Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.48 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ KIM NINH

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Danh Tiên
2. TS. Hồ Xuân Quang

Phản biện 1:.........................................................
.........................................................

Phản biện 2:.........................................................
.........................................................

Phản biện 3:.........................................................
.........................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, gắn kết cộng đồng dân tộc. Di sản văn hóa (DSVH) là cốt lõi của bản sắc
dân tộc và là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới; đồng thời, là một bộ phận của
DSVH nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì
vậy, việc giữ gìn, tôn tạo các DSVH là trách nhiệm của cộng đồng, thể hiện lòng
tri ân tiền nhân, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đây cũng là nguồn lực vô cùng
quý báu, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Ngày nay, DSVH đã thực sự khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đã có một
truyền thống lâu đời và nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ba tháng sau (23/11/1945), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương
Bác cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt Nam. Sắc
lệnh nêu rõ: “Việc bảo tồn DSVH là việc rất cần thiết trong công cuộc kiến thiết
nước Việt Nam”.
Di sản văn hóa dân tộc được Đảng xác định là “tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới
và giao lưu văn hóa”.
Giống như các địa phương khác trên cả nước, tại Thành phố Hồ Chí Minh,
vấn đề nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH cũng được Thành ủy,

Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Trong quá trình hình thành và phát triển, bên cạnh việc lưu giữ những giá
trị văn hóa cội nguồn, Thành phố đã sớm tiếp nhận và thích ứng nhanh với văn
hóa của mọi miền đất nước để hình thành nên những nét văn hóa đặc thù của
người Việt ở mảnh đất phương Nam. Hiện nay, cùng với tốc độ đô thị hóa và xu
thế giao lưu hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực văn hóa nhiều vấn đề đặt ra cho
Thành phố những câu hỏi lớn: Làm thế nào để “xây dựng nền văn hóa tiên tiến
song vẫn giữ được bản sắc dân tộc? Làm thế nào để tiếp thu có chọn lọc tinh hoa


2
văn hóa nhân loại trước xu thế toàn cầu hóa?... Làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH của dân tộc?... Đó chính là định hướng, đồng thời
cũng là trách nhiệm của các ngành, các cấp và toàn xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của DSVH đối với sự phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ Thành phố lãnh
đạo các cấp, các ngành bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, tổng kết công tác lãnh đạo, khái quát
những thành tựu, chỉ ra hạn chế và bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm trong
quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá từ
năm 1998 đến năm 2014)" làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố. Bước đầu đúc kết một
số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ Thành phố lãnh đạo công tác bảo

tồn và phát huy các giá trị sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quá trình hoạch định các chủ trương, thực tiễn lãnh
đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh của Đảng bộ Thành phố từ năm 1998 đến năm 2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH gồm nhiều nội dung, luận án chỉ tập trung nghiên
cứu: công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử (DTLS), văn hóa,
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể, công tác
bảo tồn, bảo tàng.


3
- Về thời gian: từ năm 1998 đến năm 2014. Đây cũng là giai đoạn thực
hiện Chương trình hành động số 19 của Đảng bộ Thành phố về bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH.
- Về không gian: nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Thành phố.
- Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH.
- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến
năm 2014.

- Nêu ra những nhận xét về những thành tựu, hạn chế; bước đầu đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cở sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng về văn hóa nói chung và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic. Bên cạnh đó là các
phương pháp: phương pháp phân tích, tổng hợp các số liệu, tài liệu, kết quả điều
tra xã hội học để làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn thành phố từ năm
1998 đến năm 2014.
Phương pháp thống kê: thống kê, phân tích số liệu từ các Báo cáo của các
cơ quan chức năng (UBND Thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao Thành phố Hồ
Chí Minh, Sở Du lịch, Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh...).


4
Ngoài ra, luận án kết hợp sử dụng phương pháp điền dã để nghiên cứu và
trình bày luận án.
5.3. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng gồm các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương; văn kiện của Đảng bộ, chính quyền Thành
phố về văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; các báo
cáo của Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Sở Du lịch),
Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố và các công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến đề tài luận án.

6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH (1998 - 2014); từ đó, rút ra những nhận xét,
kinh nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH của Đảng bộ Thành phố.
- Góp phần nghiên cứu lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực văn hóa, đặc biệt là công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ, phục vụ công tác
tham mưu của các đơn vị chức năng trong việc đền xuất chủ trương, chính
sách, xây dựng kế hoạch, chương trình đối với công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn tiếp theo,
nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ: bảo tồn và phát triển; phát triển kinh
tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, tạo động lực cho sự phát
triển bền vững của Thành phố.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương.
7. Kết cấu của đề cương luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa
Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Trường Chinh, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1975. Phạm Minh Hạc, Phát triển văn hóa giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, 1996, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội. Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc của
Hoàng Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Những quy định pháp luật
về bảo vệ di sản văn hóa do Nguyễn Thanh Bình (sưu tầm, tuyển chọn), Nxb
Lao động, Hà Nội, 2002. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc của
Phạm Mai Hùng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003. Một con đường tiếp
cận di sản văn hóa của Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Quốc Hùng và Nguyễn Hữu
Toàn, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005. Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Cục
Di sản văn hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2007, tập 1. Di sản văn hóa các dân
tộc Việt Nam - Những hiện vật truyền thống và đương đại, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007. Ngô Phương Thảo với bài viết Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tháng 07/2008.
Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam, Giáo trình dành cho sinh
viên đại học và cao đẳng ngành Du lịch của Dương Văn Sáu, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008. Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển của
Nguyễn Đình Thanh (chủ biên), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2008. Bảo tồn,
làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới
và hội nhập do Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010. Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển, chuyên đề kiến trúc của Nguyễn
Đình Thanh (chủ biên), Nxb Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Di sản văn hóa Việt Nam - bản sắc và những vấn đề về quản lý, bảo tồn của
Nguyễn Thịnh, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 2012 . Bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa Việt Nam của Trương Quốc Bình, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2014. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, Nguyễn Kim Loan


