Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Lịch sử Đoàn chương 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.57 KB, 10 trang )

CHƯƠNG V
KIÊN CƯƠNG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC, LÀM
THẤT BẠI ÂM MƯU ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA ĐỊCH

Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, Đảng triệu tập khẩn cấp Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương mở rộng, họp trong 2 ngày 18 và 19-12-1946 tại làng Vạn Phúc
(Hà Đông) quyết định phát động toàn dân cầm vũ khí đứng lên chống thực dân Pháp xâm
lược, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Người nói: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào!... là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc...”
Đáp lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng chiến
đúng đắn do Đảng vạch ra, thanh niên cả nước cùng toàn dân nhất tề đứng lên giết giặc
cứu nước.
Đêm 19-12-1946, cuộc chiến đấu của thanh niên và nhân dân nước ta nổ ra ở Thủ đô Hà
Nội và các thành phố, thị xã như: Hải Phòng, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà Nẵng...
Tại Thủ đô Hà Nội, với lòng căm thù giặc sôi sục, với ý chí bất khuất, kiên cường,
quân dân và thanh niên thành phố đã tấn công mãnh liệt vào quân cướp nước, 20 giờ ngày
19-12-1946, công nhân nhà máy điện được lệnh phá máy, tắt đèn. Giờ cứu nước đã điểm,
toàn thành phố nổ súng. Từ các pháo đài Láng, Xuân Tão, Xuân Canh, Đào Xuyên, Đoàn
pháo binh Thủ đô nã đại bác vào các trại lính Pháp. Các lực lượng vệ quốc quân, công an
xung phong, tự vệ chiến đấu, đồng loạt tiến công các vị trí của giặc. Thanh niên tự vệ chặt
cây, nổ mìn, ngả cột điện, đánh đổ toa xe lửa, xe điện, nhân dân khuân vác giường, tủ, bàn
ghế ra đường làm chướng ngại vật chặn quân thù. Tiếng súng, lựu đạn, bom, mìn, tiếng hô
xung phong, tiếng loa phát thanh của tự vệ, tiếng hát của đoàn quân cảm tử... tất cả hòa
quyện thành bản anh hùng ca của nhân dân Hà Nội trong đêm đầu toàn quốc kháng chiến,
phản ánh ý chí sắt thép của tuổi trẻ Thủ đô: “Hà Nội mồ chôn giặc Pháp”, “Thề sống chết
với Thủ đô”.


Sau những giờ phút hoảng loạn, giặc Pháp điên cuồng phản kích. Các đoàn chiến xa
dẫn đầu hàng nghìn lính bộ binh lồng lộn chia làm nhiều ngả tiến đánh nơi làm việc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Quốc phòng, Bộ tổng chỉ huy tự vệ chiến
đấu, Nhà hát Lớn thành phố, nhà đấu xảo, nhà ga, cầu Long Biên và nhiều vị trí khác.
Cuộc chiến đấu giữa ta và giặc nổ ra khắp nơi. Đoàn viên, thanh niên trong lực lượng vũ
trang đóng ở Hà Nội cùng hàng vạn tuổi trẻ Thủ đô đã anh dũng đi đầu trong cuộc chiến
đấu sống mái với quân thù, nêu tấm gương sáng ngời về tinh thần xả thân vì độc lập, tự do.
Tại Bắc Bộ phủ, một đại đội Vệ quốc quân và 20 thanh niên tự vệ nêu quyết tâm
“Chúng tôi còn, Bắc Bộ phủ còn”. Các chiến sĩ đã anh dũng đẩy lùi nhiều đợt tấn công của
300 lính Pháp có 18 xe tăng yểm trợ, tiêu diệt 150 tên, đốt cháy 4 xe tăng. Chiều ngày 20 -
12, nhiệm vụ bảo vệ của đại đội đã hoàn thành. Theo lệnh của cấp trên, chính trị viên Lê
Gia Định cho bộ đội rút quân để bảo toàn lực lượng chuẩn bị chiến đấu lâu dài. Một mình
anh ở lại chốt giữ vị trí. Quân địch mở các đợt tấn công mới. Lê Gia Định đã đập kíp bom
vào một xe tăng địch tiêu diệt hàng chục lính Pháp và anh đã anh dũng hy sinh. Tổ quốc
ghi công truy tặng anh, người cộng sản trẻ tuổi danh hiệu cao quý: “Cảm tử quân số 1 của
Thủ đô”.
