Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở hà nội ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 190 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THỦY

ViÖc lµm cho n«ng d©n
Khi thu håi ®Êt ë hµ néi

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THỦY

ViÖc lµm cho n«ng d©n
Khi thu håi ®Êt ë hµ néi
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 62 31 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN HẬU

HÀ NỘI-2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình


nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu
trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình nào.
Tác giả luận án

Phạm Thị Thủy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM

7

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

1.1. Tình hình nghiên cứu về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội

7

1.2. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài việc

23


làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO

27

NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

2.1.

Lý luận chung về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

27

2.2.

Giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

43

2.3.

Kinh nghiệm của một số địa phương trong việc giải quyết việc làm

62

cho nông dân khi thu hồi đất
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU

69


HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

3.1.

Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nội có liên quan

69

đến việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất
3.2.

Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân Hà Nội

82

khi thu hồi đất nông nghiệp
3.3.

Đánh giá chung về giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi 104
đất ở Hà Nội trong thời gian qua

Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 120
CHO NÔNG DÂN KHU THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

4.1.

Dự báo tình hình thu hồi đất và quan điểm giải quyết việc làm cho 120
nông dân Hà Nội khi thu hồi đất nông nghiệp

4.2.


Giải pháp giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội

126

KẾT LUẬN

153

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

158

PHỤ LỤC

167


DANH MỤC VIẾT TẮT

CNH

:

Công nghiệp hóa


CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DNVVN

:

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

GQVL

:

Giải quyết việc làm

KH-CN

:

Khoa học - Công nghệ

KCN

:

Khu công nghiệp


TP

:

Thành phố

TTDVVL

:

Trung tâm dịch vụ việc làm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:

Mức độ hiểu biết và mức độ thành thạo của người nông

34

dân với các hoạt động sản xuất nông nghiệp (%)
Bảng 3.1:

Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của TP Hà Nội

72

Bảng 3.2:

Tình hình xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội


74

Bảng 3.3:

Dân số trung bình ở Hà Nội.

75

Bảng 3.4:

Lực lượng lao động của Hà Nội

75

Bảng 3.5:

Trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng,

77

đại học trên địa bàn Hà Nội
Bảng 3.6:

Giáo viên, học sinh các trường dạy nghề, trung học

78

chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học
Bảng 3.7:


Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng, tỷ lệ hộ nghèo và

79

chênh lệch giàu nghèo năm 2008
Bảng 3.8:

Tình hình thu hồi, bàn giao đất cho các chủ dự án tại Hà

81

Nội năm 2008- 2011
Bảng 3.9:

Số giờ làm việc bình quân/ tuần của lao động từ 15 tuổi

83

trở lên, năm 2011
Bảng 3.10:

Tỷ trọng lao động chia theo nhóm giờ làm việc trong tuần/

84

năm của Hà Nội năm 2011
Bảng 3.11:

Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trong


85

độ tuổi lao động ở Hà Nội năm 2011.
Bảng 3.12:

Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất năm
2008

87


Bảng 3.13:

Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất năm 2012

88

Bảng 3.14:

Thu hồi đất nông nghiệp và nhu cầu lao động GQVL

89

Bảng 3.15: Cơ cấu lao động trong tuổi lao động chia theo thành phần

91

kinh tế năm 2011 ở Hà Nội.
Bảng 3.16: Cách thức tìm việc/ xin việc của những người đang tìm 109

việc trong tuổi lao động năm 2011 ở Hà Nội.
Bảng 3.17: Cơ cấu lao động trong độ tuổi lao động ở Hà Nội năm 110
2011 chia theo vị thế làm việc.
Bảng 3.18: Mục đích sử dụng tiền đền bù của nông dân khi thu hồi đất 117
nông nghiệp
Bảng 3.19: Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm

118


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn lực con người có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển bền
vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Vấn đề nguồn lực con người được Đảng ta
hết sức coi trọng, là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, đặc
biệt từ Đại hội VII đến nay "... Con người Việt Nam có truyền thống yêu
nước, cần cù sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt
nhanh khoa học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất" [25]. Con
người Việt Nam trong thời kỳ mới đã có những bước chuyển biến đáng kể,
thực sự say mê, sáng tạo trong lao động, học tập, nghiên cứu... góp phần quan
trọng trong việc tạo ra bộ mặt mới của đất nước.
Tuy nhiên để phát huy được những tiềm năng đó thì phải được thể hiện
qua quá trình lao động sản xuất mà một trong những biểu hiện cụ thể của nó
đó chính là việc làm và hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội mà nó tạo ra. Vì vậy,
trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh:
"GQVL là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu
cầu bức xúc của nhân dân" [26].
Xu hướng chung của quá trình CNH các nước đang phát triển gắn với

quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng giảm tỷ lệ lao động
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Trong đó xu
hướng đô thị hoá, phát triển các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế, văn
hoá mới dẫn đến tình trạng một số đông lao động mất đất sản xuất, mất nghề
phải chuyển sang các công việc khác. Tình hình này đang diễn ra đối với quá
trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Thực tiễn cho thấy, hình thành khu công nghiệp và khu đô thị mới một
mặt là nơi tập trung những ưu thế của nền văn minh công nghiệp, mặt khác là


2
nơi tích tụ những mặt trái hay những vấn nạn của quá trình đô thị hoá bắt
nguồn từ tình trạng mất việc làm của nông dân bị thu hồi đất canh tác nông
nghiệp. GQVL cho nông dân bị thu hồi đất vì mục tiêu đô thị hoá, công
nghiệp hoá là yêu cầu cấp bách, đồng thời tạo tiền đề cần thiết bảo đảm đô thị
hoá, công nghiệp hoá thành công bền vững.
Những năm qua, Thủ đô Hà nội đã đạt được nhiều thành tựu về
GQVL cho người lao động đặc biệt là lao động nông thôn ở các huyện
ngoại thành Hà nội thông qua triển khai hàng loạt các chương trình phát
triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội. Với chủ trương phát
triển kinh tế - xã hội và gắn với vấn đề GQVL của Thành phố Hà Nội đã
có tác động tích cực đến tăng cầu lao động, thúc đẩy thị trường lao động
phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao động, góp phần nâng cao chất lượng
lao động, tạo môi trường và nhiều cơ hội cho người nông dân bị thu hồi
đất nông nghiệp tìm được việc làm, ổn định đời sống. Tuy nhiên, kết quả
trên chưa phải là nhiều trong điều kiện sức ép về việc làm của Thành phố,
đặc biệt là đối với nông dân khi thu hồi đất ở các huyện ngoại thành ngày
càng gia tăng dưới tác động của quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá.
Trong quá trình cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp, một bộ phận lao động
đáp ứng được yêu cầu mới về tuyển dụng, nhưng không thể đào tạo lại, bị

mất việc làm; vấn đề chuyển đổi ngành nghề, đào tạo, phục hồi thu nhập
cho số lao động trong diện thu hồi đất đề phục vụ yêu cầu của quá trình
đô thị hoá còn nhiều khó khăn… càng làm cho vấn đề GQVL ngày càng là
vấn đề bức xúc.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề "Việc làm cho nông dân khi thu hồi
đất ở Hà Nội" được tác giả chọn làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông


3
dân khi thu hồi đất ở TP.Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được và những mặt
còn hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất các quan điểm, phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm, bảo đảm ổn định đời
sống lâu dài cho nông dân khi thu hồi đất ở TP. Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết
việc làm cho nông dân khi thu hồi đất.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về giải
quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất và rút ra bài học kinh nghiệm đối
với Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
nông dân khi thu hồi đất ở TP.Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được và
những mặt còn hạn chế, yếu kém trong GQVL cho nông dân khi thu hồi đất ở
Thành Phố Hà Nội trong thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp GQVL nhằm bảo đảm ổn định đời
sống lâu dài cho nông dân khi thu hồi đất ở TP. Hà Nội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là: việc làm cho nông dân khi thu
hồi đất dưới góc độ kinh tế chính trị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu là việc làm và giải quyết việc
làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội từ năm 2005 trở lại đây.
- Địa điểm nghiên cứu, khảo sát: Các huyện ngoại thành Hà Nội,
đặc biệt tác giả đi khảo sát thực tế tại các quận, huyện Quốc Oai, Từ
Liêm, Hà Đông, Đan Phượng là những huyện có tỷ lệ thu hồi đất nông
nghiệp cao nhất, có xã diện tích đất nông nghiệp thu hồi lên đến 80% tổng
diện tích đất nông nghiệp hiện có và các huyện phía Bắc và Tây Bắc của


