Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





BÙI THỊ DUYÊN




PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ - THỰC TRẠNG
VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN



Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu


Hà Nội – 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Bùi Thị Duyên











MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 6
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP TÀI
SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự 6
1.1.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 6
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thế chấp tài sản 12
1.2.1. Khái niệm 12
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp thế chấp tài sản 15
1.2.3. Những điểm khác nhau cơ bản giữa thế chấp tài sản với các biện pháp
bảo đảm khác 17
1.2.4. Vai trò của biện pháp thế chấp tài sản 19
1.3. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 20
1.3.1. Thời kỳ trước năm 1945 20
1.3.2. Thời kỳ từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật dân sự năm
1995 21
1.3.3. Thời kỳ từ năm 1996 đến bộ luật dân sự năm 2005 24
1.4. Pháp luật một số nước về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự 25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI
SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ 29
2.1. Những quy định chung về thế chấp tài sản 29
2.1.1. Chủ thể của thế chấp tài sản 29
2.1.2. Đối tượng của thế chấp tài sản 30
2.1.3. Phạm vi nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng thế chấp 35

2.1.4. Hình thức thế chấp tài sản, hiệu lực của việc thế chấp, thời hạn thế chấp
và các trường hợp đăng ký thế chấp 37
2.1.5. Nội dung của thế chấp thế chấp tài sản 41
2.1.6. Chấm dứt việc thế chấp và xử lý tài sản thế chấp 46
2.2. Một số trường hợp cụ thể của thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự 53
2.2.1. Thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất 53
2.2.2. Thế chấp tàu bay, tàu biển 57
2.2.3. Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai 59
2.2.4. Thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ và thế chấp
nhiều tài sản để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ 63
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP
TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 66
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự 66
3.1.1. Chủ thể của thế chấp tài sản 66
3.1.2. Đối tượng của hợp đồng thế chấp 71
3.1.3. Đăng ký thế chấp 72
3.1.4. Nội dung của thế chấp tài sản 76
3.1.5. Thứ tự ưu tiên thanh toán và xử lý tài sản thế chấp 79
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự 82
3.2.1. Về vị trí của chế định thế chấp tài sản trong BLDS 82
3.2.2. Về chủ thể của thế chấp tài sản 82
3.2.3. Về đối tượng của thế chấp tài sản 85
3.2.4. Về đăng ký thế chấp tài sản 88
3.2.5. Về nội dung của thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp 91
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98





















DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu, chữ viết tắt
BLDS
TTLT 01
Ghi chú
Bộ luật dân sự
Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-
BTP-BTNMT ngày 25/4/2014 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Tài

nguyên môi trường hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà
ở hình thành trong tương lai


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tham gia thiết lập
khu vực thương mại tự do Asean AFTA và tiến tới ký kết hiệp định đối tác
Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP đã thể hiện sự hội nhập ngày
càng sâu rộng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta. Các giao dịch dân sự, thương mại ngày càng phát triển là cơ hội để
các chủ thể tìm kiếm lợi ích nhưng cũng chứa đựng không ít rủi ro nếu bên có
nghĩa vụ không thiện chí, trung thực khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì vậy
để tạo thế chủ động cho người có quyền, tạo cơ chế an toàn trong thiết lập
giao dịch, việc xây dựng cơ chế bảo đảm thi hành các giao dịch này thông qua
các biện pháp bảo đảm cụ thể và hữu hiệu ngày càng trở nên cấp thiết. Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
trong đó thế chấp là biện pháp được sử dụng phổ biến trong thực tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng của biện pháp thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự nên nó trở thành đối tượng điều chỉnh của nhiều
văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự năm 2005, Luật đất đai năm 2003, Luật
nhà ở năm 2005, Luật hàng không dân dụng năm 2006, Luật hàng hải 2005,
Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng
ký giao dịch bảo đảm… Với các quy định chi tiết về giao dịch bảo đảm trong
các văn bản trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của giao
dịch bảo đảm nói chung và biện pháp thế chấp tài sản nói riêng góp phần quan
trọng vào sự phát triển chung của đất nước.