Ở Nhà hát Lớn thành phố, các chiến sĩ của một Trung đội Vệ quốc quân đã chiến
đấu đến viên đạn cuối cùng, hầu hết bị thương, khi sa vào tay giặc vẫn giữ vững khí tiết
cách mạng.
Ở Sở Bưu điện, 20 chiến sĩ tự vệ đã chiến đấu đến người cuối cùng bên Hồ Gươm để cản
giặc tràn vào trung tâm thành phố. ở Chợ Hôm, trung đội trưởng Trần Thành dũng cảm ôm
bom ba càng lao vào xe tăng giặc chặn đường tiến công của chúng.
Cùng với thanh niên trong các lực lượng vũ trang, hàng vạn phụ nữ, học sinh, sinh
viên, thiếu niên Hà Nội đã tham gia chiến đấu anh dũng. Tiểu đội cứu thương ở Giảng Võ
gồm những cô gái trẻ làng hoa Ngọc Hà đã lần lượt hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Học
sinh Vũ Chí Thành là đội viên Đội cảm tử quân Hà Nội cùng nhiều bạn đã anh dũng hy
sinh trong đêm đầu kháng chiến.
Tháng 1 năm 1947, các đơn vị tự vệ chiến đấu và Vệ quốc quân trong Liên khu 1
được thống nhất tổ chức thành Trung đoàn liên khu I, sau đó được vinh dự mang tên Trung
đoàn Thủ đô. Các lực lượng vũ trang chiến đấu ở các cửa ô được hợp nhất thành Trung

đoàn 48 và Trung đoàn 52. Mỗi trung đoàn có trên dưới 2000 cán bộ, chiến sĩ vốn là thanh
niên công nhân, dân nghèo thành thị, nông dân ngoại thành, học sinh, sinh viên và một số
thiếu niên... Nhiệm vụ của các trung đoàn là chiến đấu tiêu hao sinh lực và giam chân địch
trong lòng Hà Nội.
Ngày 6-1-1947, hàng nghìn quân Pháp với máy bay, xe tăng, đại bác yểm trợ, ồ ạt tấn công
vào khu Giảng Võ - Ô Chợ Dừa. Các chiến sĩ đại đội 2 thuộc tiểu doàn 56, chiến khu II Hà
Nội chiến đấu anh dũng, ngoan cường mặc dù lực lượng không cân sức. Tấm gương hy
sinh của Tiểu đội trưởng Nguyễn Phúc Lai ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng địch, chặn
đường tiến quân của giặc, nêu tấm gương sáng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Trong những ngày đêm ác liệt, bộn bề công việc lãnh đạo cuộc kháng chiến nhưng
khi được tin Vũ Chí Thành hy sinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh liền viết thư chia buồn với bác
sĩ Vũ Đình Tụng, cha của liệt sĩ với những lời cảm động và đầy kích lệ: “Ngài biết rằng tôi
không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh
niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.
Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế
là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất
họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam...”
Xuân Đinh Hợi (1947) đến vào lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết liệt giữa lòng
Hà Nội, các cán bộ chiến sĩ Thủ đô vô cùng xúc động khi nhận thư thăm hỏi, động viên
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thư, Người viết: “Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử
để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta
mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền
lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi
giống Việt Nam muôn đời về sau”.
