Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thực trạng về tình hình việc làm tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.32 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
I.Đặt
vấn
đề………………………………………………….
……………………………………………2
II. Nội dung chính.............................................................................................................................................
2.1. Thực trạng về tình hình việc làm tại Việt Nam hiện nay:....................................................................
2.1.1.Tỷ lệ thất nghiệp:............................................................................................................................
2.1.2. Tỷ lệ thiếu việc làm:.......................................................................................................................
2.1.3. Tình hình xuât khẩu lao động Việt Nam........................................................................................
2.1.4. Người nông dân sau khi bị thu hồi đát nông nghiệp.....................................................................
2.2. Chính sách việc làm tại Việt Nam hiện nay........................................................................................
2.2.1. Chính sách việc làm được quy định chung trong bộ luật lao động của nước ta (từ điều
14 – điều 18)...........................................................................................................................................
2.2.2. Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi
đất nông nghiệp......................................................................................................................................
2.2.2.1. Hỗ trợ đào tạo nghề...............................................................................................................
2.2.2.2.Hỗ trợ tạo việc làm trong nước..............................................................................................
2.2.2.3.Hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng...................................................................
2.2.2.4."Chương trình việc làm công"...............................................................................................
2.2.2.5. Ban hành Luật Việc làm nhằm tạo việc làm bền vững cho người lao động........................
2.2.2.6. Tạo chính sách việc làm phù hợp với từng đối tượng..........................................................
2.2.2.7. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.........................................................
2.3. Những nhận xét và Đánh giá..............................................................................................................
2.3.1. Khái quát nội dung của chính sách việc làm hiện nay................................................................
2.3.2 Đánh giá việc thực hiện chính sách..............................................................................................
III. Kết luận và khuyến nghị..........................................................................................................................
3.1. Kết luận...............................................................................................................................................
3.2.Khuyến nghị:........................................................................................................................................
3.2.1 Về phía nhà nước:.........................................................................................................................
3.2.2. Về phía người lao động................................................................................................................


Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................................................................................
Bảng phân công công việc cho các thành viên và đánh giá xếp loại:...........................................................

I.Đặt vấn đề


Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu với cá
nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi xuyên suốt trong các hoạt động kinh
tế, và có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt
động của cá nhân và xã hội.
Theo điều 13, bộ luật lao động: “mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc về khoa học kỹ thuật, tạo nên cú híc thúc đẩy
mọi mặt của nền kinh tế- xã hội. Sự phát triển đó đã tạo ra vô số những ngành
nghề khác nhau trong xã hội đã giải quyết nhu cầu việc làm ngày càng gia tăng
cho người lao động. Tuy nhiên, trong xã hội có rất nhiều yếu tố tác động tới vấn
đề việc làm, vì vậy mỗi quốc gia đều tồn tại những vấn đề liên quan đến việc làm
nhất định, và những chính sách liên quan đến việc giải quyết những vấn đề liên
quan đến việc làm khác nhau. Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi xin điểm ra
một số vấn đề như sau: những tồn tại trong lĩnh vực việc làm tại Việt Nam hiện
nay, Một số chính sách việc làm đang hiện hành tại Việt Nam và những nhận xét,
đánh giá của nhóm chúng tôi về chính sách cũng như việc thực hành chính sách tại
hiện nay.
II. Nội dung chính
2.1. Thực trạng về tình hình việc làm tại Việt Nam hiện nay:
2.1.1.Tỷ lệ thất nghiệp:
Thất nghiệp vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù nền
kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp đó là vấn
đề không tránh khỏi chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao mà
thôi. Việt nam là một trong những nước kinh tế đang phát triển, quy mô dân số

và mật độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát
triển nhanh, trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm
gặp nhiều hạn chế, như thiếu vốn sản xuất, lao động phân bổ chưa hợp lý, tài
nguyên khác chưa được khai thác hợp lý...Càng làm cho chênh lệch giữa cung
và cầu về lao động rất lớn, gây ra sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong
toàn. Nghiên cứu mức độ thất nghiệp giúp đánh giá chính xác mức sống và tình
hình ổn định kinh tế, xã hội… của một quốc gia. Cuộc điều tra về lao động và
việc làm cung cấp thông tin thích hợp phục vụ công tác nghiên cứu và đánh giá
vấn đề thất nghiệp


Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam qua các năm:
Bảng: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15 tuổi trở lên theo khu vực và
nhóm tuổi, 2005, đơn vị %:
Nhóm tuổi

Nông thôn

Thành thị

15 - 19

27,67

7,32

20 - 24

36,43


32,13

25 - 29

12,96

21,56

30 - 34

6,86

10,75

35 - 39

5,39

9,77

40 - 44

4,02

6,40

45 - 49

3,04


6,50

50 - 54

1,75

3,64

55 - 59

0,83

1,36

60+

1,06

0,58

Nguồn: Số liệu Thống kê Lao động - việc làm ở Việt Nam
2005

Bảng: tỷ lệ thất nghiệp, năm 2011:

vị : %
Nhóm tuổi
15-19

Thành thị

4,94

Đơn

Nông thôn
10,21


20-24
25-29
30-34
35-39
40-44
45-49
50-54
55-59

5,30
2,68
1,43
1,08
1,06
1,14
1,67
2,45

8,62
4,13
2,54
2,03

1,93
1,98
3,23
4,40

( Nguồn : số liệu thống kê – lao động việc làm ở Việt Nam năm
2011)
Từ bảng trên, cho thấy tỷ lệ thất nghiệp rất khác nhau giữa các nhóm tuổi,
đặc biệt trong nhóm tuổi 20-29.
Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn cao hơn ở thành thị ( năm 2011).
Mặc dù so với thành thị, tình trạng thất nghiệp ở nông thôn có phần đỡ gay
gắt hơn, song thời gian nông nhàn, và tình trạng thiếu việc làm lại rất phổ biến, và
chưa được thể hiện qua các con số này. Sau thời vụ cấy hái, người nông dân lại rơi
vào tình trạng thiếu việc làm có thu nhập. Mức độ chênh lệch quá lớn về giá cả
ngày công lao động giữa hai khu vực đã khiến người nông dân rời quê hương ra
thành phố tìm việc làm. Xu hướng di cư đi làm ăn xa, đặc biệt đến các thành phố
lớn để tìm việc làm, tăng thu nhập đang tiếp tục diễn ra với quy mô lớn, và ngày
càng đa dạng dưới nhiều hình thức.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm qua các năm : năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp cao hơn so
với năm 2011, tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn khá cao, đặt ra những thách
thức trong lao động và việc làm ở Việt Nam, chính vì vậy nhà nước cần có những
chính sách cụ thể và phù hợp nhằm giảm tình trạng thất nghiệp hiện nay. Đặc biệt
là đối với nhóm tuổi từ 20 – 29 tuổi.
2.1.2. Tỷ lệ thiếu việc làm:
Bảng Tỷ lệ thiếu việc làm của các quý năm 2011.
Đơn vị tính:
%


