh chiến đấu của quân đội được tạo nên bởi tổng hợp nhiều nhân tố, trong
đó, nhân tố chính trị - tinh thần giữ vai trò quan trọng. Nhân tố chính trị - tinh
thần bao gồm các yếu tố hợp thành: Chính trị, tư tưởng và tâm lý được hình
thành trong một thể thống nhất, tác động biện chứng với nhau. Mặt khác, khi
xem xét mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh hiện đại,
nhóm tác giả nhận định giữa chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau,
nhưng xét đến cùng yếu tố con người luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng, quyết
định sự thành công hay thất bại của cuộc chiến tranh. Do đó, để tăng cường
sức mạnh chiến đấu của quân đội, phải tích cực chăm lo xây dựng nhân tố
chính trị tinh thần, bồi dưỡng và phát huy sức mạnh của con người.
Tác giả Chương Tư Nghị trong cuốn sách: “Giáo trình Công tác đảng,
công tác chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” [108] do các
tác giả Việt Nam Dương Minh Hào và Dương Thùy Trang dịch, đã đề cập
tương đối toàn diện về lĩnh vực công tác chính trị của Quân giải phóng nhân
dân Trung Quốc, với 13 bài giảng về nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ. Ông
đánh giá rất cao vai trò, vị trí của con người trong phát triển kinh tế - xã hội,
đặc biệt trong việc nâng cao tiềm lực và sức mạnh quân sự quốc gia. Tác giả
chỉ rõ: “Con người là gốc của mọi sáng nghiệp, đối với quân đội, công tác cán
bộ là cái gốc của công tác xây dựng quân đội, xây dựng hiện đại hóa quân đội
phải dựa vào cán bộ” [108, tr.312]. Từ sự nhìn nhận và đánh giá vai trò to lớn
của đội ngũ cán bộ, tác giả đi đến khẳng định, Trung Quốc chủ trương xây
dựng đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền theo phương châm “bốn hóa” bao
gồm: Cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên nghiệp hóa. Việc thực hiện
phương châm “bốn hóa” này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong giai



15
đoạn Trung Quốc ngày càng tham gia sâu, rộng vào đời sống chính trị thế
giới, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nước lớn của mình trên trường quốc
tế.
Đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác, tác giả Trần Trạc Minh
trong bài viết: “Nghiên cứu công tác chính trị của Cộng quân đứng trước
cuộc khủng hoảng và tư tưởng sĩ khí của họ” [100], đã nghiên cứu vai trò và
nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội Trung Quốc trước những tác
động xấu, tiêu cực của đời sống xã hội. Theo tác giả, con người luôn luôn
chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện kinh tế - xã hội ở cả mặt tích cực và
tiêu cực, do đó cần coi trọng công tác với con người, coi vấn đề con người là
vấn đề trung tâm giữ vai trò quyết định. Nếu không làm tốt công tác chính trị
đối với con người, không phát huy sức mạnh của họ thì quân đội sẽ khó vượt
qua được khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Từ đó, tác giả
khẳng định sự cần thiết phải thực hiện tốt công tác chính trị, công tác tư tưởng
đối với mọi quân nhân; hướng họ vào những việc làm thiết thực và không
ngừng nâng cao bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ.
1.2. Một số công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề
tài luận án
1.2.1. Một số công trình nghiên cứu về trí thức, trí thức khoa học xã
hội và nhân văn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn sách: “Định hướng phát triển đội
ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [18], trên cơ sở
nghiên cứu khái quát tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và một
số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ đã có những luận giải xác đáng về vai
trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
lực lượng sản xuất, sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc và trong lãnh
đạo, quản lý, điều hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đánh giá đúng lao động của trí thức, tác giả khẳng định: Trong nền kinh tế thị
trường, “sản phẩm lao động của trí thức là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có


