Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Lịch sử Đo chương 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.26 KB, 13 trang )

CHƯƠNG III
ĐOÀN KẾT ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP, PHÁT XÍT NHẬT, GIÀNH
LẠI QUYỀN ĐỘC LẬP, TỰ DO CHO DÂN TỘC
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9 năm 1939,
Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã ảnh hưởng sâu sắc
đến tình hình mọi mặt ở Đông Dương và Việt Nam.
Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp ở Đông Dương ban bố lệnh Tổng động
viên ra sức cướp của, tăng giờ làm việc, giảm tiền lương của công nhân và bắt thanh niên
đi lính. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng. Các quyền tự do, dân
chủ mà thanh niên và nhân dân ta giành được trong trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ đều bị
xóa bỏ. Các tổ chức của công nhân và thanh niên đều bị chúng giải tán. Chúng ra sức bắt
bớ, truy lùng những chiến sĩ cộng sản.
Ngày 29 tháng 9 năm 1939, Trung ương Đảng ta ra “thơng cáo cho các đồng chí các
cấp bộ” giải thích tình hình thế giới và tình hình trong nước, đồng thời đề ra một số chủ
trương ứng phó trước mắt.
Tháng 11 - 1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Mơn,
Gia Định) có Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần,v.v... than dự. Nghị
quyết hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông
Dương “Bước đường sinh tồn của dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác hơn
là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da
vàng” Hội nghị chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đến Đơng Dương nhằm
đồn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ
đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên phản đế tiếp nối sự nghiệp vẻ vang
dân chủ trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy và các
trường học. Trong tình hình mới, tổ chức Đồn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt chẽ.
Những đoàn viên thanh niên dân chủ chuyển thành đoàn viên thanh niên phản đế, các hội
viên thanh niên trong các tổ chức thanh niên phổ thông được giao những cơng tác thích
hợp để thử thách, bồi dưỡng. Người nào có tinh thần hăng hái đấu tranh, tích cực hoạt
động được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Phản đế. Để nhanh chóng hình thành đội qn
xung kích và đội hậu bị của Đảng, các đồng chí lãnh đạo Đảng ta đã trực tiếp giúp đỡ


Đoàn xây dựng tổ chức. Nhiều cơ sở Đoàn đã được phát triển ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Bắc
Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn Tây, Quảng Trị và nhiều tỉnh ở Nam Bộ. ở các thành
phố, Đồn chú trọng cơng tác vận động thanh niên cơng nhân và học sinh.
Để mở rộng các hình thức tập họp thanh niên sau khi phong trào dân chủ bị địch đàn
áp, tại Sài Gòn, những Câu lạc bộ học sinh được hình thành, đầu tiên là ở trường Trung
học Trương Vĩnh Ký do anh Huỳnh Văn Tiểng đứng đầu. Tiếp đến là sự ra đời của tổ chức
tham quan và du lịch do các anh Trịnh Kim Anh, Nguyễn Văn ảnh, Võ Thế Quang... phụ
trách. Hoạt động tham quan, du lịch thu hút nhiều bạn trẻ tham gia. Qua hoạt động này anh
chị em được tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và nhiều người đã đứng vào các tổ chức bí
mật do Đảng ta lãnh đạo hăng hái đấu tranh chống địch. ở Hà Nội, mặc dù bị địch ra sức
khủng bố, cơ sở Đoàn Thanh niên Phản đế vẫn phát triển khá nhanh, Đoàn xuất bản tờ báo
“Tiền phong” không những chỉ lưu hành ở Hà Nội mà còn lưu hành trong nhiều tỉnh ở
đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt động của thanh niên phản đế Hà Nội khá phong phú. Nhiều đoàn
viên và thanh niên đã tham gia rải truyền đơn kêu gọi chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ


Liên Xô, chống đàn áp khủng bố nhân dân...
Anh Nguyễn Lam là một trong những cán bộ thanh niên phản đế hoạt động rất tích
cực. Bị địch bắt giam tại Hỏa Lị, anh cùng hai đồng chí đồn viên khác đã bí mật, kiên trì
đào được một đường hầm từ nơi bị giam nối liền với cống thoát nước. Trong một đêm mưa
bão, anh đã cùng các đồng chí vượt ngục thành công trở về hoạt động trong đội ngũ của
Đồn.
Tháng 6-1940, nước Pháp bị qn đội phát xít Hítle chiếm đóng. Nhân cơ hội này,
tháng 9 - 1940, phát xít Nhật xâm lược Đơng Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu
hàng quân Nhật. Từ đây nhân dân Việt Nam bị hai kẻ thù cùng thống trị là phát xít Nhật và
thực dân Pháp. Nhưng nhân dân Việt Nam bất khuất và nổi đậy chống cả Nhật lẫn Pháp.
Tháng 9 - 1940, nhân dân châu Bắc Sơn vùng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy
Nam Kỳ, nhân dân ở nhiều tỉnh Nam Bộ cũng đã vùng lên đấu tranh quyết liệt chống quân
thù. Tháng 1 - 1941, nổ ra cuộc nổi dậy của anh em binh lính ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô
Lương (Nghệ An). Các cuộc khởi nghĩa này là bước đầu đấu tranh vũ trang của cả dân tộc