Tỷ lệ thiếu việc làm

Quý 1

Quý 2

Quý 3

Quý 4

Cả nước

3,86

2,82

2,55

2,58

Nam

3,97

2,86

2,51

2,61

Nữ


3,73

2,78

2,60

2,55

Thành thị

2,06

1,55

1,37

1,35

Nông thôn

4,64

3,37

3,06

3,12

( Nguồn : lao động việc làm – tổng cục thống kê, năm
2011)

Tỷ lệ thiếu việc làm của nước ta chiếm tỷ lệ khá cao, nam giới có tỷ lệ thiếu
việc làm cao hơn nữ giới, nông thôn có tỷ lệ thiếu việc làm cao hơn thành thị.



Chất lượng nguồn lao động còn thấp

Bảng : Dân số trong độ tuổi lao động phân theo khu vực và trình độ
chuyên môn, 2005:
Đơn vị: %
Trình độ chuyên môn

Nông thôn

Thành thị

Không có chuyên môn

84,53

57,28

Công nhân kỹ thuật không có bằng

8,29

15,30

Công nhân kỹ thuật có bằng


1,90

6,39

Trình độ sơ cấp

0,63

1,23

Trung học chuyên nghiệp

2,76

7,45


Cao đẳng, đại học

1,89

12,36

Nguồn: Bộ LĐTB&XH. Số liệu Thống kê Lao động - việc làm ở
Việt Nam năm 2005. NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2006.
Từ bảng số liệu trên cho thấy:
Có sự khác biệt khá lớn về trình độ nguồn nhân lực giữa nông thôn và
thành thị.
Sự chênh lệch trong trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động giữa hai
khu vực.

Mặc dù nguồn lao động ở Việt Nam dồi dao tuy nhiên, chất lượng nguồn
lao động còn thấp, trình độ lao động không có chuyên môn là chủ yếu.
Cơ cấu lao động phân theo trình độ kỹ thuật hiện nay có những điểm bất
cập, mất cân đối so với yêu cầu của sự nghiệp phát triển. Ngay cả trong số lao
động ở các khu công nghiệp, số qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm 30%, nếu tính cả
số lao động có trình độ cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thì tỷ lệ này mới
khoảng 35-40%, còn lại là lao động phổ thông. Bên cạnh đó, người lao động dù đã
qua đào tạo nghề nhưng khả năng làm việc độc lập, xử lý tình huống còn hạn chế,
chưa thích ứng được với những thay đổi về công nghệ.
Điều này đặt ra một thách thức lớn cho lao động ở Việt Nam hiện nay.


Sự mất cân đối về trình độ lao động việc làm giữa nông thôn và thành
thị:

Bảng . Cơ cấu lao động có việc làm phân theo khu vực và loại hình trình độ
nghề nghiệp, 2005

Trình độ kỹ thuật

Nông thôn

Đơn vị: %
Thành thị

Cán bộ quản lý

0,44

1,50



Chuyên môn kỹ thuật bậc cao

1,44

11,71

Chuyên môn kỹ thuật bậc trung

2,55

9,44

Dịch vụ

5,22

19,19

Thợ thủ công

16,65

20,51

Thợ vận hành máy

2,33


9,21

Lao động giản đơn

71,35

28,44

Nguồn: Bộ LĐTB&XH. Số liệu Thống kê Lao động - việc làm ở Việt Nam năm
2005. NXB Lao động - Xã hội, Hà nội, 2006.
Từ bảng số liệu trên cho thấy, những người lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao chủ yếu ở thành thị, còn ở nông thôn người lao động có trình độ
chuyên môn cao chiếm tỷ lệ ít. Có sự chênh lệch lớn về trình độ chuyên môn của
người lao động ở nông thôn và thành thị.
2.1.3. Tình hình xuât khẩu lao động Việt Nam
Xuất khẩu lao động là một chủ trương quan trọng của Đảng và nhà nước
tuy nhiên hiện nay vấn đê xuất khẩu lao động ở nước ta còn gặp khá nhiều khó
khăn mà nổi trội nhất là khả năng ngoại ngữ của lao động Việt còn hạn chế, trình
độ tay nghề chưa cao và còn kém về tác phong công nghiệp nên chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường lao động trên thế giới. Và đặc biệt, tình trạng lao động
bỏ trốn ngày càng gia tăng là nguyên nhân cơ bản khiến nhiều thị trường lao động
(điển hình là thị trường Hàn Quốc) khá e dè trong việc tiếp nhận lao động Việt
Nam.
Tại phiên họp toàn thể lần thứ 16 của Ủy ban Đối ngoại Quốc hội tổ chức
tại TPHCM - bàn về công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động năm 2008 và
quý 1 năm 2009, Bộ LĐTB & XH đã cho biết một số kết quả: "Trong 3 năm, từ
2006 đến 2008, gần 250.000 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài, bình
quân mỗi năm khoảng 83.000 người, chiếm 5% tổng số lao động được giải quyết
việc làm. Với 5% lao động được giải quyết việc làm là một con số khá nhỏ trong
thời buổi khó khăn về việc làm ở Việt Nam những năm gần đây.



