Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bàn về một số thay đổi trong chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của BLDS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.19 KB, 4 trang )

Bàn về một số thay đổi trong chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của BLDS 2015 so với BLDS 2005

So với BLDS 2005, BLDS 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2017) có nhiều
thay đổi, trong đó có phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Những thay đổi
của BLDS năm 2015 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ so với trước đây được cho là sẽ
ảnh hưởng và tác động đáng kể đến cơ chế điều chỉnh pháp luật và nhận thức pháp luật
trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm ở nước ta. Bài thông
tin khoa học này bàn về một số điểm đổi mới trong chế định bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự của BLDS 2015. Trong số rất nhiều những thay đổi liên quan đến chế định
về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bài viết chỉ đề cập đến vấn đề như sau:
Thứ nhất: BLDS năm 2015 đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp
đồng bảo đảm hơn so với cách quy định của BLDS 2005 nhằm tạo thuận lợi tối đa cho
các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể, Khoản 2 Điều 294
BLDS 2015 cho phép các bên chỉ cần tiến hành thoả thuận, giao kết một lần về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Khi nghĩa vụ trong tương lai được
hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó, bao
gồm cả việc ký kết lại hợp đồng bảo đảm, công chứng cũng như đăng ký biện pháp
bảo đảm.
Thứ hai: BLDS 2015 đã bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới trên cơ sở kế thừa
và phát triển nội dung các quy định của BLDS 2005 và bản chất “bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ” của các biện pháp.
Theo Điều 292 BLDS 2015 có 9 biện pháp bảo đảm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
lần lượt bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu
quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Với việc sắp xếp các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thứ tự từ Điều 308 đến 350, chúng ta có thể hình
dung các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nêu trên có thể được chia thành hai
loại, đó là:
Loại thứ 1: Các biện pháp bảo đảm được xác lập theo cơ chế thỏa thuận giữa
các bên gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền
sở hữu, bảo lãnh, tín chấp


Loại thứ 2: Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật gồm
cầm giữ tài sản.
Trong loại thứ 1 gồm các biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận có
thể hình dung 2 nhóm với tính chất bảo đảm hoàn toàn khác nhau, đó là:
- Nhóm biện pháp bảo đảm bằng tài sản (hay còn gọi là Nhóm biện pháp bảo
đảm đối vật) bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo
lưu quyền sở hữu
- Nhóm biện pháp bảo đảm không bằng tài sản (hay còn gọi là Nhóm biện pháp
bảo đảm đối nhân), bao gồm bảo lãnh, tín chấp.
Như vậy so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã bổ sung thêm hai biện pháp bảo
đảm mới, đó là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu”. Tuy nhiên, đây không


phải là các định chế mới mà thực tế chúng đã được ghi nhận và thể hiện ở BLDS 2005
nhưng không phải ở giác độ biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cụ thể là:
- Về cầm giữ tài sản: Theo quy định của BLDS 2005, cầm giữ tài sản được quy
định ở Điều 416 tại “Phần II. Thực hiện hợp đồng” với ý nghĩa là biện pháp mà luật
cho phép bên có quyền sử dụng nhằm gây “sức sép” đối với bên có nghĩa vụ trong hợp
đồng song vụ để bên này phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các
bên trong hợp đồng song vụ. Chính vì tính chất (bản chất) của biện pháp cầm giữ tài
sản là chiếm giữ tài sản để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, do vậy, BLDS 2015 đã
tiếp cận cầm giữ tài sản với tư cách là một biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy
định của luật.
- Về bảo lưu quyền sở hữu: Vấn đề bảo lưu quyền sở hữu đã được quy định tại
Điều 461 BLDS 2005 với tư cách là một thỏa thuận trong hợp đồng mua trả chậm, trả
dần. Trong BLDS 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được tiếp cận
với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cách tiếp cận mới này của BLDS
2015 phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền
sở hữu. Nó cho thấy sự tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế về biện pháp bảo đảm
của BLDS 2015.

Thứ 3: BLDS 2015 đã hoàn thiện cơ chế pháp lý làm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm.
Có thể thấy BLDS 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại Khoản 3 Điều 323
BLDS 2005 mới chỉ quy định: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy
định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể
từ thời điểm đăng ký”. Khắc phục hạn chế này, Điều 297 BLDS 2015 đã quy định một
cách rõ ràng về hai phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của
biện pháp bảo đảm, đó là: (1) nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm và (2) đăng
ký biện pháp bảo đảm.
Việc bổ sung nắm giữ là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba của biện pháp bảo đảm song hành cùng với phương thức đăng ký sẽ giúp
cho chủ thể đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản thì được suy đoán là
chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (Khoản 1, khoản 2 Điều 184 BLDS
2015). Cách quy định nêu trên cho phép bên nhận bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo
đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng
ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo
thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp một tài sản được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. (Điều 308 BLDS 2015).
Thứ 4: BLDS 2015 đã coi đăng ký biện pháp bảo đảm không còn là “nghĩa vụ”
của công dân mà là “quyền” của công dân, đối tượng của việc đăng ký là biện pháp
bảo đảm chứ không phải là giao dịch bảo đảm.
- Nếu như trước đây, BLDS 2005 tiếp cận đăng ký giao dịch bảo đảm dước giác
độ là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp (khoản 2 Điều 350, khoản 2 Điều
717, khoản 1 Điều 719). Tuy nhiên, BLDS 2015 đã có cách tiếp cận mang tính chất đổi