4
Thủ đô: Gia Lâm, Ba Vì là những huyện có tốc độ đô thị hoá thấp hơn và
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ít hơn nhằm tìm ra đặc điểm chung về
việc làm của nông dân khi thu hồi đất ở hai khu vực. Từ đó cho thấy số
lao động nông nghiệp bị mất việc làm phải chuyển đổi nghề nghiệp rất lớn
và khó có khả năng tìm được việc làm mới để bảo đảm thu nhập. Vì vậy,
nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ gây ra rất nhiều vấn đề xã hội
bức xúc nảy sinh, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của Thủ đô
và đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về GQVL cho người dân khi bị thu
hồi đất. Ngoài ra, luận án còn kế thừa và phát triển những quan điểm lý luận
của các nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học để phân tích các vấn đề lý luận

và thực tiễn về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lô gíc kết hợp với lịch
sử, tổng kết, đánh giá quá trình giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi
đất ở Hà Nội;
- Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra và phỏng vấn
chuyên sâu ở một số hộ nông dân tại một số điểm mang tính đại diện có đất
nông nghiệp bị thu hồi thuộc các huyện/quận: Hà Đông (Phường Hà Cầu),
Ba Vì (Xã Tòng Bạt), Quốc Oai (Xã Đồng Quang), Từ Liêm (Xã Mỹ
Đình), Gia Lâm (Xã Yên Thường), Đan Phượng (Xã Tân Hội) để làm kết
quả nghiên cứu của mình. Về đối tượng, mục đích, nội dung điều tra đã


5
được tác giả trình bày trong phụ lục 2 của luận án. Tại mỗi xã, tác giả điều
tra 100 hộ nông dân, tuy nhiên, trong quá trình sử lý số liệu, có nhiều phiếu
không được sử dụng do các hộ nông dân không đưa ra phương án trả lời
đầy đủ. Do các phiếu điều tra không được "làm sạch" trước khi thu hồi nên
tác giả không sử dụng mô hình SPSS để xử lý số liệu mà tác giả chỉ sử
dụng phương pháp thống kê, phân tích số liệu. Khi tác giả sử lý số liệu
bằng phương pháp thống kê, tuỳ từng câu hỏi khác nhau sẽ có số mẫu trả
lời khác nhau. Tuy vậy, tác giả cho rằng với phạm vi và đối tượng nghiên
cứu của mình, các số liệu mẫu điều tra của tác giả mang tính đại diện và độ
tin cậy cho kết quả nghiên cứu.
- Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đây và cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm cho
nông dân khi thu hồi đất.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích, đánh giá quá trình GQVL cho nông
dân khi thu hồi đất ở Hà Nội qua các số liệu báo cáo của các cơ quan có

thẩm quyền và thực tiễn điều tra bằng bảng hỏi của tác giả, tác giả đưa ra
những nhận định khách quan về những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của các hạn chế trong quá trình GQVL cho nông dân khi thu hồi
đất ở Hà Nội.
Thứ ba, tác giả đi sâu điều tra thực trạng việc làm và GQVL ở một số
huyện mang tính đại diện ở Hà Nội để từ đó có để tác giả đưa ra quan
điểm, đề xuất các nhóm giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác GQVL cho nông dân khi thu hồi đất, đạt được các chỉ tiêu mà Thành
phố đã đề ra trong kế hoạch GQVL và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Thủ đô.


6
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về việc làm,
GQVL nói chung và ở thủ đô Hà Nội nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy. Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể
gợi mở cho các cơ quan quản lý có những điều chỉnh phù hợp để GQVL cho
người dân khi thu hồi đất ở các địa phương hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án gồm 4 chương và 10 tiết.


7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI
THU HỒI ĐẤT

1.1.1. Khái quát một số nghiên cứu ở nƣớc ngoài về việc làm
1.1.1.1. Các nhà kinh điển Mác - Lênin
- Khi nghiên cứu về quá trình sản xuất Tư bản chủ nghĩa, Các Mác phát
hiện ra các điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá; các thuộc tính đặc
biệt của hàng hoá sức lao động làm căn cứ luận giải nguồn gốc giá trị thặng
dư. Sự biểu hiện sản xuất giá trị thặng dư qua các giai đoạn phát triển của
CNTB. Trong đó hệ thống giản đơn được khái quát là cách mạng về tổ chức
lao động, hệ thống công trường thủ công là cuộc cách mạng về sức lao động.
Trên cơ sở đó luận giải bản chất của tiền công là giá cả hay giá trị sức lao
động được biểu hiện ra bên ngoài là giá cả hay giá trị của lao động.
Theo Các Mác thì khi ứng dụng các thành tựu KH - CN hiện đại
thường dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tư bản và tăng năng suất lao động, mà:
Sự tăng năng suất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lượng lao
động sống so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt
động, hay là thể hiện ra ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá
trình lao động so với nhân tố khách quan của quá trình đó [12, tr.877].
Vì vậy, phần bất biến của tư bản vận động cùng chiều với sự tăng lên
của tích luỹ tư bản, còn bộ phận tư bản khả biến thì nói chung sẽ vận động
ngược chiều với sự tăng lên của tích luỹ.
Có thể nói các quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về lao động,
việc làm là cơ sở lý luận cốt lõi để xem xét, vận dụng trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.