16
thể mất đi hoặc bị chiếm đoạt mà không ai biết, song nó cũng có thể được lưu
thông và trả giá xứng đáng như bao thứ hàng quý hiếm khác” [18, tr.330].
Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem tiền lương và các loại
phụ cấp của trí thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất để mua lại “chất
xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
Tác giả Trần Ngọc Hiên trong bài viết:“Những biến đổi quan trọng
giai đoạn 2011-2020 và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam” [65], đã
đưa ra một số nhận định quan trọng về sự biến đổi của xã hội trong giai đoạn
mới, làm cơ sở cho định hướng xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam. Theo tác
giả, giai đoạn hiện nay chứng kiến nhiều biến đổi quan trọng như: Thế giới
chuyển sang mô hình phát triển bền vững dựa trên nền tảng kinh tế tri thức;
xu hướng thâm nhập vào nhau giữa hai lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội trở thành nền tảng của khoa học và công nghệ mới thế kỷ XXI; xu
thế chuyển hướng giáo dục, nhất là giáo dục đại học (giáo dục đại học vừa có
chức năng vun trồng tài năng, vừa có chức năng phát hiện, thức tỉnh tài năng,
hướng tới hình thành lực lượng lao động trí thức trên mọi lĩnh vực). Trước
những biến đổi đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam phù hợp với tình hình mới như: Hợp tác liên ngành khoa học và
công nghệ là cách hoạt động có hiệu quả; hoạt động tư vấn, phản biện, giám
định xã hội các chủ trương, các dự án đầu tư; hoạt động khoa học và công
nghệ theo hướng phát triển bền vững; hoạt động giáo dục, đào tạo và phổ biến
kiến thức; hoạt động hợp tác quốc tế là hướng phát triển rút ngắn dần trình độ
của trí thức Việt Nam với thế giới.
Tác giả Đàm Đức Vượng trong cuốn sách: “Thực trạng và giải pháp
xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước” [163],

đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và
chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ này qua hơn 20 năm đổi mới


17
và hiện nay; dự báo xu hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm
2020. Từ đó, tác giả đề xuất mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp
cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; kiến nghị
những nội dung cụ thể về xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2020,
phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020; chiến lược phát triển và trọng dụng nhân tài quốc
gia Việt Nam và trình Trung ương xem xét để bổ sung, phát triển Cương lĩnh
năm 1991 và dự thảo các văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Tác giả Ngô Thị Phượng trong cuốn sách: “Đội ngũ trí thức khoa học xã
hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” [115] và trong luận án tiến sĩ
triết học: “Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới” [114], đã cung cấp cho người đọc bức tranh chung về
đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam. Trong đó, tác giả đã đi sâu, phân tích,
làm rõ vai trò, trách nhiệm xã hội của đội ngũ này đối với cách mạng Việt Nam.
Theo tác giả, trí thức KHXH&NV Việt Nam có vai trò quyết định trong xây
dựng và phát triển các quan điểm, tư tưởng học thuật của KHXHNV; truyền bá
tri thức KHXH&NV, góp phần đào tạo và phát triển con người; thực hiện phê
bình, phản biện, dự báo xã hội; lực lượng trực tiếp tham gia vào việc xây dựng
và phát triển một mô hình xã hội nhất định. Từ vai trò như vậy, tác giả phân tích,
đánh giá những thành tựu, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân, đồng thời, đề xuất các
quan điểm, nhóm giải pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV
Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong các nhóm giải pháp, tác giả nhấn mạnh
nhóm giải pháp về nhận thức và tạo môi trường để trí thức KHXH&NV Việt

Nam phát huy khả năng sáng tạo.
Tác giả Nguyễn An Ninh trong cuốn sách: “Phát huy tiềm năng trí thức
khoa học xã hội Việt Nam” [111], đã phân tích, làm rõ khái niệm về khoa học
xã hội, về tiềm năng, tiềm năng của trí khoa học xã hội ở nước ta; những yếu
tố quy định tiềm năng trí thức khoa học xã hội... Từ đó, tác giả khẳng định:
“Phát huy tiềm năng của trí thức nói chung và của trí thức khoa học xã hội nói