6
(chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2014. Phát triển văn hóa - sức

mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế do Phùng Hữu Phú (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2016.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa trên phạm vi cả nước
Tìm hiểu di sản văn hoá dân gian Hà Nội của Trần Quốc Vượng, Nguyễn
Vinh Phúc và Lê Văn Lan (đồng chủ biên), Nxb Hà Nội, 1994. Một số vấn đề di
sản văn hóa của Hải Phòng của Nguyễn Ngọc Thao, Lê Thế Loan và Ngô Đăng
Lợi, Nxb Hải Phòng, 2001. Đô thị cổ Hội An của Phạm Quang Vinh, Trần Hùng
và Nguyễn Luận, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2002 (Tủ sách nghệ thuật, nghệ thuật
kiến trúc, tập 24). Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam Thăng Long Hà Nội do
Lưu Minh Trị (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002. Vũ Ngọc
Khánh với tác phẩm Văn hóa lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội, 2007. Bước đầu tìm hiểu di sản Hán Nôm ở Bình
Dương của Đỗ Khắc Điệp (biên soạn và dịch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2007. Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái của Nguyễn Hữu Thái, Nxb Lao
Động, Hà Nội, 2012. Tiểu vùng văn hóa duyên hải Nam Trung bộ của Hà
Nguyễn, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (gồm 04 tập) của các tác giả
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1987. Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1994. Di tích lịch sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh của Bảo tàng Cách
mạng Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 1998. Công trình khoa học Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử, văn hóa do Nguyễn
Thế Nghĩa, Lê Hồng Liêm (đồng chủ biên), Nxb Trẻ, 2000. Bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của Đặng
Văn Bài, Trương Quốc Bình và Nguyễn Quốc Hùng, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002. Từ điển địa danh Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh của Lê



7
Trung Hoa (Chủ biên), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Miền Đông
Nam bộ con người và văn hóa của Phan Xuân Biên, Nxb Đại học Quốc gia,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. Lê Quang Ninh, Stephane Dovert, Sài Gòn Ba thế kỷ phát triển và xây dựng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. Di tích
lịch sử - văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Hữu Mý, Nguyễn Văn
Đường (chủ biên), Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
Khảo cổ học ở Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Xuân Diệm, Nguyễn Thị Hậu
và Nguyễn Thị Hoài Hương, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh,
2007. Đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn lịch sử văn
hóa, do Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008. Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố
Hồ Chí Minh do Võ Thanh Bằng (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2008. Nguyễn Thành Rum với cuốn sách Hành trình di sản văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2011. Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh, hành trình 100 năm (1911 - 2011) của nhiều tác giả, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012. Đình chùa lăng miếu - Di sản văn hoá vật thể
của người Việt tại Thành phố Hồ Chí Minh (sách chuyên khảo) do Hồ Sơn
Diệp, Nguyễn Văn Hiệp (đồng chủ biên), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2014.
Đề tài NAFOSTED Khảo cổ học đô thị và việc bảo tồn di sản văn hóa Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh của TS Nguyễn Thị Hậu, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2016.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐỀ CẬP
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

1.2.1. Những nội dung các công trình khoa học đã giải quyết
Những kết quả nghiên cứu trên đây trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến
DSVH và thực trạng công tác bảo tồn phát huy các giá trị DSVH ở nhiều góc
độ lý luận và thực tiễn khác nhau; đồng thời, gợi mở, cung cấp thông tin tham
khảo phong phú, hỗ trợ nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

nghiên cứu đề tài của luận án. Những kết quả mà các công trình khoa học liên
quan đã đề cập là tài liệu tham khảo quý để nghiên cứu sinh có thể kế thừa về nội
dung và phương pháp trong quá trình viết luận án.


8
1.2.2. Những nội dung luận án tập trung giải quyết
Kết quả nghiên cứu của các nhóm công trình khoa học trên đã gợi mở
những vấn đề mới để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu trong quá trình thực
hiện đề tài luận án. Mặc dù vậy, các công trình khoa học nghiên cứu liên quan
đến đề tài luận án là những nghiên cứu chuyên biệt. Cho đến nay, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và quy mô về thực trạng bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình khoa học
trên chủ yếu nghiên cứu về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dưới
góc độ văn hóa học, chưa nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống quá trình
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. Vì vậy, luận án tập trung giải quyết
những vấn đề sau:
Một là, phân tích các yếu tố tác động đến việc bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Hai là, làm sáng tỏ quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và chủ
trương của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Ba là, trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể trên
địa bàn Thành phố.
Bốn là, đưa ra những nhận xét khách quan, khoa học về sự lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH (bao gồm cả những mặt đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế).

Năm là, bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình Đảng
bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.