8
- Theo V.I. Lênin, thì sự phát triển kinh tế hàng hoá khiến một bộ

phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân khẩu
công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống,
V.I.Lênin nhắc lại luận điểm của C.Mác:
Do bản chất của nó phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không
ngừng giảm bớt nhân khẩu nông nghiệp so với nhân khẩu phi nông
nghiệp, bởi vì trong công nghiệp (theo nghĩa hẹp của danh từ này)
việc tư bản bất biến tăng lên làm giảm tư bản khả biến thường liên
quan với sự tăng thêm tuyệt đối (dù là giảm bớt tương đối) của tư bản
khả biến, còn trong nông nghiệp thì ngược lại, tư bản khả biến cần
thiết để kinh doanh một khoảnh đất nhất định lại giảm bớt một cách
tuyệt đối; do đó tư bản khả biến chỉ có thể tăng thêm khi có những
đất mới được canh tác, mà điều này lại đòi hỏi rằng nhân khẩu phi
nông nghiệp phải tăng lên nhiều hơn nữa [34, tr.25].
Đặc biệt Lênin phát triển luận điểm của Mác về sự phát triển của máy
móc thay thế sức lao động và chỉ ra cuộc đấu tranh giữa công nhân và máy
móc, với tư cách là máy móc, tư liệu lao động đã trở thành những kẻ cạnh
tranh với bản thân người công nhân. Một bộ phận của giai cấp công nhân mà
máy móc đã biến thành dư thừa do sự thay đổi trong kết cấu hữu cơ tư bản
(C/V), trong đó C tăng lên tuyệt đối và tương đối, V tăng lên tuyệt đối và
giảm đi tương đối. V giảm làm cho cung về sức lao động lớn hơn cầu về sức
lao động trên thị trường và giá cả sức lao động giảm xuống. Các Mác cho
rằng tư liệu lao động đã giết chết người lao động. Từ đó vận dụng trong điều
kiện CNTB độc quyền Lênin đã đưa ra luận điểm CNTB thối nát khi nói về
sự kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật và đồng thời chỉ ra CNTB không thể và
không bao giờ giải quyết triệt để nạn thất nghiệp để duy trì một sức ép với
giai cấp công nhân…


9
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu khác

- Mô hình tạo việc làm theo kiểu cổ điển: tự do cạnh tranh trên thị
trường - mức lương linh hoạt và sự toàn dụng lao động
Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, sự thoả dụng của của cá nhân
người lao động và tối đa hoá lợi nhuận của người sản xuất khi tham gia vào
thị trường lao động phải tuân thủ theo quy luật của thị trường. Mức lương và
việc làm do luật cung cầu lao động quyết định. Với mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận, cá nhà sản xuất sẽ thuê nhiều lao động hơn chừng nào mà giá trị sản
phẩm cận biên một người lao động sản xuất ra cao hơn chi phí mà anh ta bỏ ra
thuê lao động (hay là mức tiền lương). Về mặt cung lao động, các cá nhân lao
động tìm cách có chế độ thoả dụng tối đa. Họ sẽ phân chia thời gian cho nghỉ
ngơi và làm việc theo chế độ thoả dụng cận biên.Việc tăng lương cũng đồng
nghĩa với tăng giá cho sự nghỉ ngơi. Do đó, mức lương càng cao bao nhiêu thì
mức cung lao động càng cao bấy nhiêu. Trong trường hợp cung lao động bằng
cầu lao động có nghĩa là mức lương cân bằng, không có thất nghiệp - tức toàn
dụng lao động, lúc này bất kỳ người lao động nào có nhu cầu việc làm đều
tìm được việc làm. Nhưng thị trường lao động lại luôn biến động không
ngừng do đó nó làm cho cung cầu lao động luôn luôn biến đổi theo. Nếu cung
lao động lớn hơn cầu lao động, khi đó người lao động sẽ phải cạnh tranh với
nhau để bán sức lao động và có việc làm. Điều này sẽ làm giảm giá trị sức lao
động, do đó làm cho mức lương giảm xuống. Ngược lại, khi cầu lớn hơn cung
về lao động lúc này các chủ sử dụng lao động sẽ phải cạnh tranh với nhau để
thuê lao động, do vậy nó lại làm cho giá trị sức lao động tăng lên và kéo theo
là làm cho mức lương cung tăng theo. Do đó, tự do cạnh tranh mua bán sức
lao động trên thị trường, các mức lương linh hoạt được hình thành như có một
sức mạnh của bàn tay vô hình, thất nghiệp không xảy ra, mọi người có khả
năng lao động và có nhu cầu làm việc thì đều được đáp ứng về việc làm.
- Lý luận của J.M. Keynes đã tập trung xem xét mối quan hệ chặt chẽ