Việt Nam, báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang để giành
chính quyền trong tồn quốc.
Theo chủ trương của Đảng, lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn được chuyển vào
rừng hoạt động du kích. Mùa xuân năm 1941, tại khu rừng Khuôi Nọi (xã Vũ Lê, Châu
Bắc Sơn) đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Đội gồm hơn 30 chiến sĩ mà hầu hết là đảng
viên trẻ và đoàn viên, tất cả đều đã tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn và chiến đấu chống sự
đàn áp khủng bố của quân thù ngay từ đầu. Trong buổi lễ thành lập, trước đông đảo đồng
bào địa phương đến tham dự, đồng chí Hồng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng giao
nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho đơn vị.
Ít lâu sau đội du kích đổi tên là Cứu quốc quân do Phùng Chí Kiên, ủy viên Trung
ương Đảng làm Chỉ huy trưởng Cứu quốc quân, tuy lực lượng còn nhỏ bé, súng đạn và
lương thực thiếu thốn nhưng ln giữ vững chí khí chiến đấu ngoan cường. Có thời gian
đơn vị anh dũng đương đầu với hàng nghìn quân địch trong một chiến dịch càn quét dài
ngày, nhưng đơn vị đã đánh tiêu hao nhiều giặc và bảo toàn được lực lượng. Một trong
những tấm gương kiên cường của Cứu quốc quân Bắc Sơn là đoàn viên Hà Văn Mạnh.
Anh vào Đoàn từ trước Bắc Sơn khởi nghĩa giữ trách nhiệm tiểu đội trưởng của đơn vị.
Trong một trận tấn công của giặc vào Tràng Xá, Hà Văn Mạnh tình nguyện ở lại chặn địch
để trung đội rút đi nơi khác. Anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng.
Trong cuốn “Nhật ký Cứu quốc” đã có hai câu thơ ca ngợi anh:
"Hoa liềm búa nở trên mộ Anh yên nghỉ
Anh không chết và chúng tơi cịn chiến đấu"...
Du kích Bắc Sơn, đơn vị vũ trang do Đảng tổ chức và lãnh đạo đã nêu cao tinh thần
chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, Cứu quốc quân Bắc Sơn xứng đáng là một trong
những tổ chức tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam anh hùng sau này.
Ngày 23 tháng 11 năm 1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ mặc dù đã có lệnh
hỗn của Trung ương Đảng nhưng không truyền đạt kịp. ở hầu khắp các tỉnh miền Nam
nhất là ở Mỹ Tho, quần chúng nổi dậy chiến đấu dũng cảm. Chính quyền của địch ở một
số xã và quận hoang mang, tan rã. Đội viên các đội tự vệ và du kích trong cuộc khởi nghĩa
hầu hết là trẻ tuổi. Họ hăng hái chiến đấu chống địch bằng vũ khí thơ sơ. Trong trận đánh
qn tiếp viện của quân địch từ Tây Ninh đến ứng cứu cho qn lỵ Hóc Mơn bị qn khởi

nghĩa vây hãm, du kích đã bắn chết tên thực dân ác ơn cùng nhiều lính địch ở Cầu Bơng. ở
Mỹ Tho, các đội tự vệ cùng nhân dân phá tan bộ máy chính quyền của địch ở 54 trong tổng


số 57 xã thuộc hai huyện Châu Thành và Cai Lậy. ở những xã này các tổ chức Đảng và
quân khởi nghĩa đã tịch thu các kho thóc của bọn địa chủ chia cho dân nghèo. Cũng tại Mỹ
Tho, lần đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng sau này trở thành lá cờ của Mặt trận Việt
Minh, quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sau đại thắng mùa xuân 1975.
Trong ngày thành lập chính quyền đầu tiên của tỉnh, hai đội tự vệ gồm toàn đoàn viên
và thanh niên đã giơ tay xin thề dưới lá cờ đỏ sao vàng quyết chiến đấu bảo vệ chính quyền
cách mạng.
Tại Vĩnh Long, một đội du kích gồm 50 chiến sĩ rất trẻ dưới sự chỉ huy của đồng chí
Hồng, một đảng viên 24 tuổi, bí thư quận ủy Vũng Liêm đã đánh chiếm và làm chủ quận lỵ
một số ngày.
Ở đảo Hòn Khoai dưới sự chỉ huy của chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi Phan Ngọc Hiển,
quân khởi nghĩa hầu hết là đoàn viên, thanh niên đồng loạt tiến cơng tiêu diệt tên thực dân
chủ đảo thu tồn bộ điện đài, vũ khí và kéo cờ đỏ sao vàng, cờ đỏ búa liềm cùng tấm băng
lớn mang dòng chữ: “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế muôn năm”, quân khởi nghĩa
dùng thuyền đã được chuẩn bị trước thẳng tiến về đất liền.
Tuổi trẻ và nhân dân Rạch Gốc tập hợp đơng đảo trên bến hân hoan đón mừng quân
khởi nghĩa chiến thắng cập bến lúc mặt trời vừa ửng đỏ.
Tuy nhiên lúc này cuộc khởi nghĩa trên đất liền bị địch dập tắt. Quân khởi nghĩa Hòn
Khoai phải đơn độc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù đông gấp nhiều lần. Sau mười ngày
cầm cự vô cùng anh dũng, quân khởi nghĩa Hòn Khoai chẳng may lọt vào trận địa phục
kích của địch.
Thực dân Pháp đã đàn áp cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ hết sức dã man. Gần 6.000 người bị bắt
và bị giết, nhiều làng bị ném bom và đốt phá. Người nữ chỉ huy trẻ tuổi Nguyễn Thị Bảy
đã làm cho quân thù khiếp sợ và khâm phục. Chúng gọi chị là “Hoàng hậu đỏ”. Nhục hình,
tra tấn dã man khơng khuất phục được chị. Chị nói thẳng vào mặt kẻ thù: “Chúng bay chỉ

có thể lấy máu của người cộng sản chứ không thể lấy được một lời cung khai phản bội”.
Tháng 12 năm 1941, kẻ thù đã đưa các chiến sĩ trẻ tuổi tham gia khởi nghĩa ở Hịn
Khoai gồm có Phan Ngọc Hiển, Đỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Văn Cự, Đỗ Văn
Biên, Ngơ Văn Cẩn, Ngơ Kim Ln, Nguyễn Văn Đình... cùng hai đồng chí lãnh đạo của
Đảng bộ Cà Mau là Quách Văn Phàn, Lê Văn Khuyên ra hành quyết tại sân vận động thị
xã.
Trước lúc hy sinh, các đồng chí ta đã đồng loạt hơ to:
- Đả đảo đế quốc Pháp.
- Việt Nam độc lập muôn năm.
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm.
Khởi nghĩa Nam Kỳ là một trong những trang chói lọi chủ nghĩa anh hùng cách mạng
của tuổi trẻ và nhân dân Việt Nam, là tiếng kèn xung trận vang vọng núi sông từ Nam ra
Bắc dưới ngọn cờ của Đảng.
*
*
*
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc
Ninh), có đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hồng Văn Thụ... tham dự. Hội nghị
đã phân tích tình hình chiến tranh thế giới lần thứ 2 và tác động của chiến tranh đối với
Đông Dương. Hội nghị đã đi đến dự đoán rất sáng suốt: “Một cao trào cách mạng nhất
định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các


dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành quyền tự do, độc lập”.
Hội nghị chủ trương đi đôi với việc mở rộng Mặt trận Phản đế, phải lựa chọn những
người hăng hái nhất trong các đoàn thể của Mặt trận tổ chức của đội tự vệ và trực tiếp võ
trang cho dân chúng. Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI, tổ
chức Đoàn đưa nhiều cán bộ, đoàn viên và những thanh niên tích cực tham gia vào các đội
tự vệ, làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh chống Nhật - Pháp.
Bước sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nước diễn biến ngày một khẩn

trương và phức tạp.
Từ khi quân đội Nhật vào Đông Dương, mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng sâu
sắc, tuy phải tạm thời thỏa hiệp với nhau nhưng cả hai đều tìm cách triển khai thế lực đợi
thời cơ tiêu diệt nhau. Nhân dân Đơng Dương chịu cảnh “một cổ hai trịng”, dưới ách
thống trị tàn bạo của Nhật - Pháp nên ngày một bần cùng, đói khổ... do vậy ngày càng
nhanh chóng giác ngộ cách mạng.
*
*
*
Ngày 28-1-1941, Nguyễn ái Quốc, lãnh tụ của Đảng và dân tộc đã bí mật về nước ở
vùng Pác Bó để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Đây là một sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng
nước ta. Nguyễn ái Quốc đã bắt tay vào việc xây dựng căn cứ địa, tổ chức đoàn thể Cứu
quốc và chuẩn bị Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó (Cao Bằng)
do đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại diện của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì. Tham gia
Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hồng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hồng Quốc
Việt...
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước và thế giới, Hội nghị xác
định, cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, các lực lượng cách mạng
của dân tộc cần tập trung mũi nhọn vào bọn phát xít xâm lược Pháp - Nhật, bởi vì: “Trong
lúc này, nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự
do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp trâu
ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”.
Để tập hợp và động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp Nhật, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh)
và các Hội Cứu quốc, trong đó có Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam. Hội nghị đã xác
định: “Việt Nam Thanh niên Cứu quốc đoàn từ nay là đoàn thể của tất thẩy thanh niên từ
18 tuổi đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp đuổi Nhật”.
Như vậy, Đoàn Thanh niên Cứu quốc là một tổ chức của những thanh niên yêu
nước có nhiệm vụ tham gia vào cuộc đấu tranh của dân tộc đánh Pháp đuổi Nhật. Đoàn

TNCS tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
sáng lập, lãnh đạo trước đó.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn
chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị nêu rõ vai trị,
trách nhiệm của Đồn Thanh niên Cứu quốc trong cao trào đấu tranh giành giải phóng dân
tộc.
Từ khi ra đời tìm đường cứu nước cho đến lúc trở về Tổ quốc, Nguyễn ái Quốc luôn
quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng những lớp thanh niên cách mạng. Cuối năm 1940,
sau khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, địch ra sức khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng


nên một số người yêu nước, trong đó có hơn 40 thanh niên ở các tỉnh biên giới Việt Trung phải tạm lánh sang Trung Quốc. Số thanh niên này đều là những người hoạt động
tích cực ở các cơ sở cách mạng trong nước, nhiều người là đoàn viên thanh niên phản đế,
do vậy, các cơ sở Đảng của ta ở đây đã tìm mọi cách gửi họ sang Tĩnh Tây (Trung Quốc)
để tránh giặc khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Trong thời gian này, Nguyễn ái Quốc
đang hoạt động ở gần biên giới Việt - Trung và chuẩn bị về nước. Được tin có thanh niên
Việt Nam sang, Người quyết định mở lớp huấn luyện để đào tạo bồi dưỡng cho số anh em
và giao cho đồng chí Phùng Chí Kiên tổ chức lớp học.
Lớp học đã cung cấp một số cán bộ hoạt động tích cực cho Đoàn, cho Đảng. Họ đã
trở thành những hạt nhân xây dựng phong trào, đặc biệt là xây dựng cơ sở Đoàn Thanh
niên Cứu quốc.
Dưới ánh sáng nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, công tác vận động
thanh niên đã có bước phát triển mới. Được các cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo, nhiều cơ
sở Đồn được khơi phục và xây dựng. Ban Chấp hành huyện Đoàn Thanh niên Cứu quốc
đầu tiên ở vùng núi được thành lập tại Hà Quảng do Đàm Minh Viễn làm Bí thư.
Cuối năm 1941, Ban Chấp hành Thành Đồn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội được
thành lập gồm 5 người trong đó có Nguyễn Lam, Nguyễn Khang... tạo ra sự chỉ đạo thống
nhất trong phong trào thanh niên. Thành Đoàn đã cho in lời kêu gọi của Nguyễn ái Quốc
và truyền đơn của Mặt trận Việt Minh phổ biến trong thành phố. Từ cuối năm 1942 trở đi
nhiều cơ sở Đồn được xây dựng ở nơng thơn, nhất là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng

Sơn... Đội Nhi đồng Cứu quốc ra đời ở Nà Mạ (Cao Bằng). Nhiều đội viên đã được già
Thu tức Bác Hồ chăm sóc, giáo dục và một số đội viên đã giúp việc giao liên cho già Thu.
Trong thời gian này anh Kim Đồng là người đội viên thiếu niên đầu tiên đã nêu cao tinh
thần hy sinh anh dũng khi làm nhiệm vụ.
Ở Nam Bộ, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đế quốc Pháp đàn áp đẫm máu phong trào
cách mạng, nhưng cơ sở của Đồn vẫn được duy trì. Khi có Nghị quyết Trung ương Đảng
lần thứ 8 nhiều cơ sở mới lại được xây dựng tại các nhà máy, trường học, nhất là ở các
vùng nông thôn. Tại một số địa phương hệ thống tổ chức của Đoàn Thanh niên Cứu quốc
đã thống nhất đến huyện, có nơi đến tỉnh.
Song song với công tác xây dựng và phát triển tổ chức, Đồn đã tập hợp đơng đảo
các tầng lớp thanh niên tham gia nhiều hình thức hoạt động văn hóa xã hội... động viên họ
tích cực thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Việt ninh, đóng góp xứng đáng vào cao trào
cứu nước.
Ở Hà Nội, từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1941, đoàn viên và thanh niên đã có những
hoạt động gây ảnh hưởng sâu rộng theo lời kêu gọi của Nguyễn ái Quốc. Thành Đoàn tổ
chức được một cơ sở in bí mật đặt tại phố Hàng Nón (Hà Nội). Theo thống kê của Sở mật
thám Pháp, chỉ trong tháng 12-1941 có 13 vụ rải truyền đơn và treo cờ đỏ sao vàng trong
thành phố.
Tại nhiều vùng nông thôn, các cuộc đấu tranh chống thu mua thóc tạ, chống phá lúa
trồng đay, trồng thầu dầu, địi chia lại công điền của nông dân diễn ra quyết liệt dưới hình
thức biểu tình có tính chất nửa vũ trang đánh trả lính Nhật quấy nhiễu, diệt trừ Việt gian...
ở Thái Bình, thanh niên và quần chúng nơng thơn Tiền Hải đấu tranh địi chia lại cơng
điền. ở Phúc Yên thanh niên và nông dân đấu tranh phản đối việc trưng mua lạc, thầu dầu...
ở làng Cam (Gia Lâm, Hà Nội), thanh niên cùng nông dân giữ bãi không cho Nhật phá ngô
trồng đay. ở Gia Định, Hậu Giang, các đoàn viên thanh niên cứu quốc đã tuyên truyền điều
lệ và chương trình của Mặt trận Việt Minh đến tận ấp, xã...


Phong trào của công nhân đã lôi cuốn và thu hút đông đảo thanh niên công nhân
tham gia. Tháng 2-1942 cơng nhân mỏ than Hịn Gai đình cơng. Ngày 1-5-1942 cơng nhân

xe lửa Gia Lâm mít tinh chống chủ nghĩa phát xít mở rộng chiến tranh. Tháng 7-1942 thợ
máy sân bay Gia Lâm vây bàn giấy võ quan Nhật, phản đối lính Nhật đánh đập cơng nhân.
Từ tháng 5-1942 đến tháng 6-1943, ở Nam Bộ có 24 cuộc đấu tranh của cơng nhân địi
tăng lương, giảm giờ làm, địi bán gạo vải, diêm, xà phòng theo giá quy định.
Qua cuộc đấu tranh này, tổ chức Đoàn ngày càng được củng cố và phát triển trong
thanh niên.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của thanh niên và nhân dân ta, bọn Pháp Nhật một mặt thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào; mặt khác, chúng đưa ra nhiều thủ
đoạn lừa bịp để tranh thủ và lôi kéo thanh niên.
Lúc này, phát xít Nhật tích cực rêu rao thuyết “Đại Đơng á”, “khối thịnh vượng
chung”... Chúng lập ra các tổ chức “Việt Nam thanh niên ái quốc”, “Thanh niên Hưng
quốc đoàn”... Bù nhìn Pétanh ở Pháp tung ra những khẩu hiệu “Cần lao - gia đình - Tổ
quốc”, “Pháp - Việt phục hưng”,v.v...
Bọn thống trị Pháp còn tổ chức rầm rộ phong trào thể thao “Khỏe để phụng sự”.
Chúng giao cho tên sĩ quan tình báo Đuycuaroay (Đucuaroay) tổ chức những cuộc đua xe
đạp, thi bơi lội, đấu quyền Anh, thi sắc đẹp để lôi cuốn thanh niên làm cho họ lạc hướng
đấu tranh cách mạng. Thực dân Pháp còn lập “Hội thanh niên công giáo”, “Tổng hội sinh
viên Đông Dương”, xuất bản các sách xem bói, xem tướng, sách kiếm hiệp, trinh thám,
khuyến khích đồi phong bại tục, mê tín dị đoan.
Nhằm chống lại những âm mưu, thủ đoạn của địch đầu độc thanh niên về tư tưởng,
phá hoại thanh niên về tổ chức, cuối tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ
thị cho các cấp ủy Đảng và Đoàn Thanh niên Cứu quốc “phải ra sức chống lại chính sách
mê hoặc và lơi kéo thanh niên của phát xít Nhật - Pháp và lãnh đạo thanh niên đấu tranh
địi quyền lợi kinh tế, chính trị hàng ngày. Mỗi thành phố lớn phải có một ban thanh vận và
cố gắng ra một tờ báo riêng của thanh niên. Việc soạn sách riêng cho thanh niên cũng rất
cần... Phải phái người vào các đoàn Hướng đạo, hội thể dục và hoạt động. Nơi nào chưa có
những tổ chức như thế thì phải lợi dụng những khả năng và hồn cảnh mà tổ chức ra, rồi
tuyển trong đó những phần tử thanh niên tốt đưa vào “Thanh niên Cứu quốc Đoàn”.
Mùa hè năm 1943, nhóm sinh viên Nam Bộ học tại Hà Nội trong tổ chức Tổng hội
sinh viên Đông Dương khởi xướng phong trào “xếp bút nghiên”. Các anh trở về Sài Gòn
gia nhập vào tổ chức “Truyền bá quốc ngữ” và làm báo “Thanh Niên”... Đảng bộ địa

phương đã bắt được liên lạc và trực tiếp chỉ đạo hoạt động của nhóm sinh viên này trong
đó có các anh Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm,v.v... Các
bài hát, vở kịch yêu nước như “Đêm Lam Sơn”, “Nợ Mê Linh”, “Hội nghị Diên Hồng”,
“Hành khúc sinh viên” (Sau này là Tiếng gọi thanh niên), “ải Chi Lăng”... đã cổ vũ thanh
niên trở về với chân giá trị dân tộc góp phần chống lại những luận điệu lừa bịp của toàn
quyền Đờ Cu (Decoux), thuyết “Đại Đông á” của Nhật...
Thực hiện chủ trương của Đảng, cuối năm 1943 đầu năm 1944 các thành phố lớn như
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Hải Phòng đã thành lập được ban thanh vận. Cơ sở Đoàn được phát
triển khá rộng ở Nam Định, Vinh, Đà Nẵng, Chợ Lớn... Tháng 8 năm 1944, Hà Nội thành
lập Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu. Trong những năm
1942-1943 thanh niên Hà Nội có phong trào tìm đọc sách báo cách mạng của Hội Văn hóa
cứu quốc. Đồn thanh niên Cứu quốc Hà Nội ra tờ báo “Hồn nước” để tuyên truyền, tập
hợp thanh niên.