Hiện nay, việc tiếp nhận lao động ở một số thị trường còn gặp nhiều hạn
chế như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia. Chỉ riêng thị trường Hàn
Quốc, nguyên nhân khiến nước này ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam là do tình
trạng lao động bỏ trốn quá nhiều. Bộ trưởng bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải
Chuyền nhận định: “Trung bình hàng năm Hàn Quốc tiếp nhận khoảng 15.000 lao
động, nhưng năm 2012 đã giảm xuống 9.000 và năm 2013 sẽ giảm nữa nên chắc
chắn tác động đến tổng thể mục tiêu XKLĐ năm 2013”.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XHT) trong 3 tháng
đầu năm 2013 cả nước mới chỉ đưa được 19,8 nghìn người đi làm việc ở nước
ngoài. Như vậy, mục tiêu mỗi năm đưa 100.000 NLĐ đi làm việc ở nước ngoài mà
Bộ LĐ-TB&XH đề ra trong Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề
giai đoạn 2012-2015 là khó có thể đạt được.
2.1.4. Người nông dân sau khi bị thu hồi đát nông nghiệp
Theo báo cáo về thực trạng lao động việc làm tại các khu vực bị thu hồi đất
do Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật công bố năm 2012 thì chỉ có 8.5% người
nông dân tại các địa phương không gặp khó khăn gì sau khi thu hồi đất, trong khi
đó có 50,1% gặp phải khó khăn do phải tăng mức chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm điều mà trước khi mất đất khá nhiều hộ gia đình có thể chủ động được với
những mức độ khác nhau. Trước và sau khi thu hồi đất các nguồn thu nhập của hộ
gia đình nông dân cũng đã có sự thay đổi, nông nghiệp hầu như là sinh kế của tất
cả người dân các địa phương, tuy nhiên sau khi bị thu hồi đất, nông nghiệp chỉ là
nguồn thu của khoảng 64,9% số hộ gia đình, bởi lẽ ở nông thôn hầu như ai cũng
có thể sản xuất nông nghiệp nhưng rất ít trong số họ có thể làm tốt những việc phi
nông nghiệp.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trung bình mỗi ha đất nông nghiệp bị thu
hồi sẽ gây ảnh hưởng đến vấn đề việc làm cho 10 lao động nông nghiệp. Như vậy,
trong vòng 10 năm (2001-2010), mỗi năm có 1 triệu lao động nông nghiệp bị tác
động. Các nghiên cứu về vấn đề này cũng chỉ ra sau khi bị thu hồi đất, tỷ lệ lao

động tại các địa phương không có việc làm hoặc làm không ổn định cũng gia tăng,
chiếm khoảng gần 30%, đồng thời di cư lao động từ nông thôn ra thành thị cũng
tăng mạnh
Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp xuất phát từ quá trình CNH-HĐH nhằm


phát triển công nghiệp đã ảnh hưởng tới nhiều hộ gia đình và tình trạng về việc
làm cho nhiều lao động nông nghiệp.
Lấy ví dụ ở tỉnh Hải Dương có thể thấy: để có đất đai phục vụ xây dựng các
khu công nghiệp, khu đô thị và hệ thống hạn tầng kinh tế-xã hội, chính quyền tỉnh
Hải Dương đã tiến hành thu hồi một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp giao cho
chủ đầu tư để triển khai các dự án. Tính đến 2009, Hải Dương đã thu hồi 5.963 ha
đất nông nghiệp (giai đoạn 2001 – 2005 là 2.503 ha) để xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị,... Việc thu hồi đất từ năm 2001 đến 2009 đã ảnh hưởng trược
tiếp đền 54.326 hộ gia đình có đất bị thu hồi với tổng số 113.142 người. Trong
tổng số lao động liên quan tới việc thu hồi đất nông nghiệp thì việc thu hồi đất
nông nghiệp đã làm cho 56.753 lao động bị mất việc và thiếu việc làm, trong đó có
16.740 người bị mất việc hoàn toàn, 40.013 người bị giảm việc làm. Tính riêng
giai đoạn 2001 – 2005, trung bình cứ thu hồi 1 ha đất nông nghiệp sẽ làm cho
10,18 lao động bị mất việc làm trong đó 2,95 người bị mất việc hoàn toàn (theo
báo cáo của Sở LĐ – TBXH tỉnh Hải Dương, 2009).
Bảng số lao động có việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp do thu hồi đất
nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương (Sở LĐ- TBXH tỉnh Hải Dương, 2009)
Số lượng

Người có việc làm
Thiếu việc làm và thất nghiệp
Tổng số

21.063

35.690
56.753

Tỉ lệ(%)

37.1
62.9
100

Như vậy, so với diện tích đất nông nghiệp thu hồi và số người bị ảnh hưởng
do thu hồi đất thì số lao động được làm việc trong các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp trên địa bàn còn quá ít. Và nhìn chung, việc làm của lao động nông nghiệp
sau khi bị thu hồi đất là những công việc mang tính chất tạm thời, thu nhập thấp và
không ổn định như: phụ hồ, thợ xây, buôn bán rau cỏ, thực phẩm, tạp hóa,...một số
ít lao động chuyển sang chăn nuôi nhỏ hoặc sản xuất tiểu thủ công nghiệp như
mây tre đan xuất khẩu, chế biến lương thực, làm mộc,... một phần nhỏ là chuyển
sang kinh doanh dịch vụ xung quanh các khu công nghiệp, khu đô thị, cụm công
nghiệp như kinh doanh ăn uống, nhà trọ, vui chơi giải trí,...
Còn tại huyện Thạch Thất- Hà Tây (nay là Hà Nội), tính đến cuối 2006 toàn


huyện có 15.618 hộ bị thu hồi đất. Trong đó cos9.062 hộ bị thu hồi toàn bộ diện
tích nông nghiệp, chiếm 58% số hộ bị thu hồi đất. Trong 15.618 hộ có 58.472 nhân
khẩu với 32.159 lao động chiếm 20.7% dân số của huyện. Một số xã nằm trong
các dự án xây dựng khu, cụm, điểm công nghiệp bị thu hồi như xã Thạch Hòa
2.107 hộ chiếm 100%, xã Hạ Bằng 767 hộ chiếm gần 60%, các xã Tân Xã, Đồng
Trúc, Bình Yên, Phùng Xá, Bình Phú chiếm 40% số hộ có diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi (theo sở LĐ-TBXH huyện Thạch Thất, 2006). Với tình trạng
người thất nghiệp, thiếu việc làm do ảnh hưởng của quá trình thu hồi đất nông
nghiệp như vậy thì việc giải quyết việc làm cho người lao động là vô cùng khó