10

giữa sản lượng - thu nhập; tiêu dùng - tiết kiệm và đầu tư. Xét từ góc độ tâm
lý chủ quan của người tiêu dùng trong xã hội ông cho rằng tốc độ tăng tiêu
dùng luôn nhỏ hơn tốc độ tăng thu nhập và tiết kiệm. Điều này đã làm cho
cầu tiêu dùng thực tế giảm xuống so với thu nhập, dẫn đến một bộ phận
hàng hoá không bán được. Đây là nguyên nhân gây ra khó khăn, thất nghiệp
tác động trực tiếp đến sản xuất của chu kỳ sau, do đó việc làm giảm và tình
trạng thất nghiệp tăng. Từ đó ông rút ra kết luận: Để tăng việc làm, giảm thất
nghiệp phải tăng cầu trong nền kinh tế gồm cả cầu tiêu dùng và cầu đầu tư.
Giải pháp mà ông đề xuất: Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng để tăng
cầu thông qua các khoản chi tiêu Chính phủ hoặc thông qua chính sách đầu
tư. Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá
đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu
tư và bù đắp các khoản chi tiêu của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng
cầu của nền kinh tế bằng mọi cách, kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt
động ăn bám nền kinh tế như: sản xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang,
quân sự hoá nền kinh tế. Ông còn cho rằng: chừng nào còn có thất nghiệp và
trì trệ trong nền kinh tế thì mức cung các loại hàng hoá và dịch vụ tự động
đáp ứng mức cầu lên cao này và tạo điều kiện để cải thiện thu nhập cũng
như tạo thêm việc làm [54].
Tuy nhiên lý thuyết này của Keynes đưa ra chỉ đúng với các nước phát
triển còn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì có thể sẽ
gặp một số vấn đề khi áp dụng nó vì:
+ Do sự hạn chế về mặt cơ cấu và thể chế đối với khâu cung ứng,
tình trạng thiếu vốn, nguyên liệu cũng như nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn và tay nghề cao, các loại thị trường như tài chính, sức lao
động… về tổ chức và hoạt động chưa thực sự nhuần nhuyễn và hiệu quả.
Đã đi ngược lại quan niệm cho rằng tăng cầu của Chính phủ và tư nhân sẽ
làm tăng mức công ăn việc làm và giảm thất nghiệp.



11
+ Do tác động của quá trình đô thị hoá đang kéo theo lực lượng lao
động rất lớn từ khu vực nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm, vì nơi
này có điều kiện làm việc và đời sống cao hơn. Như vậy, việc tạo công ăn
việc làm cho khu vực hiện đại ở thành thị bằng cách tăng mức tổng cầu có thể
sẽ thu hút thêm nhiều người di cư từ nông thôn ra thành thị để kiếm việc làm.
Điều này sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp ở khu vực thành thị gia tăng, như
vậy theo lý thuyết của Keynes thì với những chính sách đưa ra để nhằm tăng
sản lượng và tạo thêm công ăn việc làm thực ra lại có thể làm giảm toàn bộ
mức công ăn việc làm và sản lượng quốc dân.
+ Trong một số trường hợp nếu tăng trưởng việc làm có thể lại dẫn đến
tình trạng làm chậm tăng trưởng sản lượng, thậm chí lại làm giảm sản lượng.
- Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu
vực của nền kinh tế [46].
Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là chuyển số lao động dư thừa từ
khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp hiện đại do hệ thống tư bản
nước ngoài đầu tư vào các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển. Bởi vì trong khu vực nông nghiệp, đất đai chật hẹp, lao
động lại quá dư thừa. Ngoài số lao động cần đủ cho sản xuất nông nghiệp, còn
có lao động thừa làm các ngành nghề lặt vặt, buôn bán nhỏ, phục vụ trong gia
đình và lao động phụ nữ. Số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm.
Nói cách khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển
lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng.
Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại lượng lao
động đủ để tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu
người đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp. Mặt
khác, việc di chuyển này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp,
tạo điều kiện nâng cao sức tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung.
- Lý thuyết của Harry Toshima [46]