mới về đăng ký biện pháp bảo đảm bằng việc nhìn nhận đăng ký biện pháp bảo đảm
dưới giác độ “quyền” của công dân trong xã hội dân sự hiện đại. Cụ thể theo quy định
của Khoản 4 Điều 323 BLDS 2015, đăng ký thế chấp được xem là “quyền” của bên

nhận thế chấp. Việc tiếp cận đăng ký biện pháp bảo đảm dưới giác độ quyền công dân
trong xã hội dân sự hiện đại của BLDS 2015 có ý nghĩa và tác động rất lớn đối với
công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về đăng ký biện pháp bảo đảm cũng như thực
tiễn vận hành Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta.
- Với việc xác định đối tượng của hoạt động đăng ký là “biện pháp bảo đảm”,
BLDS năm 2015 đã tiếp cận gần hơn với thiết chế đăng ký “quyền”, chứ không phải
đăng ký hình thức ghi nhận và thể hiện thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ (“giao dịch bảo đảm”) như BLDS năm 2005. Cách tiếp cận của
BLDS năm 2005 coi đối tượng của hoạt động đăng ký là giao dịch bảo đảm (hình thức
ghi nhận và thể hiện thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ) được cho là không thực sự phù hợp với lý thuyết chung về đăng ký cũng như thực
tiễn vận hành Hệ thống đăng ký của nước ta với lý do: Đăng ký biện pháp bảo đảm
chính là sự công bố công khai quyền được bảo đảm bằng tài sản của một (hoặc) nhiều
chủ thể đối với tài sản bảo đảm. Vì tài sản bảo đảm vốn dĩ thuộc quyền sở hữu của một
chủ thể khác, do vậy, việc đăng ký biện pháp bảo đảm có ý nghĩa và vai trò như là sự
tuyên bố quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm cho công chúng biết và
dĩ nhiên, đi cùng với nó chính là sự thông báo “gián tiếp” về sự hạn chế quyền của chủ
sở hữu đối với tài sản bảo đảm cũng như của các chủ thể khác chưa xác lập hiệu lực
đối kháng với người thứ ba đối với biện pháp bảo đảm. Chính vì vậy, pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm hiện hành cũng chỉ ghi nhận: “Đăng ký giao dịch bảo đảm
là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm
hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm”. Theo đó việc đăng ký
giao dịch bảo đảm không phải là sự đăng ký toàn bộ nội dung của giao dịch bảo đảm,
bao gồm cả các nội dung khác ngoài biện pháp bảo đảm.
Như vậy, có thể thấy rằng việc BLDS 2015 quy định đối tượng của việc đăng ký
là biện pháp bảo đảm sẽ phù hợp và tiệm cận gần hơn với vai trò, địa vị pháp lý của
thiết chế đăng ký trong nền kinh tế thị trường, đó chính là thiết chế đăng ký quyền,
công bố quyền và công khai quyền.
- Ngoài ra, trước đây Khoản 3 Điều 323 BLDS 2005 coi đăng ký giao dịch bảo

đảm có ý nghĩa là điều kiện, là căn cứ pháp lý để xác định giao dịch bảo đảm có giá trị
pháp lý với người thứ ba. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 297 BLDS 2015,
đăng ký biện pháp bảo đảm được nhìn nhận như là phương thức để biện pháp bảo đảm
phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Như vậy cách tiếp cận của BLDS 2015
về giá trị pháp lý của đăng ký biện pháp bảo đảm so với BLDS 2005 chính xác hơn và
khoa học hơn, bởi lẽ: Mọi giao kết, thỏa thuận dân sự, bao gồm cả thỏa thuận về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự hợp pháp đều có giá trị pháp lý đối với người thứ ba và
phải được tất cả các chủ thể khác tôn trọng (xem Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015), không
phụ thuộc vào việc cam kết, thỏa thuận đó được hay không được đăng ký. Việc đăng
ký trong trường hợp này chỉ có ý nghĩa là phương thức pháp lý công bố công khai
quyền được bảo đảm bằng tài sản của bên nhận bảo đảm, để đối kháng với người thứ
ba trong trường hợp có nhiều lợi ích được thiết lập lên một tài sản. Nghĩa là, khi biện
pháp bảo đảm được đăng ký thì người thứ ba có lợi ích đối kháng với bên nhận bảo
đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng ký phải tôn trọng quyền được bảo đảm bằng
tài sản của bên nhận bảo đảm, trong đó có hai quyền năng quan trọng là quyền truy đòi


tài sản bảo đảm và quyền được thanh toán trước (xem Khoản 2 Điều 297 BLDS 2015).
Với quy định như vậy, trong trường hợp có nhiều chủ thể cùng có lợi ích “đối kháng”
nhau trên cùng một tài sản bảo đảm thì đăng ký chính là căn cứ xác định lợi ích của
chủ thể nào được ưu tiên bảo vệ trước (dựa trên các nguyên tắc quy định tại Điều 308
BLDS 2015). Nói cách khác, việc đăng ký chỉ có ý nghĩa trong việc phân định thứ tự
ưu tiên bảo vệ lợi ích được bảo đảm trong trường hợp có sự đối kháng về lợi ích, chứ
không phải là điều kiện để giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba.
Với những phần tích nêu trên, cùng với những thay đổi mang tính tích cực khác,
có thể khẳng định rằng: Nội dung phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của BLDS 2015
đã tiệm cận tốt hơn với thông lệ quốc tế và cơ bản giải quyết được những vướng mắc,
khó khăn trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng bảo đảm. Có thể nói, những tiếp
cận mới của BLDS 2015 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có sự ảnh hưởng và tác động
mang tính chất chi phối đến cơ chế điều chỉnh pháp luật và nhận thức pháp luật trong

lĩnh vực giao dịch bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm.



×