khăn, gây sức ép về vấn đề việc làm nghiêm trọng.
Nói tóm lại, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp do bị ảnh
hưởng bởi chính sách thu hồi đất nông nghiệp đã và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Đây là bài toán khó cho việc giải quyết việc làm của nhà nước ta hiện nay.
Trên đây là một số vấn đề cơ bản còn đang tồn tại trong thị trường việc làm tại
nước ta hiện nay, trước những vấn đề liên quan đến giải quyết việc làm cho người
lao động hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang triển khai thực hiện những
chính sách việc làm nhằm giải quyết vấn đề trên, dưới đây là một số chính sách
như sau.
2.2. Chính sách việc làm tại Việt Nam hiện nay
Trong thực tế để đảm bào việc làm cần phải có hình thức để thể hiện đó là chính
sách. Chính sách theo Từ điển Tiếng Việt 1996, là sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra. Chính sách việc làm là chính sách được xây dựng và áp dụng 1
chính sách tích cực như là 1 mục tiêu cốt yếu, nhằm khuyến khích việc làm đầy đủ
để kích thích sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống và đáp ứng
nhu cầu nhân công và giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội.
Chính sách việc làm có mục đích đảm bảo việc làm cho tất cả những người không
có việc làm và cần tìm việc làm. Việc làm càng có hiệu quả cao càng tốt và được
tự do lựa chọn. Mỗi người lao động phải có khả năng được trang bị những trình độ
nghề cần thiết để có 1 việc làm thích hợp và sử dụng được trình độ nghề cần thiết
đề có 1 việc làm thích hợp và sử dụng được trình độ nghề, năng khiếu của mình
trong việc làm đó. CSVL phù hợp vs từng giai đoạn và trình độ phát triển kinh tế
của đất nước, đảm bảo mối quan hệ giữa các mục tiêu việc làm với các mục tiêu


kinh tế của đất nước khác. CS này được áp dụng bằng phương pháp thích ứng phù
hợp điều kiện trong nước và quy ước quốc tế. Các chính sách đó đặt ra để thực
hiện các mục tiêu việc làm phải được xác định thường xuyên xem xét lại trong
khuôn khổ chính sách kinh tế- xã hội nói chung của quốc gia trong từng thời kì

phát triển nhất định của mỗi nước.
2.2.1. Chính sách việc làm được quy định chung trong bộ luật lao động của
nước ta (từ điều 14 – điều 18).
- Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc
giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả
năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người
lao
động.
- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao
động

người
dân
tộc
thiểu
số.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và
cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm cho người lao
động.
- Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc
làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát
triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội
quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập chương trình và quỹ
giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
- Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã

hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực
hiện
các
chương
trình

quỹ
giải
quyết
việc
làm.


- Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở
bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có quyền trực
tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc
tuỳ theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.
- Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ
việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu
cầu sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập theo quy định của pháp luật có nhiệm
vụ tư vấn, giới thiệu, cung ứng và giúp tuyển lao động, thu thập và cung ứng thông
tin về thị trường lao động. Việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
- Tổ chức dịch vụ việc làm được thu lệ phí, được Nhà nước xét giảm, miễn thuế và
được tổ chức dạy nghề theo các quy định tại Chương III của Bộ luật này.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thống nhất quản lý Nhà nước đối với các
tổ
chức

dịch
vụ
việc
làm
trong
cả
nước.
- Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm
việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm, thì
người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào
những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho
người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả
một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương.
- Khi cần cho nhiều người thôi việc theo khoản 1 Điều này, người sử dụng lao
động phải công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp và thâm niên
làm việc tại doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của
từng người để lần lượt cho thôi việc, sau khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp
hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp theo thủ tục quy định tại khoản 2 Điều
38 của Bộ luật này. Việc cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi đã báo cho cơ
quan
lao
động
địa
phương
biết.


- Các doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm theo quy định
của Chính phủ để kịp thời trợ cấp cho người lao động trong doanh nghiệp bị mất
việc

làm.
- Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại, hướng dẫn
sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc
làm, tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm; hỗ trợ về
tài chính cho những địa phương và ngành có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất
việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ.
Trên đây là quy định chung về chính sách việc làm. Tuy nhiên trong chính sách
việc làm lại chia ra thành nhiều những mảng nhỏ ví dụ như chính sách ưu tiên hỗ
trợ việc làm cho các đối tượng chính sách theo quy định của nhà nước, chính sách
hỗ trợ thất nghiệp, chính sách bảo hiểm lao động…

2.2.2. Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp
Ngày 16/11/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 52/2012/QĐTTg về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động
bị thu hồi đất nông nghiệp
Theo Quyết định này người lao động thuộc các hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông
nghiệp bị Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất để bồi thường có đủ
những điều kiện: Có hộ khẩu thường trú tại hộ gia đình có đất nông nghiệp bị thu
hồi; Trong độ tuổi lao động; Có nhu cầu học nghề, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc
làm, vay vốn tạo việc làm thì được hưởng chính sách hỗ trợ trong thời hạn 3 năm,
kể từ khi có Quyết định thu hồi đất.
2.2.2.1. Hỗ trợ đào tạo nghề
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đào tạo, học nghề được
nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình
độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng) được Nhà nước hỗ trợ chi phí học nghề theo
quy định tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng được Nhà nước trả học phí cho một khóa
học. Mức học phí được Nhà nước trả bằng mức thu học phí thực tế của cơ sở đào