12
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa
thực tế với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu Á
gió mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc đỉnh cao
của thời vụ và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho
rằng cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những
tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng
thời, sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất
công nghiệp cần nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm
đầy đủ cho mọi thành viên gia đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ
nâng cao mức thu nhập hàng năm của họ và sẽ mở rộng được thị trường
trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao
động sẽ được sử dụng hết.
- Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn - thành thị (Harris Todaro) [46]
Do quá trình đô thị hoá diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy, việc dân cư ở khu vực nông thôn, ngoại thành
di chuyển vào thành thị là một xu hướng có tính quy luật trong quá trình phát
triển của tất cả các nước, đặc biệt là đối với các nước phát triển trong giai
đoạn hiện nay. Theo mô hình này thì người di cư sẽ xem xét các cơ hội khác
nhau trong thị trường lao động dựa vào tối đa hoá lợi ích dự kiến có được từ
việc di cư bằng cách so sánh mức thu nhập dự kiến có được trong một khoảng
thời gian nhất định ở thành thị với mức thu nhập trung bình đang có ở nông
thôn. Lúc này nếu thu nhập dự kiến (thu nhập kỳ vọng) cao hơn thu nhập thực
tế hiện có thì họ sẽ quyết định di cư. Thu nhập dự kiến thu được của lao động
di chuyển tuỳ thuộc vào khả năng có thể kiếm được việc làm ở thành thị, mức
lương ở đó cũng như độ tuổi của người di cư. Lúc này Todaro đã đề xuất với
Chính phủ giảm mức lương ở thành thị, xoá bỏ những ảnh hưởng đến giá cả



13
của các nhân tố sản xuất, tăng việc làm ở nông thôn, áp dụng công nghệ và có
chính sách phù hợp sẽ là biện pháp tạo thêm việc làm.
Khi áp dụng mô hình này vào các nước đang phát triển cho thấy bên
cạnh khu vực kinh tế hiện đại ở thành thị (khu vực chính quy) còn có một khu
vực kinh tế thu hút một số ngành nghề như: thợ thủ công, dịch vụ sửa chữa
nhỏ, buôn bán nhỏ tự tạo việc làm hoặc kinh doanh có thuê nhân công và thoả
thuận ngoài hệ thống luật pháp chính thức với giá nhân công rẻ. Đây chính là
khu vực hiện nay đang thu hút một lực lượng lao động rất lớn của những nước
này vào làm việc - khu vực phi chính thức. Thực tế cho thấy, việc phát triển
khu vực kinh tế phi chính thức đã, đang và sẽ có những tác dụng rất to lớn
trong việc GQVL, tăng thu nhập, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị. Đồng
thời phải không ngừng đầu tư phát triển cho khu vực nông thôn để nâng cao
mức sống của họ, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm bớt khoảng cách
về thu nhập giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn cũng như phát triển
nhiều mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với khu vực nông thôn để tạo
thêm nhiều việc làm ở khu vực này.
- Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc
làm [46]:
Mô hình này chỉ ra rằng để sản xuất ra một sản lượng mong muốn, các
nhà sản xuất sẽ phải đứng trước những lựa chọn lớn: một là để mua các yếu tố
của quá trình sản xuất như lao động, nguyên vật liệu… thì có nhiều mức giá
khác nhau, do đó phải lựa chọn mức giá nào cho phù hợp để có chi phí sản
xuất là thấp nhất. Hai là để đạt được lợi nhuận cao nhất các nhà sản xuất sẽ
phải lựa chọn loại công nghệ phù hợp, đó có thể là công nghệ hiện đại thì sẽ
phải chi nhiều vốn hay công nghệ ở một mức độ để sử dụng nhiều lao động.
Nếu công nghệ hiện đại, tốn nhiều vốn so với giá lao động thì nhà sản xuất sẽ
lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động. Ngược lại, nếu giá lao động
tương đối cao thì các hãng sẽ lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều vốn.



Luận án dầy đủ ở file: Luận án Full






×