9
Chương 2
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ NĂM 1998 ĐẾN 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

2.1.1. Một số khái niệm về di sản văn hóa và bảo tồn, phát huy các giá
trị di sản văn hóa
Luận án làm rõ một số khái niệm: Di sản; Di sản văn hóa bao gồm di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể; Bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa. Nội dung bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử, văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.2.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên
Luận án phân tích vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên: Với vị trí địa lí ở ngã ba
sông, nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa khác nhau, cũng là nơi hội tụ của
dòng văn hóa truyền thống và hiện đại, Thành phố Hồ Chí Minh đã hình thành
bản sắc riêng của mình trong sự trưởng thành và phát triển. Đặc điểm về địa lí tự nhiên đó đã tác động và tạo ra tính đa dạng trong văn hóa cũng như tính đa
dạng về nội dung, hình thức biểu đạt và sinh hoạt tinh thần.
2.1.2.2. Đặc điểm dân cư
Luận án phân tích đặc điểm cư dân Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh để
thấy rõ sự ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của đời sống văn hóa Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh. Sự hội tụ một cách đa dạng của dân cư, tất yếu dẫn đến
một bức tranh văn hóa “đa sắc màu”, là cơ sở dẫn đến sự giao lưu, tiếp biến văn

hóa giữa các vùng, miền trong nước, như Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, văn
hóa sông nước Nam Bộ; các nền văn hóa thế giới, như văn hóa Trung Hoa, Ấn
Độ, văn hóa châu Âu, châu Mỹ…
2.1.2.3. Đặc điểm kinh tế
Xuất phát từ điều kiện địa lý - tự nhiên và kinh tế - xã hội khá thuận lợi, do
đó, hội nhập kinh tế quốc tế ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra sâu rộng, quy mô
lớn và tốc độ cao, với nhiều hình thức liên kết với các tổ chức kinh tế ở các nước
trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế Sài Gòn phát triển trong mối giao lưu kinh


10
tế đa chiều, vì thế, văn hóa cũng rất đa dạng, tiếp xúc được với nhiều cái mới, tạo
nên tính tiên phong trong biến đổi đời sống văn hóa - xã hội.
2.1.2.4. Đặc điểm chính trị - xã hội và truyền thống lịch sử
Một là, ảnh hưởng của chế độ phong kiến đối với các di sản văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh không đậm nét như các vùng, miền khác trong cả nước
Hai là, các di sản văn hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh chịu sự tác
động bởi quá trình xâm lược và chính sách nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới trong thế kỷ XIX
Ba là, các giá trị DSVH Thành phố Hồ Chí Minh là kết quả của sự định
hướng bởi đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những đặc điểm về vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, đặc
điểm dân cư đã tạo nên sự đa dạng, phong phú của nhiều loại hình DSVH, là
nguồn lực cho kinh tế du lịch phát triển…
Tuy nhiên, cũng xuất hiện những hạn chế cho công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH, cụ thể: hệ thống DSVH chủ yếu được phân bố tập trung ở khu
vực trung tâm Thành phố, nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã
hội với mức độ ngày càng nhanh, phong phú, đa dạng. Vì vậy, yếu tố “bảo tồn”
và “phát triển” cùng tồn tại trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa Thành phố.
Điều đó đòi hỏi trong quá trình phát triển, các cơ quan chức năng cần có chiến

lược bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, nhằm hạn chế sự phá hủy DSVH,
bảo tồn và giữ gìn cho thế hệ sau những DSVH của tiền nhân.
2.1.3. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa
Luận án phân tích quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội (VI, VII, VIII
và IX) về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH; trên cơ sở quán triệt,
triển khai đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã kịp thời ban hành luật, đề
án chiến lược. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức sâu sắc
vị trí, vai trò của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trong quá trình
phát triển. Theo quan điểm của Đảng, DSVH là kết tinh những giá trị của bản sắc
dân tộc, là "hồn cốt" của dân tộc. Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
góp phần phát huy năng lực nội sinh của dân tộc, tạo động lực để thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển.


11
Những quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đã chỉ ra phương
hướng cơ bản trong công tác bảo tồn và phát huy các DSVH dân tộc trong thời
kỳ mới. Đồng thời, góp phần định hướng cho các Đảng bộ các tỉnh, thành phố
trên cả nước thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các DSVH phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phương mình.
2.1.4. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh trước năm 1998
Nghiên cứu sinh tóm lược giai đoạn trước năm 1998, Thành phố Hồ Chí
Minh đã triển khai Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng DTLS, văn hóa và danh lam
thắng cảnh; Nghị định quy định việc thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng
DTLS, văn hóa và danh lam thắng cảnh nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc bảo vệ
DSVH. Tuy nhiên, giai đoạn này, do tình hình khó khăn, Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ dừng lại ở việc điều tra, sưu tầm tư liệu về DSVH.

2.2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA NHỮNG NĂM
1998 - 2005

2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa
Luận án tập trung phân tích chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa giai đoạn 1998 2005. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), trong đó có Chương trình
bảo tồn và phát triển các DSVH, nhằm giữ gìn "diện mạo, cốt cách" để trong quá
trình phát triển, bên cạnh việc giữ gìn giá trị truyền thống, đi đôi với việc tạo ra
những giá trị hiện đại riêng cho Thành phố - một trung tâm kinh tế - văn hóa của
vùng Nam Bộ.
Quan điểm của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện qua Văn kiện
Đại hội lần thứ VII (năm 2000) và lần thứ VIII (năm 2005) đã khẳng định rõ chủ
trương của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH. Đây là những định hướng để các cấp, các ngành, các địa
phương trên địa bàn Thành phố thực hiện hiệu quả hơn công tác này, góp phần
xây dựng Thành phố ngày càng giàu bản sắc, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.