Ngày 7-2-1947, thực dân Pháp từ bốn hướng mở cuộc tổng tấn công vào trung tâm
Thủ đô. Những cánh quân xâm lược hàng trăm tên có máy bay ném bom, xe tăng dọn
đường, điên cuồng tiến vào các đường phố như Cầu Gỗ, Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng
Lược, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân,v.v... Ba mươi sáu phố phường Hà Nội rền vang
tiếng súng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra hết sức ác liệt. Nhiều tấm gương chiến

đấu dũng cảm phi thường của cảm tử quân Thủ đô đã làm quân thù phải kinh hoàng. ở
sườn phía Đông và mặt trận phía Tây liên khu I ta phản kích thắng lợi, kiên quyết không
cho địch thực hiện âm mưu cắt đôi liên khu. Chiến sĩ Trần Đan được đồng đội tặng danh
hiệu “Vua lựu đạn”. Tay phải anh bị thương, tay trái còn lại vẫn phát huy uy lực của lựu
đạn để tiêu diệt nhiều địch. ở phố Hàng Nón, chiến sĩ Minh hai mắt bị mờ vì khói súng
địch vẫn không rời trận địa, dùng tai nghe tiếng động để đoán hướng giặc tới mà nổ súng
tiêu diệt. ở chợ Đồng Xuân, anh công nhân Tưởng sau khi bắn viên đạn cuối cùng đã dùng
dao thái thịt quần nhau với lính lê dương làm 10 tên bỏ mạng. Nhiều em thiếu nhi làm liên
lạc, trinh sát cho các đơn vị bộ đội đã lập chiến công xuất sắc như em Lai, em Dương Văn
Nội. Ngày 12-4-1947, Dương Văn Nội tham gia trận chống càn ở Làng Xấu Giá (Đan
Phượng, Hà Tây). Dương Văn Nội giết được 3 tên Pháp và hy sinh anh dũng. Em là liệt sĩ
thiếu niên đầu tiên được Chính phủ truy tặng Huân chương chiến công hạng Hai.
Tinh thần chiến đấu ngoan cường, anh dũng của đội du kích Hồng Hà đã cản được
giặc Pháp, bảo đảm an toàn cho quân dân Liên khu I trở về hậu phương. Đội du kích Hồng
Hà có 15 chiến sĩ trẻ do đảng viên Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy. Suốt 60 ngày đêm khói lửa,
tiểu đội luôn giữ vững con đường huyết mạch nối liền liên khu I với vùng tự do. Sáng 18-
2-1947, nhận nhiệm vụ bảo vệ Trung đoàn Thủ đô rút quân, Đội du kích Hồng Hà đã chiến
đấu ngoan cường, đánh lạc hướng địch, tiêu diệt 17 tên. Lúc hết đạn, chỉ còn một quả lựu
đạn duy nhất, Nguyễn Ngọc Nại chờ cho địch đến gần rồi cho nổ để khi anh hy sinh còn
diệt thêm mấy tên địch nữa. Anh đã hy sinh vô cùng anh dũng.
Sau gần hai tháng đánh giặc hết sức oanh liệt, quân dân và thanh niên Thủ đô đã tiêu
diệt hơn 2000 tên địch với 200 trận chiến đấu, phá huỷ trên 100 xe quân sự trong đó 22 xe
tăng, xe bọc thép. Bắn rơi và phá huỷ 5 máy bay, bắn chìm 5 ca nô. Quân và dân Hà Nội đã
đánh bại hoàn toàn âm mưu và kế hoạch của thực dân Pháp định “đánh úp” các cơ quan
đầu não của Nhà nước Cách mạng, bóp chết lực lượng vũ trang non trẻ của ta, kìm giữ
giam chân địch suốt 60 ngày đêm tại chiến trường Hà Nội, góp phần tạo điều kiện để cả
nước chuẩn bị và tổ chức cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.