Tuy nhiên, sau gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự đã bộc lộ nhiều
điểm hạn chế, bất cập cần được hoàn thiện trong đó có các quy định về các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong bối cảnh Quốc hội đang
2

thảo luận sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 trong đó có các quy định về các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng như xây dựng luật về đăng
ký giao dịch bảo đảm; việc nghiên cứu về các quy định pháp luật về thế chấp
tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là điều cần thiết. Vì vậy, tôi
quyết định chọn đề tài “Pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn khoa học thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thế chấp tài sản là một chế định pháp luật có vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo an toàn giao dịch cũng như thúc đẩy sự phát triển của giao dịch
dân sự nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Vì vậy, vấn đề này được rất
nhiều tác giả quan tâm như: Luận văn thạc sĩ luật học “Cầm cố và thế chấp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” của tác giả Phạm Công Lạc, năm 1995;
Luận văn thạc sĩ luật học “Thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong pháp
luật dân sự Việt Nam và cộng hòa Pháp” của tác giả Hoàng Thị Hải Yến, năm
2004; Luận văn thạc sĩ luật học “Thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nông Thị Bích Diệp, năm 2006; Luận
văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt
động của Ngân hàng thương mại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trí Đức,
2008; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện các quy định về thế chấp quyền
sử dụng đất của Luật Đất đai năm 2003” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy,
2013, và một số bài viết đăng trên các tạp chí, bài tham luận tại các hội
thảo khoa học có liên quan như: Hội thảo khoa học “Nhận diện khía cạnh
pháp lý của vật quyền bảo đảm và một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện
bộ luật dân sự Việt Nam” của Bộ Tư pháp năm 2013; bài viết “Những chướng

ngại vật trên hành lang pháp lý về giao dịch bảo đảm”, của tác giả Dương
Thanh Minh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp-Văn phòng Quốc hội, Số 14/2010;
3

bài viết Luận bàn về thế chấp tài sản hình thành trong tương lai của tác giả Võ
Đình Toàn và Tuấn Đạo Thanh, Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp,
Số10/2009…
Tuy nhiên trong bối cảnh nghiên cứu để sửa đổi BLDS năm 2005 sau
gần 10 năm thi hành và trên yêu cầu của việc phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa thì việc nhìn nhận một cách
tổng quan về biện pháp thế chấp tài sản hiện nay là vô cùng quan trọng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi vào nghiên cứu khái quát về một số vấn đề lý luận về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và thế chấp tài sản làm cơ sở cho việc xây
dựng các quy định pháp luật.
Ngoài ra luận văn còn tập trung vào việc nghiên cứu, phân tích đánh
giá các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản, thực tiễn áp
dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành và thực tiễn áp dụng pháp luật thế chấp tài sản để đưa ra các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
Luận văn giới hạn nghiên cứu về các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…. để làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn của biện pháp thế chấp tài sản; những vướng mắc, bất cập của
pháp luật hiện hành từ đó đưa ra những kiến nghị phù hợp hoàn thiện pháp
luật.

5. Mục tiêu nghiên cứu
4

* Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu, phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự từ đó đưa ra những kiến
nghị đề xuất hoàn thiện pháp luật.
* Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về thế chấp tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự như khái niệm thế chấp tài sản, đặc điểm, đăng ký thế
chấp tài sản, lịch sử phát triển chế định thế chấp tài sản, vai trò của thế chấp
và đăng ký thế chấp….
- Tìm hiểu và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; thực tiễn áp dụng pháp
luật thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Đề xuất kiến nghị để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình áp dụng,
phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự tạo hành lang pháp lý an toàn bảo đảm quyền và lợi
ích của các chủ thể tham gia giao dịch.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và thế
chấp tài sản nói riêng là vấn đề được rất nhiều luật gia quan tâm. Tuy nhiên
mỗi người có cách tiếp cận và nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Các vấn
đề tác giả đưa ra trong luận văn này nhằm đưa đến một cái nhìn tổng quan
nhất về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trên cơ sở phân
tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, nhìn nhận đúng bản
chất của thế chấp tài sản là quan hệ vật quyền bảo đảm từ đó đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện pháp luật nhất là trong bối cảnh Quốc hội đang thảo luận sửa
đổi Bộ luật dân sự năm 2005 trong đó có các quy định về các biện pháp bảo
5


đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng như xây dựng luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục;
Luận văn được kết cấu bởi 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thế chấp tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự;
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
















6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự
1.1.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Các quan hệ pháp luật dân sự tồn tại trong xã hội hết sức đa dạng và
phong phú. Nếu như ở quan hệ vật quyền chủ thể quyền có thể thỏa mãn yêu
cầu của mình thông qua hành vi của chính mình thì ở quan hệ nghĩa vụ dân sự
và hợp đồng, chủ thể quyền thực hiện quyền để thỏa mãn yêu cầu của mình
thông qua hành vi của chủ thể có nghĩa vụ, phụ thuộc vào ý chí của người
khác. Nói cách khác, quyền của người có quyền có được thực hiện hay không
là phụ thuộc vào thiện chí của người có nghĩa vụ. Trong trường hợp người có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì
người có quyền có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc họ phải thực
hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền của người có quyền trong tình
huống này vẫn là bị động và hiệu quả đạt được không cao (kiện tụng kéo dài
gây tốn kém, người có nghĩa vụ không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ….).
Nhằm khắc phục tình trạng trên và tạo cho người có quyền trong các
quan hệ nghĩa vụ có được thế chủ động trong thực tế hưởng quyền dân sự, tạo
cơ chế an toàn trong thiết lập và thực hiện giao dịch; pháp luật cho phép các
bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng
cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ dân sự mà các
bên có thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ khi
đến hạn thì người có quyền có thể chủ động tiến hành các hành vi của mình
để tác động trực tiếp đến tài sản bảo đảm của phía bên kia nhằm thỏa mãn
7

quyền lợi của mình. Nói cách khác người có quyền giành quyền chủ động

thỏa mãn được quyền lợi của mình thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm của
bên có nghĩa vụ khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ khi đến hạn.
Trong pháp luật thực định Việt Nam không có điều khoản nào đưa ra
khái niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều 318 Bộ luật
dân sự năm 2005 chỉ quy định có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo
lãnh, tín chấp.
Khi nghiên cứu về khái niệm và bản chất pháp lý của bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự, ở Việt Nam hiện có một vài quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một biện
pháp dân sự có “tính dự phòng” nhằm thúc đẩy việc thực hiện đúng nghĩa vụ
theo cam kết hoặc theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự còn có tính bắt buộc đối với tất cả các bên
trong giao dịch và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Do
đó “dù xuất phát từ cơ sở nào thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự cũng luôn mang tính chất bắt buộc như một chế tài” [46]. Quan điểm
khác lại cho rằng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là loại trách
nhiệm dân sự đặc biệt trong đó các bên có thể thỏa thuận phạm vi trách
nhiệm, mức độ trách nhiệm và cả các biện pháp thực hiện, áp dụng; có thể tự
mình thực hiện, áp dụng trách nhiệm đó [28].
Như vậy, về mặt khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là
những quy định của pháp luật cho phép các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ áp
dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo đảm cho nghĩa vụ đó được
thực hiện, đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên trong
các biện pháp đó.
8

Về mặt chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa thuận
giữa các bên, qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng

để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đồng thời ngăn ngừa và khắc phục
những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ gây ra.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự
Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nghĩa vụ
phái sinh từ nghĩa vụ được bảo đảm, luôn gắn liền với một nghĩa vụ được bảo
đảm cụ thể, được xác lập sau hoặc đồng thời với việc xác lập nghĩa vụ đó.
Một khi đã xác định được nghĩa vụ cần bảo đảm là nghĩa vụ gì và cần phải
được bảo đảm như thế nào thì các biện pháp bảo đảm mới được hình thành.
Ví dụ: hợp đồng vay tiền được hình thành làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền nợ
gốc đã vay và tiền lãi phát sinh khi đến hạn thanh toán. Để đảm bảo cho việc
thực hiện nghĩa vụ này các bên thỏa thuận ký kết hợp đồng thế chấp (hoặc
bảo lãnh) sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng hoặc đưa vào trong hợp đồng
vay tiền một điều khoản về biện pháp thế chấp (hoặc bảo lãnh) để bảo đảm
cho nghĩa vụ trên.
Có nhiều quan điểm cho rằng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự là hợp đồng phụ của nghĩa vụ được bảo đảm. Tuy nhiên, theo chúng
tôi mối quan hệ giữa nghĩa vụ được bảo đảm và biện pháp bảo đảm không
hoàn toàn là mối quan hệ giữa hợp đồng chính với hợp đồng phụ. Bởi hợp
đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính[41, Điều
406], nên về nguyên tắc khi hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô
hiệu. Trong khi đó, khi nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu thì giao dịch bảo đảm
không nhất thiết sẽ vô hiệu theo. Quan điểm này được thể hiện tại Điều 15
nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm. Theo đó, hợp đồng có
9

nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên đã thực hiện một phần hoặc
toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không
chấm dứt. Lúc này, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trở thành

biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ
và bồi thường thiệt hại nếu có sau khi tòa án tuyên bố nghĩa vụ được bảo đảm
vô hiệu. Ví dụ: khi hợp đồng vay tiền bị tuyên bố vô hiệu nhưng tiền vay đã
chuyển thì bên vay phải trả lại tiền vay đó. Biện pháp thế chấp bảo đảm cho
khoản vay trước đó trở thành biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả của bên đi vay. Trong trường hợp, hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm
chấm dứt. Việc sử dụng thuật ngữ “chấm dứt” và “không chấm dứt” đã thể
hiện tính độc lập tương đối của các biện pháp bảo đảm với nghĩa vụ được bảo
đảm, biện pháp bảo đảm là nghĩa vụ phái sinh của nghĩa vụ được bảo đảm.
Thứ hai, Phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, có thể là
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Toàn bộ nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả
nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại [41, Điều 319]. Về nguyên tắc phạm vi
bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã
được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm; dù trong
thực tế người có nghĩa vụ đưa ra một tài sản có giá trị lớn hơn nhiều lần giá trị
của nghĩa vụ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Vì mục đích cuối cùng của
việc bảo đảm đó cũng chỉ là để người mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
trong phạm vi đã xác định. Ví dụ: Anh A dùng căn hộ trị giá 800 triệu đồng
để thế chấp bảo đảm cho khoản vay 400 triệu đồng. Toàn bộ nghĩa vụ thanh
toán của anh A sau khi đáo hạn theo hợp đồng là 480 triệu đồng (gồm tiền gốc
và tiền lãi). Căn hộ anh A thế chấp bán được 750 triệu đồng. Vì vậy, anh A
10

được lấy lại 270 triệu đồng mà không phải mất toàn bộ giá trị căn hộ thế chấp
khi anh không trả được nợ vay.
Thứ ba, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có tính chất
dự phòng, chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra. Trong
trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm đã được thực hiện một cách đầy đủ thì

không cần áp dụng biện pháp bảo đảm đó.
Trong thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm quyền sở hữu đối
với tài sản bảo đảm vẫn thuộc về bên có nghĩa vụ nhưng quyền năng pháp lý
đối với tài sản đó bị hạn chế (không được tự do chuyển nhượng…). Nếu đến
hạn bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình thì biện pháp
bảo đảm nghĩa vụ đó đương nhiên chấm dứt; bên có nghĩa vụ được khôi phục
đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản bảo đảm: được nhận lại
tài sản và đầy đủ các giấy tờ hợp pháp liên quan đến tài sản từ bên có quyền
hay bên nắm giữ tài sản bảo đảm. Trong trường hợp khi đến hạn có sự vi
phạm nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm bị xử lý theo thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật (nếu không có thỏa thuận) để khấu trừ, thanh toán
phần nghĩa vụ bị vi phạm. Khi đó, bên có nghĩa vụ sẽ bị mất quyền sở hữu đối
với tài sản.
Thứ tư, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
sự thỏa thuận giữa các bên. Nếu như các quan hệ nghĩa vụ khác có thể phát
sinh từ nhiều căn cứ khác nhau (có thể do thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật) thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự chỉ phát sinh
trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Nói cách khác các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không đương nhiên phát sinh bên cạnh
nghĩa vụ chính; không phải bên cạnh hợp đồng mua bán là hợp đồng đặt cọc
hay bên cạnh hợp đồng vay tiền là các hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…
11