12
2.2.2. Quá trình chỉ đạo bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa
2.2.2.1. Công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hóa
Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng bộ Thành phố, các cơ quan tham
mưu, chức năng đã tiến hành công tác kiểm kê, xếp hạng di tích, trên cơ sở đó có
sự quan tâm đầu tư tu bổ di tích. Ban Quản lý DTLS văn hóa và danh lam thắng
cảnh Thành phố đã lập kế hoạch Tổng điều tra di tích. Công tác này được tiến
hành trong 4 năm (1999 - 2002), nhằm tạo cơ sở cho việc phân loại, quy hoạch di

tích, giúp cho việc quản lý. Kết quả điều tra di tích đã giúp cho việc phân loại di
tích, trên cơ sở đó, nghiên cứu, đề xuất việc phân cấp quản lý, bao gồm: Những
di tích có thể lập hồ sơ đề nghị công nhận di tích cấp quốc gia (79 di tích); đề
xuất UBND Thành phố ra văn bản “Quyết định đăng ký di tích” (241 di tích);
phân loại di tích do quận, huyện trực tiếp quản lý, bảo vệ (359 di tích). Đợt Tổng
kiểm kê di tích năm 1999 - 2002 là cơ sở để Thành phố tiếp tục hoàn chỉnh và
tiến tới quy hoạch di tích trên địa bàn Thành phố các giai đoạn tiếp theo.
Song song đó, Thành phố còn quan tâm đến công tác bảo tồn cảnh quan
kiến trúc đô thị với việc triển khai Chương trình Nghiên cứu bảo tồn cảnh quan
kiến trúc đô thị nhằm đánh giá, phân loại, hệ thống các cảnh quan kiến trúc tiêu
biểu của Thành phố. Từ nghiên cứu này, ngày 17-5-1996, UBND Thành phố Hồ
Chí Minh đã ban hành Thông báo số 46/TB-UB-QLĐT Về việc bảo tồn cảnh
quan kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh của sự phát triển, các di sản của Thành phố Hồ Chí Minh
đang chịu nhiều thách thức của quá trình hội nhập kinh tế và đô thị hóa. Vấn đề
đặt ra là, làm thế nào để Thành phố vừa phát triển hiện đại vừa bảo tồn được
những DSVH? Nhận thức được vấn đề này, Thành phố đã nghiên cứu thực hiện
Đồ án quy hoạch chung Thành phố Hồ Chí Minh năm 1993. Đồ án điều chỉnh
quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998. Đồ án năm 1998
đã xác định 14 nội dung chủ yếu trong quy hoạch Thành phố. Đặc biệt, Đồ án đã
lưu ý và đặt vấn đề bảo tồn DSVH.
Tóm lại, giai đoạn 1998 - 2005, công tác bảo tồn DSVH trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh chỉ dừng lại ở công việc điều tra, kiểm kê, xếp hạng di
tích. Tuy nhiên, kết quả bước đầu trong việc bảo tồn các DSVH là cơ sở để các
ngành chức năng của Thành phố tiếp tục điều chỉnh và tiến tới xây dựng kế
hoạch dài hạn cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn tiếp theo.


13

2.2.2.2. Công tác phát huy các giá trị di sản văn hóa
Phát huy các giá trị DSVH qua hệ thống bảo tàng:
Trong những năm 1998 - 2005, các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã
phát huy công tác nghiên cứu khoa học, sưu tầm, trưng bày, kiểm kê bảo quản tài
liệu hiện vật. Đặc biệt, để đưa các giá trị di sản đến với công chúng, các bảo tàng
luôn quan tâm đổi mới nội dung và hình thức trưng bày sinh động, hấp dẫn. Nội
dung trưng bày thường gắn với công tác giáo dục, tổ chức cho các em học sinh,
sinh viên tham quan, học tập tại bảo tàng.
Phát huy các giá trị DSVH qua du lịch
Do đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong
những địa phương chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch, đặc biệt là nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn, nguồn tài nguyên thiên nhiên như các khu du lịch sinh
thái… Phát huy lợi thế đó, Thành phố đã có những đột phá nhằm phát triển du
lịch, như: nâng tầm Hội Trái cây truyền thống Suối Tiên thành sự kiện văn hóa, du
lịch của Thành phố với tên gọi Lễ hội Trái cây Nam Bộ. Năm 2004, Thành phố
chính thức nâng "hồn" đường hoa Nguyễn Huệ trở thành biểu tượng văn hóa Tết
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức thường niên Ngày hội Du lịch (kế
thừa từ sự kiện Liên hoan du lịch Đất Phương Nam giai đoạn 1999-2003). Những
hoạt động này như điểm nhấn thúc đẩy ngành du lịch Thành phố phát triển, mang
lại hiệu quả cao trong việc thu hút khách du lịch đến với Thành phố. Giai đoạn
1998 - 2005, lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh tăng dần qua các
năm: năm 2001 có 1.226.400 lượt người; năm 2002 có 1.433.000 lượt; năm 2003
là 1.302.000; năm 2004 tăng 1.580.000; năm 2005 là 2.350.000 lượt. Tuy nhiên,
lượng khách lượng khách đến Thành phố kết hợp du lịch và tham gia sự kiện, chứ
chưa xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống dân tộc đang hiện
diện ở hệ thống DSVH của Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, để thúc đẩy ngành
du lịch phát triển, Thành phố cần đầu tư khai thác và khai thác để bảo tồn các giá
trị DSVH, tạo ra sản phẩm cho du lịch đặc trưng của địa phương.
Trong những năm 1998 - 2005, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo
chính quyền các cấp, Sở Văn hóa - Thông tin và ngành Văn hóa, cũng như các

địa phương xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động góp phần làm cho
công tác bảo tồn, phát huy DSVH. Công tác bảo tồn các DSVH đã góp phần giữ
gìn báu vật DSVH đặc sắc của Thành phố, hệ thống di tích lịch sử - cách mạng,
các DSVH vật thể và phi vật thể từng bước được quy hoạch, sưu tầm, xây dựng


14
kế hoạch trùng tu, bảo tồn. Hệ thống DSVH từng bước được phát huy nhằm giáo
dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy phát triển du lịch
Thành phố.
Chương 3
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
3.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