tạo nhưng tối đa không quá mức trần học phí đối với cơ sở đào tạo nghề trung cấp,
cao đẳng công lập theo quy định của pháp luật.
Kinh phí hỗ trợ học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng được bố trí từ kinh phí hỗ
trợ chuyển đổi nghề nằm trong phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và được tính
trong tổng kinh phí của dự án đầu tư hoặc phương án bồi thường, hỗ trợ tái định
cư được duyệt.
Đối với người lao động thuộc hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp đồng thời
cũng thuộc đối tượng cho vay vốn theo quy định tại Quyết định 157/2007/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên thì được vay vốn
tín dụng áp dụng đối với học sinh, sinh viên theo quy định hiện hành.
2.2.2.2.Hỗ trợ tạo việc làm trong nước
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu tìm việc làm được hỗ trợ tư
vấn học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm giới thiệu
việc làm trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; ưu tiên vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của
pháp luật.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận nhiều lao động bị thu hồi đất nông nghiệp vào
làm việc được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế theo quy
định của pháp luật.
2.2.2.3.Hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài
được hỗ trợ 100% học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết theo
quy định của pháp luật về người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng; hỗ trợ 100% chi phí khám sức khỏe, làm hộ chiếu, thị thực và lý lịch tư
pháp trước khi đi làm việc ở ngoài theo mức quy định hiện hành của Nhà nước.
Bên cạnh đó, được hỗ trợ tiền ăn hàng ngày trong thời gian đi học theo mức quy
định tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg; hỗ trợ tiền đi lại 1 lượt đi và về từ nơi cư trú
đến nơi học đối với các học viên ở cách địa điểm học trên 15 km theo giá vé thông
thường của phương tiện công cộng tại thời điểm thanh toán.

Đối tượng lao động này cũng được vay vốn với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng Chính
sách xã hội để chi trả các chi phí cần thiết để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Mức cho vay tối đa bằng tổng chi phí cần thiết mà người lao động phải đóng góp
theo quy định ghi trên hợp đồng đối với từng thị trường lao động. Lãi suất cho vay
bằng lãi suất cho vay hiện hành với người lao động không thuộc hộ nghèo đi làm


việc có thời hạn ở nước ngoài tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Thời hạn cho vay
tối đa bằng thời gian đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng.
Người lao động thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày
27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 61 huyện nghèo, khi đi làm việc ở nước ngoài được hưởng các chính sách
theo quy định tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động
góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020.
Người lao động được hỗ trợ một lần cho từng nội dung hỗ trợ đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng như nêu trên.
Về giải quyết việc làm cho người lao động, Đại hội VI nhấn mạnh “Bảo đảm việc
làm cho người lao động, trước hết là ở thành thị và cho thanh niên, là nhiệm vụ
kinh tế – xã hội hàng đầu trong những năm tiếp theo. Mở mang ngành nghề tại
chỗ, đi đôi với việc phân bố lao động đến các địa bàn và các ngành nghề. Mở rộng
hợp tác lao động với nước ngoài kết hợp với nâng cao tay nghề cho thanh niên và
nâng cao trình độ chuyên gia, bố trí cơ cấu ngành nghề thích hợp.
2.2.2.4."Chương trình việc làm công"
Trong các nhóm chính sách hỗ trợ tạo việc làm theo dự thảo Luật, đáng chú ý là
chương trình việc làm công - chính sách mới do Nhà nước tổ chức thực hiện nhằm
hỗ trợ giải quyết việc làm tại chỗ và tạm thời ở khu vực nông thôn thông qua các
chương trình, dự án ở các địa phương như: chương trình xây dựng nông thôn mới,
chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã nghèo, xã bãi ngang ven biển
và hải đảo, chương trình 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững...

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển ủng hộ việc xây dựng
Luật, tuy nhiên ông lưu ý các quy định của Luật phải đảm bảo tính khả thi "ta cứ
đưa ra những mục tiêu rất hay nhưng vấn đề là có thực hiện được không và khả
năng chịu đựng của ngân sách thế nào?". Riêng quy định về chính sách tín dụng
tạo việc làm (đối tượng được vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm), ông Hiển băn
khoăn "hưởng ưu đãi vay từ quỹ là như thế nào, hiện đã có đến 80 quỹ, trong đó
50 quỹ đang hoạt động, lập nhiều quỹ quá sẽ phân tán nguồn lực quốc gia".
Hiện nay, theo báo cáo của Chính phủ, mới chỉ có khoảng 33,8% lao động làm
công ăn lương, vẫn còn khoảng 67,2% lao động không có quan hệ lao động; mỗi
năm lại có hơn 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Con số nói trên khiến


Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng hết sức băn khoăn: "Những trường hợp thất
nghiệp hỗ trợ, giải quyết thế nào? Hỗ trợ người tạm thời mất việc thì ra sao?".
Chủ tịch yêu cầu "phải thiết kế chính sách cho từng đối tượng thích hợp" và lưu ý
"phải cân đối nguồn lực và khả năng thực hiện, làm sao các quy định đảm bảo tính
khả thi".
2.2.2.5. Ban hành Luật Việc làm nhằm tạo việc làm bền vững cho người lao
động
Theo tờ trình về dự án Luật Việc làm của Chính phủ, việc làm là mối quan tâm của
toàn xã hội, là chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng đối với một đất nước nhưng đến
nay chưa có một đạo luật riêng điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội về việc làm.
Vấn đề việc làm được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau và chủ yếu
trong các văn bản dưới luật nên thiếu đồng bộ, chưa có sự thống nhất, gây nhiều
khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai. Để hoàn thiện chính sách pháp
luật về việc làm cần phải có một đạo luật riêng để điều chỉnh toàn diện quan hệ về
việc làm và thị trường lao động.
Báo cáo thẩm tra sơ bộ về dự án Luật Việc làm của Ủy ban Về các vấn đề xã hội
nhận định, dự thảo Luật đã thực hiện đầy đủ các quy định của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, thống nhất cơ bản về sự cần thiết ban hành Luật việc làm

như Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban cho rằng dự án Luật
cần cụ thể hóa hơn nữa các quan điểm về vai trò an sinh xã hội trong chính sách
việc làm; xây dựng những chính sách ưu tiên hỗ trợ tạo việc làm đối với nhóm lao
động trẻ, nhóm lao động yếu thế, lao động nữ, lao động trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn, lao động tự do…; khuyến khích sự tham gia của xã hội trong
chính sách việc làm thông qua việc đa dạng hóa các nguồn lực và xã hội hóa dịch
vụ việc làm; xây dựng cơ chế thông tin - dự báo, định hướng cho việc phát triển
thị trường lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Cho ý kiến về dự án Luật Việc làm, về cơ bản, các thành viên UBTVQH đồng tình
với nội dung dự án Luật Việc làm và báo cáo Thẩm tra sơ bộ đã đưa ra. UBTVQH
đã tập trung thảo luận về các vấn đề: chính sách hỗ trợ việc làm, thông tin thị
trường lao động, tổ chức dịch vụ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, cấp chứng chỉ kỹ
năng nghề…