18
riêng đã trở thành một hiện tượng có tính quy luật trong lịch sử phát triển của
nhân loại và của mỗi dân tộc” [111, tr. 7]. Trên cơ sở khung lý thuyết xác
định, tác giả đi vào nghiên cứu, phân tích đặc điểm, thực trạng, nguyên nhân
thực trạng phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội nước ta. Đồng thời, tác
giả đề xuất bốn phương hướng và bốn nhóm giải pháp chủ yếu để phát huy
tiềm năng của đội ngũ này trong thời gian tới. Trong đó, tác giả nhấn mạnh
phải nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của khoa học xã hội; phải tạo động
lực cho quá trình phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội nước ta;
phải tăng cường sự lãnh đạo của ĐCSVN và tiếp tục đổi mới công tác quản lý
của Nhà nước đối với đội ngũ này.
Tác giả Trần Văn Phòng trong bài viết: “Phát huy vai trò của đội ngũ
cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội nhân văn trong đấu tranh lý
luận hiện nay” [112], đã đi sâu luận giải rõ vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ
nghiên cứu, giảng dạy KHXH&NV trong cuộc ĐTTTLL trên năm nội dung
rất cơ bản. Họ không chỉ có khả năng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng công tác nghiên cứu lý thuyết
mà còn là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, ngăn ngừa, hạn chế, khắc
phục những tư tưởng, luận điệu sai trái, thù địch lan truyền trong nhân dân và
trong xã hội. Từ vai trò quan trọng đó, tác giả khẳng định: Phát huy vai trò
đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy KHXH&NV tham gia ĐTTTLL là một

tất yếu khách quan của sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức
tạp, nhạy cảm, vì vậy cần nhận thức và thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ
bản, có chiều sâu. Trong đó, bản thân sự tích cực, cố gắng, sự vượt khó vươn
lên, trí thông minh, sáng tạo của bản thân các nhà nghiên cứu, giảng dạy
KHXH&NV là vô cùng quan trọng, đóng vai trò quyết định trong ĐTTTLL.
1.2.2. Một số công trình nghiên cứu về xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam vững mạnh về chính trị


19
Nhóm tác giả của Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự trong cuốn
sách: “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị” [154], đã tập
trung luận giải một số vấn đề lý luận xây dựng quân đội kiểu mới về chính trị
của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm xây dựng QĐNDVN về chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCSVN; đi sâu làm rõ quá trình lịch sử xây dựng
QĐNDVN về chính trị từ khi thành lập đến nay; khái quát và phân tích những
bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng QĐNDVN về chính trị. Trên cơ
sở đó, phân tích dự báo những yếu tố tác động đến xây dựng quân đội về
chính trị; đề xuất một số định hướng, giải pháp cơ bản xây dựng QĐNDVN
vững mạnh về chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Cũng bàn đến xây dựng quân đội về chính trị, tác giả Lê Văn Dũng trong
cuốn sách: “Tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính
trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới” [21], đã trình bày nhiều vấn đề quan
trọng. Theo tác giả: Sự nghiệp xây dựng QĐNDVN về chính trị là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, của các tổ chức, các lực lượng, trong đó đội ngũ chính
ủy, chính trị viên giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Họ trực tiếp chỉ đạo tiến hành
xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong đơn vị trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng đối với đơn vị; trực
tiếp chỉ đạo và tiến hành hoạt động CTĐ,CTCT; xây dựng đơn vị, các tổ chức

trong đơn vị vững mạnh, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của
quân đội ta. Từ biểu hiện vai trò, tác giả đã phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên
nhân ưu, khuyết điểm trong thực hiện vai trò của chính ủy, chính trị viên, từ đó
xác định các giải pháp cơ bản phát huy vai trò của đội ngũ này trong xây dựng
quân đội về chính trị. Trong đó, tác giả nhấn mạnh: “Đội ngũ chính ủy, chính trị
viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất, năng
lực nhằm khẳng định vị trí chủ trì về chính trị, phát huy tốt vai trò, chức trách,
nhiệm vụ được giao” [21, tr. 361].