3.1.1. Những nhân tố mới tác động đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị các di sản văn hóa
Luận án trình bày một số tác động của thế giới và trong nước tác động đến
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Nổi bật tình hình thế giới là xu
hướng toàn cầu hóa, dẫn đến việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước trong khu
vực và trên thế giới. Xu hướng này vừa tạo điều kiện vừa nảy sinh những thách thức
đến sự phát triển của đất nước nói chung, công tác quản lí văn hóa nói riêng.
Ở trong nước: những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX và sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội
để nước ta phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh và chất lượng cao hơn. Tuy
nhiên, đất nước cũng phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Trên lĩnh vực văn hóa, Đại hội lần thứ X (4-2006) của Đảng chủ trương:

Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn chặt và đồng bộ hơn với kinh tế - xã hội, làm
cho văn hóa thấm sau vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tình hình Thành phố Hồ Chí Minh
Là trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa; là đô thị trẻ đầy năng động, sáng
tạo, Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời phải giải quyết mâu thuẫn giữa đô thị
hóa, hiện đại hóa và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH.
Là một trong những địa phương diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh mẽ với
những con đường được mở rộng, những ngôi nhà cao tầng mới mọc lên, khí hậu
nhiệt đới gió mùa cùng côn trùng, mối mọt cũng là những nhân tố thường xuyên


15
tác động mạnh đến công tác bảo tồn DSVH của Thành phố; kinh tế và dân số gia
tăng nhưng hạ tầng cơ sở không theo kịp đã khiến môi trường sống ở Thành phố
Hồ Chí Minh bị xuống cấp; việc bảo tồn DSVH ngày càng trở nên bất cập…nếu
Thành phố không có chính sách quy hoạch tốt sẽ ảnh hưởng đến cảnh quan, môi
trường, hệ thống DSVH.
Từ thực tiễn nêu trên, Thành phố cần thiết phải thực hiện phân cấp quản lý
di tích, kịp thời đề ra những giải pháp phù hợp trong hoạt động quản lý di tích
theo đúng quy định pháp luật về DSVH và các quy định pháp luật có liên quan.
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa
Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế và sự giao thoa
văn hóa mang tính toàn cầu, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch
định chủ trương về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp với tình hình
thực tế của Thành phố và xu thế phát triển của thời đại. Đại hội đại biểu Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII(năm 2005) chủ trương tập trung đầu tư
những công trình văn hóa trọng điểm, mang tính biểu trưng, có vai trò quan trọng
trong đời sống văn hóa của Thành phố. Ở giai đoạn này, công trình khu tưởng

niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử văn hóa các dân tộc đã hoàn thành
các hạng mục chính, đây là nơi tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc, thấm đậm
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ
IX (năm 2010) tiếp tục xác định việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là
một trong những nhiệm vụ quan trọng bằng việc ban hành Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ 12 chỉ rõ: tập trung xây dựng một số công trình
văn hóa tiêu biểu, mang tính biểu trưng. Trong quá trình đô thị hóa, Đảng bộ
Thành phố càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của công tác bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH, biểu hiện rõ ở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh lần thứ X, Thành ủy xác định 7 chương trình đột phá, trong đó, bổ
sung chương trình thứ bảy: Chỉnh trang và phát triển đô thị nhằm đô thị hóa
Thành phố nhưng vẫn lưu giữ được bản sắc dân tộc qua hệ thống DSVH. Như
vậy, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế và sự giao thoa
văn hóa mang tính toàn cầu, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch
định chủ trương về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp với tình hình
thực tế của Thành phố và xu thế phát triển của thời đại.


16
3.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHỈ ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

3.2.1. Công tác bảo tồn di sản văn hóa
3.2.1.1. Công tác điều tra và xếp hạng di tích
Năm 2006, Ban Quản lý di tích lịch sử - văn hóa và Danh lam thắng cảnh
Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trung tâm Bảo tồn và Phát huy giá trị di tích
lịch sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) đã thực hiện Đề án “Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2020”. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu của Đề án, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 5360/QĐUBND ngày 25 tháng 11 năm 2010 về thực hiện kiểm kê DTLS - văn hóa trên

địa bàn Thành phố, ban hành kèm theo danh mục kiểm kê di tích 168 công trình,
địa điểm. Mục đích của quyết định nhằm khảo sát, nhận diện, xác định giá trị, lập
hồ sơ xếp hạng di tích đối với các công trình, địa điểm đủ tiêu chí xếp hạng
DTLS, văn hóa.
Để tổng kiểm kê DSVH phi vật thể trên địa bàn Thành phố, Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì phối hợp với Đại học Văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh triển khai dự án “Tổng điều tra DSVH phi vật thể tại Thành
phố Hồ Chí Minh”. Mục đích của dự án là tổng kiểm kê số lượng các DSVH phi
vật thể đang tồn tại ở Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở kết quả đạt được, dự
án sẽ đề cập đến những nguyên nhân dẫn đến thực trạng về các DSVH, đề ra các
giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Quy hoạch và bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị. Quá trình bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đặt ra vấn đề:
Bảo tồn và phát triển. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, UBND Thành phố và các
cơ quan chức năng đã có những động thái tích cực, như: năm 2008, UBND
Thành phố Hồ Chí Minh giao cho Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố lập
danh mục các công trình kiến trúc cần bảo tồn; Ngày 21/8/2010, UBND Thành
phố ban hành Quyết định số 3691/QĐ-UBND thành lập Ban chỉ đạo xây dựng kế
hoạch và chương trình hành động bảo tồn cảnh quan kiến trúc Thành phố Hồ
Chí Minh; ngày 12-7-2011, UBND Thành phố ban hành Quyết định số
50/2011/QĐ-UBND về việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Để có cái nhìn tổng thể về cảnh quan đô thị