Nhằm đấu tranh chống những tư tưởng tư sản phản động, văn hóa đồi trụy do kẻ thù gieo
rắc và kịp thời giải thích đường lối, chính sách của Đảng, của Mặt trận Việt minh, Đảng
cho xuất bản hàng loạt tờ báo như: Cờ Giải phóng, Cứu quốc, Bẻ xiềng sắt, Tiền phong,
Giải phóng,v.v... đặc biệt là sự ra đời của bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” do chính
đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo. Đây là một văn kiện rất quan trọng của
Đảng ta soi sáng nhiều vấn đề trên mặt trận văn hóa cách mạng theo tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Báo chí cách mạng và bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” được tuyên truyền phổ
biến rộng rãi trong thanh niên góp phần quan trọng thu hút nhiều thanh niên trí thức tham
gia cách mạng và có ảnh hưởng rất lớn trong tuổi trẻ cả nước. Song song với nhiệm vụ đấu
tranh chính trị và văn hóa Đồn có nhiệm vụ vơ cùng to lớn và cấp thiết là tham gia xây
dựng các đơn vị vũ trang và bán vũ trang được thành lập ở nhiều địa phương. Các cơ sở
Đoàn đã động viên nam nữ thanh niên ra sức luyện tập quân sự, tham gia các đội tự vệ,
chiến đấu dũng cảm chống địch đàn áp, khủng bố, càn quét, bảo vệ căn cứ địa và cơ sở
cách mạng.

Tháng 2 năm 1942-1943 các Đảng bộ vùng biên giới phía Bắc đã chọn nhiều cán bộ
đoàn viên ưu tú đưa đi huấn luyện quân sự ở Trung Quốc. Các đồng chí đã trở thành những
cán bộ, chiến sĩ cốt cán, tích cực trong các đội tự vệ và lực lượng vũ trang cách mạng.
Tháng 8 năm 1944, theo chủ trương của Đảng, Tổng bộ Việt minh kêu gọi và phát động
phong trào “Sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Đoàn thanh niên Cứu quốc và các tổ chức cứu
quốc trong Mặt trận Việt Nam đã nhiệt liệt hưởng ứng. Phong trào xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa được Đoàn coi là nhiệm vụ hàng đầu
của tất cả đoàn viên, thanh niên.
Để chuẩn bị xây dựng quân đội cách mạng của Đảng, Nguyễn ái Quốc đã chỉ thị
thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên
Giáp phụ trách. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tun truyền giải phóng qn chính thức
thành lập ở Cao Bằng. Trong số 34 chiến sĩ đầu tiên ấy, tuyệt đại bộ phận là đoàn viên và
đảng viên trẻ tuổi trong đó có các đồng chí mới ở tuổi 17, 18 như đồng chí Liên, đồng chí
Thế Hậu...
Sau ngày thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân xuất quân tiêu diệt đồn
Phay Khắt và đồn Nà Ngần, thu tồn bộ vũ khí.
Sau hai trận thắng nêu trên, đơn vị được bổ sung quân số thành lập đại đội. Đoàn đã
cung cấp cho lực lượng vũ trang nhân dân những cán bộ xuất sắc ngay từ những ngày đầu
như Quang Trung, Nam Long, Nam Tuấn, Quốc Trung, Xuân Trường... đặc biệt có những
nữ chiến sĩ và thiếu niên tham gia công tác giao liên cho đơn vị như bé Hồng đã lập công
xuất sắc trong nhiệm vụ trinh sát nắm tình hình quân địch.
Thời kỳ phát triển cuộc đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị của nhân dân ta
góp phần đẩy mạnh cuộc vận động giải phóng dân tộc trong cả nước đã đến.
*
*
*
Từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai
đoạn kết thúc. Hồng qn Liên Xơ đã qt sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và
tiến như vũ bão về phía Béclin. Số phận của phát xít Đức sắp bị kết liễu. ở Thái Bình
Dương, phát xít Nhật ngày càng lâm vào tình trạng nguy khốn.

Để nắm chắc Đông Dương hơn nữa và trừ mối nguy bị quân Pháp đánh sau lưng, tối
ngày 9-3-1945, Nhật đã làm đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đơng Dương. Chưa đầy


một ngày, thực dân Pháp đã nộp súng đầu hàng Nhật trên tồn cõi Đơng Dương.
Từ lâu, Đảng ta đã dự đốn về cuộc đảo chính Nhật hất Pháp sẽ nổ ra.
Từ ngày 9 đến ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở
rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì để đánh giá
tình hình cuộc đảo chính và nêu ra những chủ trương của Đảng trong thời kỳ mới. Hội
nghị nhất trí nêu khẩu hiệu: “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi
Nhật-Pháp” và phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, gấp rút tiến tới Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền... Nơi nào có điều kiện thì phát triển chiến tranh du kích, giành chính
quyền ở địa phương. Để nhanh chóng thúc đẩy cao trào cứu nước, Hội nghị chủ trương
chuyển sang những hình thức và phương pháp đấu tranh cao hơn và mạnh hơn như tuyên
truyền xung phong, biểu tình tuần hành thị uy, mít tinh cơng khai, thànhlập các ủy ban
nhân dân cách mạng, xây dựng mở rộng các chiến khu và các căn cứ địa cách mạng.
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta” nhằm cụ thể hóa những nhận định và nghị quyết của Hội
nghị Trung ương.
Từ cuối tháng 3 năm 1945 trở đi, cách mạng Việt Nam đã chuyển lên thành cao
trào và những cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương.
Trong lúc nhân dân ta gấp rút chuẩn bị Tổng khởi nghĩa thì ở Bắc Bộ và miền Bắc Trung
Bộ đã xảy ra nạn đói khủng khiếp. Hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Đó là hậu quả thảm
khốc nhất của chính sách bóc lột và gây chiến của bọn phát xít Nhật - Pháp. Khẩu hiệu
“Phá kho thóc giải quyết nạn đói” của Đảng đã đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách nhất
của quần chúng, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong nhân dân đẩy tới cao trào kháng Nhật,
cứu nước dâng lên trong cả nước.
Tuổi trẻ đã hăng hái đi đầu trong cao trào quần chúng phá các kho thóc, thuyền
thóc của Nhật và tích cực tham gia các đội tuyên truyền xung phong của Việt minh hoạt
động ở các chợ, rạp hát, bến đị, bến xe, xí nghiệp, trường học... Nhiều nơi các đội tự vệ