2.2.2.6. Tạo chính sách việc làm phù hợp với từng đối tượng
Phụ nữ:
Nhằm tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn
định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vị thế cho phụ nữ, Thủ tướng Chính
phủ vừa phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 20102015". Theo đó, lao động nữ sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối
đa 3 triệu đồng/người/khóa và được vay vốn để tự tạo việc làm.
Đối tượng được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm là lao động nữ trong độ tuổi lao
động, ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện hưởng chính sách ưu
đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu
nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người trong diện thu hồi
đất canh tác, phụ nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp.
Con thương binh, liệt sỹ:
Ngày 28/11/2012, Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 31/CT – TTg về thực
hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con thương binh, liệt sỹ, bệnh

binh nặng. Chỉ thị 31 tiếp tục khẳng định chính sách ưu đãi đối với người có công
với cách mạng đặc biệt là công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con liệt
sỹ, con thương bệnh binh nặng.
Ưu tiên xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề.
Hỗ trợ học phí, học bổng, vay vốn.
Ưu tiên tiếp nhận, tuyển dụng vào trong các công ty, xí nghiệp quốc doanh.
Hỗ trợ lao động nước ngoài.
Khuyết tật:
Việt Nam có 7,8% dân số là người khuyết tật. Bộ Lao động thương binh và xã hội
ưỡi tính trong đó có 69% người khuyết tật đang ở độ tuổi lao động (51 – 60) nên
việc thực hiện chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật nhằm giúp họ có
được thu nhập ổn định để họ có thể tự chăm lo cho bản thân và gia đình.
Một số điểm trong chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật như: tổ chức tư
vấn. giới thiệu việc làm miễn phí; chính sách nhận người khuyết tật vào làm việc,


hay là có những ưu đãi cho doanh nghiệp nào nhận nhiều người khuyết tật vào làm
việc…
Đó là một trong số những chính sách xã hội về tạo việc làm cho một số đối tượng
ưu tiên.
2.2.2.7. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với người lao
động. Mục đích của chế độnày là trợgiúp vềmặt tài chính cho người thất nghiệp để
họ ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định, từ đó
tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động để họ có cơ hội mới về việc
làm.
Nội dung của chính sách này:
Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ bao gồm người lao động làm việc
theo hợp đồng có thời hạn từ 1 năm hoặc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn.

Khi người lao động đóng phí đủ 12 tháng trở lên và mất việc 30 ngày trở lên mà
chưa có việc làm thì sẽ được cấp cho một khoản tiền trợ cấp thất nghiệp. thêm vào
đó là sẽ được giới thiệu việc làm hoặc đào tạo lại nghề phù hợp nếu có yếu cầu.
2.3. Những nhận xét và Đánh giá
2.3.1. Khái quát nội dung của chính sách việc làm hiện nay
Có thể thấy rằng, những chính sách việc làm tại Việt nam hiện nay rất đa dạng,
hướng đến nhiều đối tượng khác nhau tron xã hội, những đối tượng đang gặp phải
những khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, tuy nhiên có thể khái quát nội dung
cơ bản nhất trong chính sách việc làm nói chung ở nước ta như sau:
Nội dung cốt lõi:
- Tạo việc làm cho người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm.
- Khai thác hợp lý các nguồn lực hiện có


Mục tiêu đó được cụ thể thành những mục tiêu sau:
Một là: Đảng và Nhà nước luôn tạo khuôn khổ và môi trường pháp luật để mọi
công dân tự do tìm kiếm việc làm, có quyền làm việc cho bất kì người sử dụng lao
động nào và bất cứ nơi nào mà luật pháp không cấm. Đồng thời Bộ Luật lao động
còn khẳng định mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về
giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo….
Hai : xác lập cơ chế thiết lập quan hệ lao động thông qua việc giao kết hợp đồng
lao động thỏa ước lao động tập thể, tạo điều kiện đảm bảo cho các bên tham gia
quan hệ lao động tự thỏa thuận quyền lợi và lợi ích của mỗi bên trên cơ sở pháp
luật lao động của nhà nước.
Ba: Đảm bảo cho người sử dụng lao động thực hiện đầy đủ các quyền tự chủ trong
việc tuyển chọn lao động, sử dụng lao động, trả lương và cho thôi việc phù hợp
với nhu cầu sản xuất, kinh doanh trong điều kiện thị trường.
Bốn: Quy định các nguyên tắc về quản lý , sử dụng lao động đảm bảo quyền lợi và

trách nhiệm của cả hai phía: người sử dụng lao động và người lao động phù hợp
với luật phát quốc gia, thông lệ quốc tế.
Năm: Quy định các biện pháp nhằm đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao
động. Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tếxã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện hỗ trợ tài chính cho vay vốn hoặc giảm
miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao
động tự giải quyết việc làm, các đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.
Sáu: Chính phủ lập chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, dự án đầu tư
phát triển KT-Xh,di dân phát triển vùng kinh tế mới gắng với chương trình giải
quyết việc làm, lập quỹ quốc gia về giải quyết việc làm từ ngân sách nhà nước và
các nguồn khác, phát triển hệ thống dịch vụ việc làm. Hằng năm, chính phủ trình
quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm.
Bảy: Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy ngề, đào tạo lại, hướng
dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia về việc
làm, tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm, hỗ trợ tài
chính cho những địa phương và ngành có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất


việc do thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc công nghệ mới.
2.3.2 Đánh giá việc thực hiện chính sách
Thực hiện chính sách là một khâu vô cùng quan trọng để đánh giá sự hợp lý, tích
cực của một chính sách nào đó. Việc thực hiện chính sách đòi hỏi phải có sự phối
hợp thực hiện giữa các ban ngành đoàn thể, từ cấp trung ương đến địa phương và
những người dân lao động. Việc thực hiện chính sách việc làm ở nước ta đang diễn
ra như sau:
Mặt tích cực:
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tích cực ban hành các văn bản hướng
dẫn, tổ chức tập huấn, hướng dẫn các địa phưong trong việc thực hiện các chính
sách, pháp luật về việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình, đề án về việc
làm…