Khắp các tỉnh, thành trong cả nước đều nhất tề đứng lên chiến đấu, bảo vệ quê
hương, đất nước. ở Nam Định, lực lượng thanh niên thành phố vinh dự nổ phát súng đầu
tiên vào trại lính Tarô, mở đầu cuộc kháng chiến của quân dân trong tỉnh, 800 lính Pháp bị

vây chặt trong thành phố 90 ngày đêm, 400 tên bị tiêu diệt. Tại Bắc Ninh, Bắc Giang, 2 đại
đội Pháp bỏ mạng trước sức tiến công của lực lượng du kích, tự vệ. Tại Hải Dương, Hòn
Gai, một số đơn vị lẻ của quân Pháp bị tiêu diệt. Tại Vinh, bọn Pháp phải đầu hàng. Tại
Huế, cuộc chiến đấu quyết liệt kéo dài hơn một tháng, ta tiêu diệt 400 tên Pháp. Tại Đà
Nẵng, 10.000 quân giặc bị vây hãm trong thành phố 3 tháng, 300 lính Pháp bị tiêu diệt.
Quân dân Đà Nẵng phá huỷ nhiều xe tăng, đốt phá các kho bom, xăng... Các chiến sĩ Ngô
Văn Minh, Trần Đức, Ngô Hiệp... mưu trí, táo bạo đã tiêu diệt hàng chục giặc Pháp. Tuổi
trẻ Quảng Nam - Đà Nẵng đã góp phần xứng đáng vào phần thưởng cao quý mà đồng chí
Phạm Văn Đồng, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ trao tặng mặt trận Quảng Nam
- Đà Nẵng lá cờ vẻ vang anh dũng bảo vệ Tổ quốc.
ở Nam Bộ, trong 3 tháng đầu năm 1947, ta có nhiều trận đột kích vào Sài Gòn, Chợ
Lớn, Gia Định, sân bay Tân Sơn Nhất và trên đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Tại Sài
Gòn, du kích đột nhập sở mật thám Bình Tây, diệt tên ác ôn Lê Ngọc, bắn gãy chân tên
Sáu Đê. Anh Trần Công Thành dũng cảm xông vào tòa soạn báo Quốc Hồn trừng trị bọn
bồi bút bôi nhọ kháng chiến. Đặc biệt là chiến công của anh Võ Hồng Tám, đội viên du
kích Tây Hồ đã cắt cổ tên đại tá Pháp Inphailơ tại khách sạn Nationan ở đường Sắcne (nay
là đường Nguyễn Huệ). Nhiều cuộc hành quân, càn quét của địch ở đồng bằng sông Cửu
Long bị đánh bại. Chiến tranh du kích ở các vùng bị địch chiếm đóng được phối hợp với
những cuộc đình công, bãi khóa, bãi thị của công nhân, học sinh và nhân dân. Phong trào
thanh niên tòng quân sôi nổi khắp Nam Bộ. Tại Bạc Liêu có 500 du kích tập trung và 1000
du kích xã, ấp, một đội tự vệ chiến đấu. Hầu khắp các tỉnh Nam Bộ đều có chi đội bộ đội.
Toàn khu 7 có 16 chi đội, Sài Gòn có 10 ban công tác và nhiều đội cảm tử. ở khu 9, đến
cuối tháng 6-1946 mỗi tỉnh có từ hai trung đội đến một đại đội Vệ quốc đoàn. những trận
đánh bất ngờ cùng những hoạt động du kích của quân dân khu 4 đã buộc địch phải rút hết
đồn bốt đóng sâu trong vùng nông thôn.
Kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch đã bị thất bại. Đồng thời với việc chuẩn
bị mở những cuộc tấn công mới, thực dân Pháp chủ trương bình định những vùng đã chiếm
để thực hiện âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh”. Đối với thanh niên, thực dân Pháp dùng thủ đoạn vừa mua chuộc, lôi kéo,
vừa đàn áp, khủng bố. Chúng còn thành lập ra các tổ chức thanh niên phản động để lôi kéo,

ru ngủ, chia rẽ thanh niên hòng làm cho họ lãng quên dân tộc, đất nước...