của Việt minh bắt trói, tước vũ khí lính Nhật, cảnh cáo, giải tán, trừng trị bọn Việt gian đầu
sỏ. Tại các thành phố, nhiều đội “danh dự Việt minh” hoạt động trừ gian và diệt võ quan
Nhật tàn ác ngay trước mũi súng quân Nhật.
Ở Hà Nội, nếu cuối năm 1944 chỉ mới có một tổ chức tự vệ ở trường bay Gia Lâm
gồm 3 đồng chí đồn viên thanh niên cứu quốc thì thời kỳ này tồn thành đã có trên 1.000
đoàn viên và những thanh niên được Đoàn giáo dục tham gia các đội tự vệ, đội tuyên
truyền xung phong và đội danh dự. Ngày 18-6 đội tự vệ cơng nhân đã bắn tên Phó trưởng
đồn “Thanh niên ái quốc” là tay sai đắc lực của phát xít Nhật ở ngã tư phố Ngơ Thì Nhậm
- Lê Văn Hưu. Ngày 19-6, một tên tay sai khác của Nhật bị đội danh dự xử bắn ở dốc Hàng
Kèn (nay là đường Bà Triệu), tên Phó thanh tra mật thám bị trừng trị ở Ngã Tư Sở... Đoàn
Thanh niên Cứu quốc thành Hồng Diệu tổ chức nhiều cuộc mít tinh, huy động hàng trăm
nam nữ thanh niên tham gia ở xã Mễ Trì, Chợ Canh, làng Láng,v.v... Các tổ tuyên truyền
xung phong của Đoàn đột nhập diễn thuyết tại các trường Gia Long, Kỹ Nghệ thực hành;
nhà máy rượu... ở Chèm và dọc đường Bưởi các đội tự vệ thanh niên thường chặn các xe
vận tải chở thóc, gạo của Nhật tịch thu và phân phát cho đồng bào nghèo.
Ở Huế, Đồn Thanh niên Cứu quốc giữ vai trị nịng cốt trong các đội tự vệ và
tuyên truyền xung phong - tổ chức Đồn đã bắt mối được với các nhóm bảo an, tổ chức
việc mua súng, lấy súng địch để trang bị cho lực lượng vũ trang của ta... nhiệm vụ trừng trị
bọn ác ôn và bọn Việt gian ngoan cố của các đội tự vệ được nhân dân nhiệt liệt hoan
nghênh và cổ vũ mạnh mẽ đã góp phần đẩy mạnh cao trào cách mạng trong cả tỉnh.


Ở Sài Gòn, các đội tự vệ, thanh niên xung phong cũng được hình thành nhanh
chóng và thu hút hàng trăm đoàn viên, thanh niên tham gia. Các đội tuyên truyền xung
phong đã tuyên truyền sâu rộng trong thanh niên và nhân dân chương trình và điều lệ của
Mặt trận Việt minh.
Sau cuộc đảo chính hất cẳng Pháp (9-3-1945) Iđa, quyền Tổng trưởng Thanh niên thể thao
Đông Dương ngỏ ý mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra lập một tổ chức để tập hợp
thanh niên và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được quyền quyết định về tổ chức, mục đích, nội
dung hoạt động. Tương kế tựu kế, Xứ ủy Nam Kỳ đồng ý giao cho Phạm Ngọc Thạch

cùng một số trí thức, sinh viên yêu nước đứng ra lập tổ chức thanh niên công khai, hợp
pháp để tập hợp quần chúng về phía cách mạng.
Ngày 1-6-1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong ra đời. Các đồng chí Phạm Ngọc
Thạch (Bác sĩ), Huỳnh Tấn Phát (Kiến trúc sư), Nguyễn Văn Thủ (Nha sĩ), Thái Văn Lung
(Luật sư)... cùng các sinh viên Lưu Hữu Phước, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng, Mai
Văn Bộ... trở thành các thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong. Xứ uỷ bố trí đảng viên cán bộ
cốt cán nắm giữ những vị trí then chốt trong Thanh niên Tiền phong (TNTP). TNTP đã đưa
ra nội dung và hình thức hoạt động phong phú nên đã cuốn hút được tuổi trẻ. Vì vậy chỉ
trong thời gian vài ba tháng, số lượng TNTP ở Sài Gòn đã lên đến 200.000 người và tồn
Nam Bộ có hơn 1 triệu người. Anh chị em TNTP đóng vai trị rất tích cực trong quá trình
vận động, tập hợp lực lượng thanh niên chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Đoàn Thanh
niên Cứu quốc đã tuyển chọn kết nạp được nhiều đoàn viên trong phong trào thanh niên
tiền phong. Thanh niên Tiền phong đã phát triển thành một phong trào quần chúng rộng
lớn, một hình thức mặt trận được tổ chức cơng khai do Đảng lãnh đạo, giữ vai trò quan
trọng trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 20-8-1945 khi Việt Minh ra cơng
khai hoạt động ở thành phố Sài Gịn thì TNTP tuyên bố đứng vào hàng ngũ của Mặt trận
Việt minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, TNTP chấm dứt vai trị của mình. Số
đơng gia nhập Thanh niên Cứu quốc, dân quân tự vệ...
Ở các tỉnh Nam Bộ ngồi Thanh niên Tiền phong cịn có các đội thanh niên chiến
đấu, thanh niên cảm tử... được thành lập đáp ứng yêu cầu tình hình cách mạng. ở Mỹ Tho
đã tổ chức được 3 trung đội du kích với 32 khẩu súng và mở lớp huấn luyện về chiến thuật
du kích cho cán bộ cơ sở trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật của nhân dân ta phát triển đến đỉnh điểm, toàn dân đã
sẵn sàng xơng lên khởi nghĩa thì ngày 8-8-1945 Liên Xơ tuyên chiến với Nhật, chỉ trong
thời gian ngắn Xô viết anh hùng đã tiêu diệt hoàn toàn đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất
của Nhật gồm 1 triệu tên. Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh
không điều kiện. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã đến.
Trước tình hình khẩn cấp đó, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị
toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính

quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh tiến vào Đông Dương để
giải pháp quân Nhật.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào vào ngày
16-8-1945 thơng qua mười chính sách lớn của Việt Minh, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa
và bầu ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Trung ương tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Đồng chí Vũ Oanh và đồng chí Vũ Quang làm đại biểu của thanh niên Hà
Nội tham dự Đại hội Tân Trào.
Mệnh lệnh khởi nghĩa đã được truyền đi từ Tân Trào. Đảng Cộng sản Đông Dương


và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước nổi dậy giành
chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” Ngay trong
đêm 13-8-1945, Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc đã gửi Quân lệnh số 1 lệnh cho đồng bào và
chiến sĩ cả nước nhanh chóng vùng dậy tranh quyền độc lập cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn hai mươi triệu đồng bào cả nước ta từ Bắc đến Nam
đã đồng loạt đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa long trời lở đất giải phóng tồn bộ
đất nước giành chính quyền về tay nhân dân.
Đoàn Thanh niên Cứu quốc lúc này đã có lực lượng hùng hậu gần 30.000 đồn viên
và thanh niên cảm tình của Đồn có mặt ở các trung tâm chính trị - kinh tế lớn của cả
nước. Đây là đội qn xung kích giữ vai trị nịng cốt trong cao trào khởi nghĩa của quần
chúng. ở tất cả các trọng điểm, hàng vạn thanh niên tự vệ, thanh niên xung phong dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã đánh chiếm các huyện lỵ, tỉnh lỵ, trại lính, cơng sở của địch... Từ 14
đến ngày 18-8 cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành được thắng lợi ở nhiều huyện trong khu giải
phóng và một số tỉnh đồng bằng ở miền Bắc, một số tỉnh ở miền Trung, và ở các thị xã Bắc
Giang, Hải Dương, Hà Tỉnh, thị xã Hội An (Quảng Nam)...
Ở Hà Nội, ngày 17-8-1945, mặc dầu Nhật đã đầu hàng nhưng bọn tay sai Nhật còn
dùng “Tổng hội viên chức” tổ chức cuộc mít tinh lớn ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim. Dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Thành uỷ Hà Nội, đoàn viên thanh niên trong
đội tuyên truyền xung phong và đội tự vệ đã chiếm diễn đàn cuộc mít tinh, kêu gọi nhân

dân ủng hộ Việt minh và tham gia Tổng khởi nghĩa. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu
tình tuần hành thị uy, làm cho bọn tay sai của Nhật trong chính phủ bù nhìn hoang mang,
dao động đến cực độ. Trước tình hình ấy, Xứ uỷ và Thành ủy lập tức quyết định khởi
nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19-8-1945.
Từ sáng sớm ngày 19-8 cả Hà Nội đã vùng lên. Sau cuộc mít tinh lớn, quần chúng
cách mạng sắp xếp thành đội ngũ dẫn đầu là các đơn vị tự vệ chiến đấu trẻ tuổi đã nhanh
chóng tỏa đi các hướng chiếm phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Sở cảnh sát và các cơng sở
khác của chính quyền bù nhìn.
Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội làm cho chính quyền bù nhìn thêm tê liệt,
cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các địa phương gấp rút nổi dậy. Ngày 23-8-1945 khởi nghĩa
thắng lợi ở Huế. Hàng chục vạn thanh niên và nhân dân Thừa Thiên - Huế đã vùng lên tiến
cơng phát xít Nhật, chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn và hoàn toàn
làm chủ thành phố.
Ngai vàng cuối cùng của chế độ phong kiến bị đánh đổ. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên
trên kỳ đài uy nghi. Ngày 30-8 tại lầu Ngọ Môn, trước hàng vạn đồng bào các giới, vua
Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao lại ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng từ Hà Nội
vào.
Ở Nam Bộ, lệnh khởi nghĩa đã được truyền đi. Ngay đêm 24-8-1945, ở Sài Gòn lực
lượng cách mạng chiếm dinh Khâm sai và nhiều cơ quan trọng yếu khác. Ba giờ sáng ngày
25-8-1945, cả Sài Gòn đã vang lên tiếng hát “Lên đàng”, “Thanh niên hành khúc”... và
tiếng hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Đả đảo phát xít Nhật, ủng hộ Việt minh” ...
Một cuộc mít tinh lịch sử diễn ra giữa Sài Gòn hân hoan chào đón kỳ bộ Việt minh, Uỷ ban
hành chính lâm thời ra mắt đồng bào và tuổi trẻ thành phố.
Như vậy là chỉ trong vòng hơn 10 ngày đêm, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng
lợi hoàn toàn từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Hai mươi lăm triệu đồng bào cả nước đứng lên


làm chủ vận mệnh Tổ quốc Việt Nam.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) trước cuộc mít tinh của một
biển người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tun ngơn độc

lập lịch sử tuyên bố trước nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới: Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời.
Trong cao trào giải phóng dân tộc mà đỉnh cao nhất là cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Thám năm 1945, dưới ngọn cờ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cứu
quốc đã động viên, tổ chức tuổi trẻ cả nước góp phần xứng đáng vào thành cơng to lớn của
cuộc Tổng khởi nghĩa. Đoàn thật sự là đội xung kích cách mạng, lực lượng tiên phong và
hạt nhân tập hợp hàng triệu nam nữ thanh niên Việt Nam đứng lên cùng tồn dân đấu tranh
kiên cường vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Sự lớn mạnh về mọi mặt của tổ chức Đoàn là
điều kiện hết sức quan trọng để Đoàn tiếp tục gánh vác nhiệm vụ vẻ vang cùng toàn dân
xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Chặng đường lịch sử từ 1925 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tuy chỉ có 20
năm song trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện trọng đại. Đó là giai đoạn chuẩn bị
thành lập Đảng, chuẩn bị xây dựng Đoàn; giai đoạn đấu tranh quyết liệt chống đế quốc,
phong kiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng và đường lối của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất quyết định thắng lợi hoàn toàn của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc, xây
dựng Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu á.
Ngay từ năm 1925, tại Trường Huấn luyện cán bộ thanh niên ở Quảng Châu, Nguyễn
ái Quốc đã khẳng định muốn cách mạng thắng lợi phải có Đảng cách mạng lãnh đạo, Đảng
ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng; Đảng ấy phải biết vận động, tập hợp,
huấn luyện quần chúng để tạo ra sức mạnh thực hiện đường lối cách mạng của Đảng.
Luận điểm đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc là thức tỉnh thanh niên để
đi tới thức tỉnh cả dân tộc hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta - một
nước thuộc địa và nửa phong kiến đã đưa lại những thành công to lớn trong hoạt động thực
tiễn.
Xuất phát từ sự nhìn nhận đúng đắn vai trò của tuổi trẻ trong lịch sử cũng như khả
năng cách mạng to lớn của họ trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người sáng lập, lãnh đạo Đảng ta và chính Người cũng là người sáng lập, rèn luyện
Đoàn ta “từ lúc đầu hiếm hoi chỉ có 8 cháu” như Người đã từng nói. Đây là vinh dự lớn
cho các thế hệ trẻ nước ta.