- Các ngành, các cấp và các địa phương đã tích cực, chủ động triển khai các chính
sách, pháp luật về việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình, đề
án về việc làm, lồng ghép mục tiêu giải quyết việc làm trong các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội....; công tác thông tin thị trường lao động và quản lý lao động
cũng ngày càng được quan tâm đã góp phần thúc đẩy và bảo đảm việc làm cho
người lao động.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về việc làm đã được các
cơ quan, tổ chức và các địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai
thực hiện. Với vai trò là cơ quan quan lý nhà nước về lĩnh vực việc làm, Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội đã hệ thống các văn bản quy định, biên soạn tài liệu
tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ, tờ rơi... in và phát cho các địa phương.
- Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình trung ương, địa phương như:
Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, báo Lao động- xã hội, báo Lao
động…. đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền chính sách về việc
làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp…. bằng các hình thức như: chuyên đề,
chuyên mục, các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình của thanh niên
trong tạo việc làm,….
- Công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức làm công
tác lao động – việc làm đã được ngành lao động thương binh và xã hội và các đoàn
thể, tổ chức xã hội triển khai từ nhiều năm nay tác động tích cực đến việc triển
khai, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về việc làm ở địa phương.


- Nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm ngày càng được nâng cao. Người lao động từ chỗ trông chờ, ỷ lại
vào nhà nước đã trở nên chủ động, tích cực tìm kiếm việc làm, tạo việc làm cho
bản thân và người khác.
Các chính sách việc làm ở nước ta sau khi được đưa vào thực hiện, trên thực tế thì
đã thu được một số kết quả :
- Theo khảo sát của Tổng cục thống kê (2010) cơ cấu nhành nghề xản suất kinh

doanh đã có những thay đổi tích cực theo hướng phát triển thêm nhiều ngành nghề
phi nông nghiệp, lâm nghiệp,thủy sản, phát triển 34,1% (2010) đến 22,3(2002)
- Ngoài ra còn có thể thấy rõ được sự thay đổi nhờ tác động của chính sách xã
hội: theo số liệu của Tổng cục thống kê (24/12/2012) tỷ lệ thất nghiệp là 1,99%
-2,27 % (2011) trong đó tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị 3,25%) – 3,60% nông thôn
1,42% -1,6%. Thiếu việc làm :2012 (2,8%) thành thị (1,58%) nông thôn (3,35%)
tỷ lệ tương ứng là : 2,96%, 1,58%,3,56%
- Theo số liệu của BLĐ-Thương Binh Xã Hội tổng số lao động đi làm việc ở
nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2012 lad 40,115 lao động đạt 44,6% so với chỉ
tiêu đề ra , Cũng đã giảm so với mức thấp nhất tỷ lệ lao động bất hợp pháp
Mặt hạn chế:
- Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sâu rộng, còn mang tính
hình thức. Đối tượng tuyên truyền, phổ biến chủ yếu là cán bộ, công chức các cơ
quan, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội từ cấp tỉnh
đến cấp xã có liên quan đến hoạt động này. Đối với người dân, ít được phổ biến
trực tiếp. Đối với doanh nghiệp, việc tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp
luật về lĩnh vực này chỉ nhằm mục đích chính là phục vụ cho tuyển dụng lao động,
chưa đảm bảo để người lao động hiểu biết đầy đủ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi
của mình.
- Nhận thức của doanh nghiệp và người lao động chưa đúng mức về trách nhiệm
của mình trong giải quyết việc làm, về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động
đánh giá kỹ năng trong việc cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật phục vụ phát triển
bền vững kinh tế- xã hội; các hiệp hội nghề nghiệp chưa tích cực tham gia hoạt
động đánh giá kỹ năng nghề.
- Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở
một số địa phương, đơn vị còn chậm; hình thức thông tin, tuyên truyền chưa phù
hợp dẫn đến một bộ phận không nhỏ người lao động, người sử dụng lao động
không nắm bắt được thông tin cơ bản về đăng ký thất nghiệp, hồ sơ hưởng bảo
hiểm thất nghiệp, hưởng bảo hiểm thất nghiệp.



Một số hạn chế trong thực hiện chính sách việc làm ở nước ta hiện nay đã dẫn tới
những vấn đề tồn tại trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay như sau: Đời sống
kinh tế xã hội nói chung của toàn xã hội nhìn chung còn thấp, thu nhập của người
lao động còn chưa cao. Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp còn cao nhất là ở
khu vực nông thôn. Chất lượng lao động chưa cao dẫn đến những hạn chế trong
việc tiếp xúc với các phương tiện kĩ thuật hiện đại còn hạn chế, việc tham gia bảo
hiểm thất nghiệp còn hạn chế đối với mọi tầng lớp dân cư…
Chính sách việc làm cần bổ sung những điều khoản để hướng đến giải quyết
những khó khăn của các đối tượng khác trong xã hội như: sinh viên mới ra trường,
người lao động tự do, lao động giản đơn, người hết hạn tù về tái hòa nhập cộng
đồng…
- Chính sách về việc làm nằm rải rác, tản mát ở nhiều văn bản (như: Bộ luật Lao
động, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,
Luật Người khuyết tật….), xuất hiện sự chưa đồng bộ giữa các văn bản cả về nội
dung và thời gian gây lúng túng cho việc tổ chức thực hiện. Ví dụ: như chính sách
việc làm cho người khuyết tật được quy định không thống nhất trong Bộ luật Lao
động năm 1994 và Luật Người khuyết tật năm 2010.
- Chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú trọng đến tạo việc làm (càng
nhiều việc làm càng tốt), chưa chú trọng đến chất lượng việc làm cho nên tính ổn
định, bền vững trong việc làm và hiệu quả tạo việc làm còn thấp.
- Hiện nay, mới chỉ có chính sách tạo việc làm chung và cho một số đối tượng đặc
thù chưa có chính sách việc làm theo ngành, vùng kinh tế nên sự chuyển dịch cơ
cấu lao động còn chậm, lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc
khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
- Một số quy định về chính sách việc làm còn mang nặng tính tuyên ngôn pháp lý,
chưa có quy định hướng dẫn cụ thể (như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến
khích các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho nhiều người
lao động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại các công trình, dự