Với đường lối thanh vận đúng đắn, Đảng luôn tin tưởng ở tinh thần yêu nước, ý chí
chống quân xâm lược của thanh niên. Tháng 4-1947, Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung
ương để bàn về công tác vận động thanh niên trong cuộc kháng chiến. Hội nghĩ chỉ rõ:
“Nhiệm vụ thiết thực của thanh niên trong thời kỳ này là tham gia bộ đội, dân quân để tác
chiến... giúp đỡ việc tản cư, bình dân học vụ và tiểu học, đoàn kết các hạng thanh niên,
động viên thanh niên ra cứu nước”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của thanh niên và vạch ra
những nhiệm vụ cụ thể để thanh niên góp phần thiết thực vào cuộc kháng chiến như trong
thư Người gửi thanh niên tháng 8-1947.
Sau hội nghị của Trung ương, ở các cấp bộ Đảng tại nhiều tỉnh, thành, xứ đã triệu
tập các cuộc hội nghị để xác định nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc của thanh niên và kiện
toàn, củng cố tổ chức Đoàn các cấp. Tại Việt Bắc, tháng 8-1947, hội nghị cán bộ Đoàn các
tỉnh Bắc Bộ được triệu tập. Tháng 11-1947, mở hội nghị cán bộ Đoàn các tỉnh liên khu 4
và ở khu V. Mùa thu 1948, phân xứ ủy khu V tổ chức Hội nghị thanh niên để quán triệt chỉ
thị của Trung ương Đảng về công tác vận động thanh niên phục vụ cuộc kháng chiến. Các
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đều có đại diện của Đoàn tham dự.
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, đồng chí Phạm Văn Đồng đã đến dự và huấn
thị tại hội nghị. Hội nghị đánh dấu mốc quan trọng thúc đẩy phong trào thanh niên ở khu V
phát triển. Sau hội nghị, Liên khu ủy đã cử đồng chí Bùi Tấn Linh phụ trách công tác thanh
vận và Bí thư Đoàn TNCS khu V.
Liên tục trong các năm 1947, 1948, 1949, các nghị quyết của các Hội nghị Trung
ương Đảng đều khẳng định tầm quan trọng của công tác vận động thanh niên và nhắc nhở
các cấp bộ Đảng phải tăng cường lãnh đạo Đoàn thanh niên, giúp Đoàn củng cố tổ chức để
tiến tới mở rộng và thống nhất phong trào thanh niên trong phạm vi cả nước. Chỉ thị tháng
9-1947 của Trung ương Đảng đã chỉ rõ nội dung: Công tác vận động thanh niên đều hướng
theo mục đích kháng chiến, kiến quốc. Động viên thanh niên phải tuân theo tính chất, năng
lực của từng giới như thanh niên lao động nằm trong công binh xưởng, tăng gia sản xuất để
kháng chiến, thanh niên trí thức học tập và sáng tạo để kháng chiến kiến quốc, thanh niên
nông thôn tham gia du kích, dân quân, xung phong giết giặc cứu nước Trung ương đã kịp

thời chỉ rõ cần khắc phục ngay khuyết điểm phát triển đoàn viên một cách ồ ạt theo kiểu
“đánh trống ghi tên” ở một số nơi.
Ngày 28-9-1948, Ban Thường vụ Trung ương có Chỉ thị gửi các cấp bộ Đảng "Về
việc củng cố Thanh niên Cứu quốc, phát triển Đoàn thanh niên Việt Nam để thống nhất
Mặt trận thanh niên".
Chỉ thị nêu rõ: “Chủ trương của Trung ương là thống nhất mọi lực lượng Thanh
niên vào một Mặt trận, Mặt trận ấy là Đoàn Thanh niên Việt Nam... Trong Đoàn Thanh
niên Việt Nam, Thanh niên Cứu quốc phải là trụ cột và có một hệ thống chắc chắn từ trên
xuống dưới. Đảng sẽ nắm chắc lấy trụ cột ấy để dễ điều khiển các tổ chức khác và các tầng
lớp thanh niên rộng rãi trong nước...”