Ngay sau khi ra đời, Đảng ta liền bắt tay vào q trình xây dựng hệ thống tổ chức
Đồn.
Đồn là tổ chức thanh niên kiểu mới đầu tiên ở nước ta, là đội dự bị tin cậy và đội xung
kích cách mạng của Đảng. Đó là những vấn đề cốt lõi mà trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh” của Nguyễn ái Quốc và trong “án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động” của
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã khẳng định.
Công lao to lớn không gì so sánh được của Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đem lý
tưởng cách mạng đến cho lớp thanh niên đầy tâm huyết đang trăn trở tìm đường đi để giải
phóng dân tộc và giai cấp khỏi cảnh sống nô lệ, lầm than hồi đầu thế kỷ sau bao lần thất
bại của các tiền liệt yêu nước.
Đoàn ra đời là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trọng đại
trong thời kỳ cách mạng mới. Dù mang những tên gọi khác nhau, hoạt động trong những
điều kiện khác nhau, song tính chất của Đồn khơng bao giờ thay đổi, mối quan hệ giữa tổ


chức Đoàn và các phong trào thanh niên yêu nước cũng như với đơng đảo thanh niên ngày
thêm gắn bó chặt chẽ.
Trong những cuộc tổng diễn tập rộng lớn, quyết liệt như Cao trào Xô viết Nghệ
Tĩnh (1930-1931); cao trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh (1931-1939); cao
trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa (1940-1945) do Đảng lãnh đạo, lớp lớp đoàn viên, thanh
niên đã chiến đấu, hy sinh vô cùng quả cảm xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng và nhân
dân ta. Tổ chức Đoàn như Bác Hồ đã nói lúc đầu rất hiếm hoi, song từ trong thực tiễn đấu
tranh và được Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện nên đã phát triển không ngừng, lớn mạnh
về cả tư tưởng và tổ chức, hoàn thành thắng lợi vai trị là hạt nhân chính trị tập hợp, đoàn
kết các lực lượng thanh niên trong cả nước giành chính quyền về tay nhân dân vào mùa thu
Cách mạng năm 1945.
Tuy nhiên q trình phát triển của Đồn trong thời kỳ hoạt động từ 1931 đến 1945
cũng cho thấy:
Trong giai đoạn bọn đế quốc và phong kiến tiến hành chính sách khủng bố trắng (sau
Cao trào Xơ viết Nghệ Tĩnh) hàng nghìn cán bộ, đảng viên bị bắn giết tù đày... Khơng ít

Đảng bộ địa phương đã chủ trương kết nạp tất cả đoàn viên vào Đảng (số chưa bị địch phát
hiện) để tăng cường lực lượng cho Đảng song lại khơng có kế hoạch xây dựng tổ chức
Đồn, nghĩa là trên thực tế có những nơi ấy trong một thời gian (từ 1931 đến 1933) khơng
có tổ chức Đoàn. Hiện tượng này đã được Trung ương Đảng phê phán trong một số văn
bản quan trọng. Khuyết điểm này sau đó được khắc phục để đến các năm 1934 - 1935 tổ
chức Đồn mới được khơi phục lại trên phạm vi toàn quốc.
Vào giai đoạn hoạt động vừa bí mật vừa nửa cơng khai (1936 - 1939) do nhu cầu
khách quan phải khẩn trương mở rộng phạm vi ảnh hưởng, phải có đội ngũ cán bộ, đồn
viên đơng đảo để triển khai công tác trên nhiều lĩnh vực cho nên nhiều cấp bộ Đoàn phát
triển ồ ạt coi nhẹ chất lượng đồn viên. Khơng ít cơ sở đã kết nạp những người mới tham
gia một số hoạt động chứ chưa thật sự giác ngộ về lý tưởng của Đồn. Vì vậy đến khi cách
mạng gặp khó khăn, các tổ chức quần chúng của Đảng phải chuyển vào hoạt động bí mật
hồn tồn đặc biệt là đứng trước những thách thức mới, một số cán bộ, đồn viên khơng
đáp ứng được nhiệm vụ được giao, thậm chí nằm im hoặc xa rời tổ chức mà mình đã tự
nguyện gia nhập.
Đến trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, tổ chức Đoàn tuy đã được xây
dựng ở hầu khắp các trung tâm kinh tế, chính trị lớn trong cả nước, song Đoàn chưa bao
quát được việc tập hợp các lực lượng, các tổ chức thanh niên yêu nước vào một mặt trận
thanh niên thật rộng rãi đáng ra phải sớm được hình thành để phát huy hiệu quả.
Đây là những vấn đề cần được rút ra ở chặng đường đầu. Lịch sử đấu tranh cách
mạng vẻ vang của Đoàn và phong trào thanh niên nước ta dưới ngọn cờ của Đảng và Bác
Hồ kính yêu từ những ngày đầu mới thành lập cho đến khi cùng toàn dân hoàn thành cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là một chặng đường vô cùng oanh liệt, hào hùng với biết bao anh hùng, liệt sỹ,
chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi đã cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình cho sự
nghiệp cao cả của dân tộc và của Đảng. Những trang sử vàng ấy đời đời khắc ghi vào tâm
trí các thế hệ trẻ nước ta.
HẾT
CHƯƠNG III




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×