17
trong quá trình phát triển và giao lưu, theo yêu cầu của Sở Quy hoạch kiến trúc
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010, Trung tâm dự báo nghiên cứu đô thị Pháp
đã thực hiện chương trình “Bảo tồn di sản kiến trúc và chiến lược quản lý di sản
trong khu trung tâm lịch sử của Thành phố Hồ Chí Minh”. Ngày 25/9/2013, Chủ
tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 2751/QĐ-UBND

về Chương trình hành động “Bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh”. Ngày 28-8-2014, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban
hành Quyết định số 29/2014/QĐ-UBND về Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc
đô thị chung Thành phố Hồ Chí Minh. ngày 20-3-2014, UBND Thành phố Hồ
Chí Minh ra Quyết định số 1340/2014/QĐ-UBND quy định quản lý quy hoạch
chung đô thị theo đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ
Chí Minh đến năm 2025.
Như vậy, có thể thấy, trong những năm 2005 - 2014, hoạt động bảo tồn di
sản ở Thành phố Hồ Chí Minh mới đạt được kết quả bước đầu. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng, song, các cơ quan chức năng mới dừng lại ở việc lập danh mục
các công trình cần được nghiên cứu bảo tồn; tập hợp những mô tả sơ bộ về hình
thức kiến trúc và tình trạng kỹ thuật của công trình cùng với những kiến nghị
triển khai công tác bảo tồn. Các bước nghiên cứu và thực hiện tiếp theo của quá
trình bảo tồn vẫn chưa được khởi động một cách hệ thống. Trọng tâm của công
tác bảo tồn chỉ giới hạn ở quy mô di tích, chưa chỉ rõ giá trị của đối tượng ở quy
mô di sản đô thị. Thành phố chưa xác định và lập được kế hoạch mang tính chiến
lược để làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách tổng hợp - đa ngành - đồng
bộ về các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội nhằm hiện thực hóa công tác bảo tồn
di sản đô thị.
3.2.1.2. Công tác trùng tu, bảo tồn và tôn tạo các di tích
Di tích khảo cổ: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của Đảng,
nhiều chương trình nghiên cứu khảo cổ học được triển khai ở Thành phố Hồ Chí
Minh, đem lại nhiều phát hiện mới, cung cấp và bổ sung thêm nhiều tư liệu về lịch
sử văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
khảo cổ học ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Năm 2006, Chương trình “Điều tra khảo sát khảo cổ học phục vụ nhu cầu
quy hoạch, xây dựng và phát triển huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh (giai
đoạn 2006 - 2020)” do TS Nguyễn Thị Hậu chủ trì được thực hiện. Cuối năm



18
2012, hoạt động khảo cổ học Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu trở lại với việc
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh phối kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu khảo
cổ học (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) tiến hành nghiên cứu, khai quật di
tích Bến Đò. Năm 2013 và đầu năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến
hành lập Dự án Quy hoạch khảo cổ học Thành phố Hồ Chí Minh trình UBND
Thành phố.
Di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng: Trong những năm 2005 - 2014, bên
cạnh nguồn kinh phí của Bộ Văn hóa, Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch), Thành phố đã quan tâm đến việc đầu tư tu bổ, tôn tạo và chống xuống
cấp các DTLS - cách mạng. Từ năm 2007 đến 2011, trong số 119 tỷ đồng đầu tư
cho việc tu bổ, tôn tạo cũng như chống xuống cấp các loại hình di tích ở Thành
phố, có 112 tỷ dành cho các di tích lịch sử - cách mạng.
Để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích trên
địa bàn Thành phố, ngày 11-12-2007, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành
Quyết định số 5487/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Bảo tồn và phát huy giá trị
DTLS - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Trung tâm Bảo tồn di tích),
trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Theo Quyết định, Trung tâm Bảo
tồn di tích có chức năng: Nghiên cứu khoa học về bảo tồn và phát huy giá trị
DTLS - văn hóa; sưu tầm, phát hiện, kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ di tích trên địa
bàn Thành phố để đề xuất xếp hạng di tích và công nhận DSVH; tổ chức thăm
dò, khai quật di tích khảo cổ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Để thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về làm việc tại các di
tích, kỳ họp thứ 20, Hội đồng nhân dân Thành phố, khóa VII ban hành Nghị quyết
số 01/2011/NQ-HĐND (ngày 28 tháng 4 năm 2011) Về chế độ hỗ trợ hoạt động
cho các di tích và trợ cấp thường xuyên cho cán bộ viên chức bảo tàng, thư viện.
Đối với việc trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa: Từ năm 2006 đến năm
2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã tham mưu
thiết thực đến việc trùng tu, tôn tạo: Bố trí kinh phí cho việc chống xuống cấp
nhiều di tích đạt 150 tỷ đồng. Trong đó, có 20 di tích lịch sử được đầu tư tu bổ,

chỉnh lý trưng bày bổ sung tại di tích. Riêng nguồn vận động xã hội hóa trong tu
bổ di tích (2002 - 2014) đạt hơn 62 tỷ đồng, với 14 di tích được đầu tư tu bổ, chủ
yếu là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, Thành phố chủ trương công tác