20
Tác giả Trần Đức Nhân trong cuốn sách: “70 năm xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam về chính trị (1944 - 2014)” [109], đã đánh giá một cách
tổng quát kết quả chủ yếu trong 70 năm xây dựng QĐNDVN về chính trị từ
năm 1944 đến năm 2014. Theo tác giả: “70 năm qua, QĐNDVN đã không
ngừng trưởng thành, vững mạnh, chiến đấu, chiến thắng vẻ vang, xây dựng
nên truyền thống tốt đẹp: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu
hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [109,
tr.9]. Đặc biệt, trong cuốn sách, tác giả đã khái quát, phân tích và làm rõ
những bài học kinh nghiệm xây dựng QĐNDVN về chính trị được rút ra sau
70 năm xây dựng, trưởng thành và lớn mạnh của quân đội với những lập luận
sâu sắc, có sức thuyết phục, từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện
nay. Mặt khác, tác giả cũng đã dự báo những nhân tố tác động và đề xuất giải
pháp xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.
Cũng bàn đến xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị nhưng
nhóm tác giả của Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự trong cuốn sách:
“Bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân
dân Viêt Nam” [160], lại đi sâu làm rõ nội dung cốt lõi nhất trong xây dựng
quân đội về chính trị. Theo các tác giả, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân

dân, tính dân tộc là nguồn gốc tạo nên sức mạnh chính trị tinh thần của quân
đội ta, bảo đảm cho quân đội chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược,
trở thành quân đội bách chiến, bách thắng. Trải qua 70 năm xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự yêu thương, đùm bọc của
nhân dân, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân
đội ngày càng được củng cố và tăng cường. Bước sang thời kỳ mới, yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng có sự phát triển, kẻ thù tăng cường chống phá quân đội
trên nhiều mặt, do đó đặt ra vấn đề cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân
đội với nhiều giải pháp đồng bộ, khả thi.


21
Tác giả Nguyễn Đình Minh và Nguyễn Mạnh Hưởng trong cuốn sách:
“70 năm Quân đội nhân dân Việt Nam cội nguồn sức mạnh tinh thần” [104],
đã nghiên cứu và trình bày sâu sắc những vấn đề cơ bản từ cội nguồn sức
mạnh tinh thần đến những biểu hiện sức mạnh tinh thần của QĐNDVN trong
lịch sử. Theo các tác giả, trong sự so sánh với đối phương trên nhiều phương
diện, thì yếu tố cơ bản để tạo nên sức mạnh của quân đội ta nằm ở tinh thần.
Đó là nguồn sức mạnh cơ bản, là “chất keo” dính kết tất cả các nguồn sức
mạnh khác để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất cho quân đội đủ sức chiến
thắng kẻ thù. Do đó, bước vào thời kỳ mới, để quân đội hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao, vấn đề tăng cường sức mạnh chính trị tinh thần của quân
đội phải được coi trọng. Muốn vậy, trên cơ sở đánh giá thực trạng nhân tố
chính trị tinh thần của quân đội, tác giả đã làm rõ những vấn đề mới về xây
dựng đời sống tinh thần của quân đội ta trong tình hình mới.
Tác giả Nguyễn Vĩnh Thắng trong cuốn sách: “Xây dựng quân đội về
chính trị trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới” [128], đã đi sâu nghiên
cứu, phân tích, làm rõ thêm những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của ĐCSVN về xây

dựng quân đội, nhất là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong bối
cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang và sẽ có sự vận
động, biến đổi mới tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng quân đội, củng
cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Cuốn sách gồm 3 phần: Bối
cảnh tình hình, nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị trong thời kỳ mới;
xây dựng quân đội về chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới; đấu tranh phòng chống “phi chính trị hóa” quân đội trong
tình hình mới. Đây là cuốn sách có ý nghĩa tham khảo để tác giả kế thừa, vận
dụng trong luận án của mình.
1.2.3. Một số công trình nghiên cứu về vai trò và phát huy vai trò của
trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam


×