Chỉ thị của Trung ương đã nêu nhiệm vụ cho các cấp bộ Đảng là phải củng cố thanh
niên cứu quốc và phát triển Đoàn thanh niên Việt Nam. “Đoàn TNCQ là đoàn thể tập hợp
các thanh niên yêu nước, tích cực, cấp tiến, có tinh thần dân chủ rõ rệt. Thanh niên Cứu
quốc không những chỉ gồm có thanh niên nông dân mà phải bao gồm cả thanh niên trí
thức, tiểu tư sản. Củng cố TNCQ còn phải đặc biệt chú trọng củng cố các Ban Chấp
hành...”
Đoàn thanh niên Việt Nam cần phải đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh
niên, kể cả thanh niên con em gia đình phú nông, địa chủ, tư sản có tinh thần yêu nước,
ủng hộ kháng chiến, phát triển Đoàn Thanh niên Việt Nam trong các vùng công giáo. Ngay
trong các vùng bị chiếm đóng, Đoàn Thanh niên Việt Nam lợi dụng những khả năng hợp
pháp để xây dựng tổ chức qua các hội bóng, hội nhạc, nhóm học tập của thanh niên.
Về công tác tuyên truyền huấn luyện thanh niên, bản chỉ thị nêu rõ: Đoàn Thanh niên
Việt Nam và Thanh niên Cứu quốc phải ra ngay những tờ báo của mình để tuyên truyền,
giáo dục, động viên đông đảo thanh niên hăng hái tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Bản chỉ thị trên của Ban Thường vụ Trung ương đã đặt cơ sở quan trọng về tổ chức
và tư tưởng của công tác vận động thanh niên, phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc
kháng chiến.
Đặc biệt, Hội nghị Thanh vận của Đảng được triệu tập vào tháng 6-1949, tại căn cứ địa
Việt Bắc, đánh dấu bước chuyển biến rất quan trọng về công tác vận động thanh niên của
Đảng trước những đòi hỏi mới của công cuộc kháng chiến. Hội nghị do đồng chí Hoàng

Quốc Việt, Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì. Sau Hội nghị này, bộ máy
công tác vận động thanh niên của Đảng và Đoàn Thanh niên Cứu quốc được kiện toàn.
Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cứu quốc Trung ương được thành lập. Đồng chí Hoàng
Phương, phụ trách Thanh niên Cứu quốc Trung ương được điều động trở lại quân đội.
Đồng chí Nguyễn Lam được điều sang làm Trưởng tiểu Ban thanh vận Trung ương đồng
thời là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCQ Việt Nam.
Triển khai các nghị quyết thanh vận của Đảng, cấp bộ Đoàn các tỉnh, thành đã tổ
chức, động viên thanh niên hăng hái chiến đấu lập công trên khắp các chiến trường.
Ngay khi địch vừa nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn, học viên trường sĩ quan phối hợp
với dân quân địa phương tiêu diệt trên 80 tên. Tại Cao Bằng, một máy bay Pháp bị bắn rơi,
tên quan năm Lampe, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp ở Đông Dương bị tan xác.
ở Lạng Sơn, 300 tên Pháp bị tiêu diệt tại đèo Bông Lau. Trên dòng sông Lô lịch sử, trận
đánh địa lôi táo bạo của 10 chiến sĩ thanh niên tự vệ thị xã Tuyên Quang cùng pháo binh ta
đã tiêu diệt trên một đại đội lính Pháp, góp phần bẻ gãy cuộc hành quân của giặc từ Tuyên
Quang lên Chiêm Hóa. Tấm gương chiến đấu của chiến sĩ du kích Lý Việt Va với 17 viên
đạn tiêu diệt được 17 tên địch đã mở đường cho đồng đội rút lui. Anh hy sinh ngay trên
mảnh đất quê hương và được Chính phủ truy tặng Huân chương kháng chiến.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×