án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ở
nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về nước; chính sách miễn
giảm thuế, ưu đãi thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, sử
dụng nhiều lao động là người khuyết tật....) nên giá trị thực tế, tính khả thi chưa
cao.
- Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao động
nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản


hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật; các đối tượng đặc thù khác như: lao
động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù, lao
động phi chính thức.... chưa có chính sách riêng.
- Chưa có chính sách khuyến khich người lao động đi làm việc ở nước ngoài và
gia đình họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu quả thu nhập có được từ
việc đi lao động ở nước ngoài
- Các quy định về Quỹ giải quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời
gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện như: quy định về mức vay còn
mang tính bình quân, chưa gắn với nhu cầu của các dự án; chưa có quy định
hướng dẫn cụ thể về việc vay vốn của Trung tâm giáo dục; quy định về việc giao
trách nhiệm cho Ngân hàng chính sách xã hội địa phương tổ chức thực hiện cho
vay từ khâu hướng dẫn xây dựng dự án đến khi giải ngân, xem xét xóa nợ mà
không có sự phối hợp của các cơ quan liên quan dẫn đến các dự án cho vay không
đảm bảo hiệu quả, mục tiêu của chương trình…. Quy định về chính sách hỗ trợ tín
dụng cho người nghèo, người dân tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài chưa
thống nhất, đồng bộ về mức vay và lãi suất cho vay
- Những quy định về việc làm đối với các đối tượng đặc thù mới chỉ dừng ở những
quy định về chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước đối với các đối tượng đặc
thù, chưa có quy định về việc bảo đảm việc làm, bình đẳng về việc làm đối với các
đối tượng này.


III. Kết luận và khuyến nghị
3.1. Kết luận
- Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ, toàn diện trong
nhiều văn văn bản, nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: Chính sách chung về việc
làm (quyền và nghĩa vụ của người lao động về việc làm, trách nhiệm của Nhà
nước về việc làm,...); Chính sách hỗ trợ để tạo và tự tạo việc làm cho người lao
động (Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc
làm...); Chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (cho vay
tín dụng, bồi dưỡng kiến thức, nghề nghiệp trước khi đi lao động ở nước ngoài,
…..)
- Đã ban hành một số chính sách riêng về việc làm cho các đối tượng đặc thù: lao
động nữ, lao động là người khuyết tật như: bảo đảm việc làm cho lao động nữ,
chống phân biệt đối xử đối với lao động nữ, ưu tiên tuyển dụng lao động nữ,


khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ,....; hỗ trợ dạy nghề cho
người khuyết tật, hỗ trợ hộ gia đình và người khuyết tật tạo việc làm, chính sách
khuyến khích nhận người khuyết tật vào làm việc tại doanh nghiệp.... Những chính
sách này đã tạo môi trường thuận lợi cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật
bình đẳng tham gia thị trường lao động, tạo cơ hội cho họ tìm việc làm và tự tạo
việc làm, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, bảo đảm việc làm bền
vững.
- Chương trình việc làm được chỉ đạo xây dựng đến từng cấp địa phương, đã tạo
được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về tạo mở việc làm, thông qua phát
triển kinh tế và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Bằng cơ chế, chính
sách, pháp luật đã thực sự giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo
môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất tạo và tự tạo nhiều
việc làm. Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần tích cực, tạo “cú huých” kích
thích nhân dân đầu tư vốn tạo việc làm, góp phần từng bước chuyển dịch cơ cấu
sản xuất dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng tích cực.

- Các chính sách giải quyết việc làm, chương trình quốc gia về việc làm được ưu
tiên thúc đẩy trong chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, đã góp phần
tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,7 triệu việc làm) và giảm tỷ
lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2010 là
4,43%).
- Các chính sách hỗ trợ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
như: cho vay tín dụng, hỗ trợ học nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ, kiến thức cần thiết
trước khi đi làm việc ở nước ngoài….. được triển khai thực hiện từ trung ương đến
địa phương đã góp phần nâng cao số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài (trung bình mỗi năm khoảng 70-80 nghìn lao động đi làm việc ở nước
ngoài).
3.2.Khuyến nghị:
3.2.1 Về phía nhà nước:
Cần có quy định cụ thể về chính sách phát triển việc làm chung của nhà nước,
trong đó nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm mà phải có trách nhiệm
định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo đảm việc làm bền vững
cho người lao động; quy định về các giải pháp cụ thể của nhà nước.
- Bổ sung quy định về chính sách phát triển việc làm theo ngành, vùng kinh tế
- Rà soát và quy định cụ thể các chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước.


- Bổ sung quy định về chính sách khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước
ngoài và gia đình họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu quả thu nhập có
được từ việc đi lao động ở nước ngoài
- Bỏ quy định về Quỹ việc làm địa phương.
- Sửa đổi, bổ sung những quy định còn hạn chế trong việc quản lý, sử dụng Quỹ
quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.
- Rà soát, bổ sung thêm quy định về chính sách việc làm cho các đối tượng đặc thù
khác như: lao động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện,
mãn hạn tù....

- Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành theo quan điểm bình đẳng,
nâng cao cơ hội việc làm và bảo vệ quyền làm việc của lao động đặc thù.
3.2.2. Về phía người lao động
- Cần tích cực, chủ động, linh hoạt trong việc nâng cao tay nghề bản thân.
- Tích cực tiếp cận với các chính sách việc làm của Đảng và nhà nước, hiều rõ nội
dung của chính sách để đảm bảo được hưởng đầy đủ những lợi ích được quy định
trong chính sách.
- Tích cực, chủ động tiếp những kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, đa dạng hóa các
loại hình nghề nghiệp cho bản thân cũng như toàn xã hội
Như vậy có thể thấy rằng việc ban hành và thực hiện chính sách việc làm cho
người dân có đạt hiệu quả hay không, có hướng đến giải quyết những vấn đề khó
khăn cho người lao động hay không, không phải chỉ xuất phát từ phía nhà nước
mà phải có sự phối hợp thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa
phương và mọi công dân. Với nỗ lực từ phía nhà nước và từ phía nhân dân hiện
nay, trong tương lai không xa, những vấn đề còn đang tồn tại trong hiện thực việc
làm nước ta sẽ sớm được giải quyết, đem lại cuộc sống no đủ cho nhân dân.


×