19
xã hội hóa trong tu bổ, tôn tạo di tích nên đã quyên góp được sự đóng góp tích
cực của các tầng lớp nhân dân.
Mặc dù còn hạn chế, song, số lượng các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo tại
Thành phố Hồ Chí Minh khá ổn định. Các cơ sở ngày càng được sửa chữa, nâng
cấp khang trang hơn nhờ vào kinh phí hỗ trợ của cộng đồng và các nguồn tài trợ
trong và ngoài nước.
3.2.1.3. Việc xử lý các hành vi xâm hại di tích
Nhằm bảo tồn các di tích, UBND Thành phố, Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch (nay là Sở Văn hóa, Thể thao) đã chú trọng đến việc phát hiện, xử lý các hành
vi xâm hại di tích như lấn chiếm đất đai di tích, sử dụng sai chức năng, tùy tiện sửa
chữa hoặc xây dựng các công trình mới trong di tích. Thành phố chú trọng nâng
cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ liên quan đến công tác bảo vệ DSVH,
vì vậy, phần lớn DSVH trên địa bàn Thành phố đã được bảo tồn hiệu quả.
3.2.2. Công tác phát huy các giá trị di sản văn hóa
3.2.2.1. Phát huy các giá trị di sản văn hóa qua hệ thống bảo tàng
Giai đoạn này, các bảo tàng công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
đã có nhiều đổi mới nhằm phục vụ du khách đến tham quan, với nhiều hình thức
giáo dục phong phú, các bảo tàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức nhiều loại hình chương trình phục vụ đa dạng đối tượng du khách trong
nước và nước ngoài. Cụ thể: Bảo tàng và học đường; Đưa bảo tàng đến với công
chúng; Các chương trình dành cho công chúng. Các chương trình của hệ thống
bảo tàng công lập Thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện tính giáo dục cao, thiết
thực, nhằm kết nối mối liên hệ giữa con người và hiện vật, giúp cho các câu
chuyện gắn với hiện vật trở nên sống động hơn. Các cuộc trưng bày, triển lãm

chuyên đề của các bảo tàng thu hút sự tham gia đông đảo của các cá nhân, các
nhà sưu tập tư nhân ở các địa phương trong cả nước và du khách nước ngoài
tham gia. Số lượng khách tham quan ngày càng tăng theo từng năm cho thấy
công chúng đã có sự quan tâm đến hoạt động của bảo tàng. Năm 2010, các bảo
tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh được khách tham quan bình chọn là điểm tham
quan thú vị, hấp dẫn của Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được, hoạt động của các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn
hạn chế. Số lượng hiện vật còn nghèo nàn; hình thức trưng bày hiện vật chưa
phong phú, đa số chưa đáp ứng các nhu cầu vui chơi, giải trí ngày càng cao của


20
quần chúng. Thực trạng đó, đòi hỏi các bảo tàng phải nâng cấp, đổi mới, đa dạng
sản phẩm, cần có định hướng, mục tiêu để nâng cao vai trò, vị trí nhằm đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của công chúng.
3.2.2.2. Phát huy di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch
Với vai trò là đô thị đầu tàu của cả nước về kinh tế, Thành phố Hồ Chí
Minh được đánh giá là đầu tàu trong lĩnh vực khai thác du lịch của Việt Nam.
Năm 2015, Thành phố đón hơn 4,6 triệu lượt khách quốc tế (chiếm gần 50% tổng
lượng khách quốc tế đến Việt Nam) và 19,3 triệu lượt khách nội địa (gần gấp đôi
tổng số dân địa phương), đem lại nguồn thu 94,600 tỷ đồng. Nhằm thu hút khách
quốc tế và trong nước đến với Thành phố, trong số các loại hình du lịch thì du
lịch di sản, hay nói cách khác, DSVH được xem như một yếu tố chiến lược trong
phát triển du lịch. Di sản đóng vai trò cốt lõi, tạo nên giá trị của ngành du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh.
Với sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp chính quyền và cơ quan
chức năng, vị trí của du lịch Thành phố Hồ Chí Minh trên bản đồ thế giới đã có
bước chuyển tích cực: Xếp hạng 18 trong các thành phố có tốc độ phát triển du
lịch nhanh nhất trên thế giới giai đoạn 2009-2016 (theo điều tra khảo sát của
Mastercard). Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong Top 23 điểm đến tốt nhất trên

thế giới về ẩm thực đường phố (theo CNN).
Với những thế mạnh vượt trội so với các thành phố khác trong cả nước và
trong khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh - nơi từng được mệnh danh là "Hòn
ngọc Viễn Đông", có nhiều cơ hội phát triển ngành du lịch với đa dạng các loại
hình du lịch, trong đó du lịch gắn với DSVH là loại hình du lịch hấp dẫn du
khách. Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh cần tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng
bá đầu tư, thương mại để giới thiệu hình ảnh Thành phố với các nước trên thế
giới, nhằm thu hút khách du lịch đến với Thành phố. Đặc biệt là, cần chú trọng
phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH;
giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường...; bảo đảm hài hòa tương tác giữa khai
thác, phát triển du lịch với bảo vệ giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn để vừa
làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, vừa tạo cơ sở động lực cho sự phát triển
kinh tế của Thành phố.


21
Tóm lại, giai đoạn 2005 - 2014, Đảng bộ Thành phố đã nhận thức sâu sắc vị
trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH nên
đã kịp thời hoạch định những chủ trương đúng, phù hợp yêu cầu thực tiễn. Công tác
trùng tu, tôn tạo giữ gìn DSVH, hệ thống di tích luôn được Thành phố quan tâm.
Trong công tác quy hoạch đô thị, Thành phố luôn có chủ trương giữ gìn và
bảo vệ các công trình di sản tạo nên bản sắc của Thành phố, luôn chú ý tính thẩm
mỹ, tính hiện đại của các kiến trúc mới, các công trình công cộng. Bên cạnh đó,
Thành phố cũng luôn tính đến việc phát triển kinh tế phải chú ý đến yếu tố văn hóa,
luôn bảo đảm yếu tố hài hòa cảnh quan môi trường với các di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh và các công trình xây dựng mới. Những kết quả đạt được
trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2005 - 2014, đã tạo tiền đề để thức hiện công tác này trong giai đoạn tiếp theo.

Chương 4

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT

Trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH nổi lên một số thành tựu sau: Một là, Thành
tựu nổi bật nhất là Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, tầm
quan trọng của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đối với sự phát
triển bền vững của Thành phố. Các kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh đều nhấn mạnh “xây dựng môi trường văn hóa đô thị lành mạnh, nếp
sống thị dân… làm cho văn hóa thẩm thấu vào trong từng gia đình, từng con
người”. Để văn hóa thẩm thấu vào từng gia đình, từng con người, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác bảo tồn DSVH dân tộc và
sáng tạo những giá trị văn hóa hiện đại, phù hợp với đặc điểm và con người
Thành phố Hồ Chí Minh. Hai là, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng về
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của địa phương. Quán triệt chương trình
hành động của Thành ủy, nhằm phát huy các giá trị văn hóa, Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh chủ trương: Xúc tiến xây dựng Công viên lịch sử - văn hóa dân tộc,
phấn đấu khởi công xây dựng khu tưởng niệm Vua Hùng vào dịp giỗ Tổ Hùng
Vương năm 2000. Đây là công trình tiêu biểu của khu vực phía Nam, là nơi ghi


22
lại và tôn vinh những giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam ở vùng
đất phương Nam.
Bên cạnh đó, ngành văn hóa Thành phố đã có những nỗ lực hoạt động
nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, nhiệt tình cách mạng, khôi phục truyền thống
văn hoá tốt đẹp của dân tộc thông qua việc tổ chức những lễ hội: Đường hoa,
Đường sách; Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam; Lễ hội Sài Gòn 300 năm, lễ
hội du lịch Đất Phương Nam, Giao thừa chào đón Thiên niên kỷ - năm 2000,

Hương sắc miền Nam… thu hút một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia và đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Ba là, sự lãnh đạo sát sao của Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH. Hoạt động bảo tồn các DSVH từng bước đi
vào nề nếp. Lĩnh vực tham mưu quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh đã được các cơ quan chức năng quan tâm. Công tác trùng tu,
sửa chữa, bảo quản di tích luôn nhận được sự quan tâm của Nhà nước cũng như
của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan về kinh phí để tu bổ, bảo quản di tích
thông qua công tác điều tra, nắm thực trạng các di tích để có kế hoạch tu bổ hàng
năm. Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trong lĩnh vực bảo tàng có
bước chuyển biến tích cực. Hoạt động bảo tồn các DSVH vật thể đạt được kết
quả tích cực. Hoạt động bảo tồn các DSVH phi vật thể được quan tâm.
Có thể nói, hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 1998 đến năm 2014 đã đạt được kết quả tích cực, hoạt động
bảo tồn DSVH đi vào chiều sâu. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
được quản lý và thực hiện tốt.
4.2. HẠN CHẾ

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Một là,
trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
tuy đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong chiến lược phát triển
chung của Thành phố song công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề
có liên quan đến văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH; trong việc xác
định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng; trong việc
xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa
và chính trị. Hai là, bên cạnh sự chậm trễ trên phương diện lý luận, trong chỉ đạo
thực tiễn, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu các biện
pháp cần thiết trên cả hai lĩnh vực "xây" và "chống" trên lĩnh vực văn hóa và bảo



23
tồn các giá trị DSVH. Ba là, cơ chế,chính sách về công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH còn thiếu, chưa đồng bộ. Bốn là, việc lập hồ sơ di tích còn
nhiều khó khăn, như: di tích thuộc sở hữu tư nhân và di tích thuộc sở hữu của các
tổ chức tôn giáo, không đồng ý xếp hạng; di tích vướng về dự án, đất đai, tranh
chấp, khoanh vùng bảo vệ; di tích không có người quản lý, không phát huy giá
trị. Bên cạnh đó, ý thức của cộng đồng trong việc bảo tồn di tích chưa cao. Năm
là, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chưa ban hành được cơ chế,
chính sách phát huy nội lực của nhân dân, chưa tạo được phong trào quần chúng
mạnh mẽ tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH cũng như bảo vệ và giữ
gìn văn hóa dân tộc; chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng
của tuổi trẻ tham gia xây dựng và phát triển văn hóa. Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hóa nói chung, công tác bảo
tồn và phát huy giá trị các DSVH nói riêng còn nhiều bất hợp lý. Sáu là, chính
sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý bảo tồn, tôn tạo di tích, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về khoa học bảo tàng, cán bộ
tổ chức khai thác di tích còn nhiều bất cập
4.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Từ thực tiễn công tác công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1998 đến 2014, có thể rút ra một số kinh
nghiệm chủ yếu sau: Một là, nắm vững và vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kịp thời hoạch định chủ
trương và xây dựng những chương trình, kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương. Hai là, có chính sách đầu tư thích hợp, bảo đảm gắn kết chặt
chẽ, đồng bộ giữa phát triển bền vững và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH. Ba
là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, của các tầng lớp nhân dân
trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Bốn là, đẩy mạnh xã hội
hóa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH và hoạt động văn hóa nói
chung. Năm là, Gắn bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí

Minh với công tác quản lý đô thị, quản lý văn hóa đô thị.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH trên địa bàn thành phố, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thành
tựu và còn tồn tại một số hạn chế, nhưng ưu điểm vẫn là cơ bản. Những kinh
nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố có
giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.


×