Các biện pháp bảo đảm này có xuất hiện hay không là phụ thuộc vào sự thỏa
thuận, định đoạt của các bên chủ thể.
Thứ năm, đối tượng chủ yếu của các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự là những lợi ích vật chất. Nghĩa vụ cần được bảo đảm là
những nghĩa vụ mang tính chất tài sản (như nghĩa vụ thanh toán tiền hay thực
hiện một công việc trị giá được bằng tiền…). Theo quy luật ngang giá chi
phối các quan hệ tài sản thì chỉ có lợi ích vật chất mới bù đắp được các lợi ích

vật chất. Do vậy, các bên trong quan hệ nghĩa vụ không thể dùng quyền nhân
thân làm đối tượng của biện pháp bảo đảm. Lợi ích vật chất là đối tượng của
các biện pháp bảo đảm thường là một tài sản. Tài sản đem ra bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự có thể là vật (vật hiện có hoặc hình thành trong tương
lai), tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Đó có thể là động sản hoặc bất
động sản nhưng những tài sản này phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm,
không phải là đối tượng bị tranh chấp về quyền sở hữu cũng như quyền sử
dụng. Tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép tự do lưu thông trên thị
trường.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định một trường hợp
ngoại lệ, đó là biện pháp tín chấp. Đối tượng của biện pháp này không phải là
lợi ích vật chất mà là uy tín của tổ chức. Cụ thể: các tổ chức xã hội tại cơ sở
đứng ra bảo đảm cho các thành viên của mình vay tiền tại các ngân hàng
chính sách xã hội thông qua việc xác nhận các yếu tố nhân thân và kiểm soát
mục đích sử dụng tiền vay. Việc xây dựng biện pháp này trong BLDS đã tạo
cơ sở pháp lý cho Đảng và Nhà nước triển khai thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo.
Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có mục đích
nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ, bảo vệ
lợi ích cho bên có quyền một cách chắc chắn thông qua việc thỏa thuận về
12

một tài sản dự phòng sẽ được xử lý để khấu trừ nghĩa vụ vi phạm. Thông qua
việc áp dụng các biện pháp bảo đảm bên có quyền sẽ không bị rơi vào thế bị
động (phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên đối tác) mà trở nên chủ
động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giao
dịch dân sự, thương mại đã ký kết (thông qua việc trực tiếp tác động vào tài
sản bảo đảm). Các biện pháp bảo đảm được đặt ra góp phần tạo nên cơ sở
pháp lý an toàn cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, tạo điều kiện củng cố
kỷ luật hợp đồng, bảo đảm sự ổn định và phát triển bình thường của các quan

hệ tài sản.
Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một chế định truyền
thống. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các quy định của pháp luật
về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng ngày càng phát
triển. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định các biện pháp bảo đảm như
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh trong đó thế chấp là biện pháp bảo đảm được sử
dụng phổ biến trong thực tế đời sống.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thế chấp tài sản
1.2.1. Khái niệm
Thế chấp là một từ có nguồn gốc Hán Việt. Theo từ điển Hán Việt:
“Thế là bỏ đi, thay cho” còn “Chấp là cầm, giữ, bắt” [1]. Từ điển Tiếng Việt
giải thích: Thế chấp (tài sản) là dùng vật bảo đảm thay thế cho số tiền vay nếu
không có khả năng trả đúng hạn [53]. Giải thích này của Từ điển Tiếng Việt
đã cho thấy sự phổ biến của việc sử dụng biện pháp thế chấp trong các hợp
đồng cấp tín dụng. Xuất phát từ những ngữ nghĩa cơ bản của thế chấp như
trên, chúng ta có thể hiểu thế chấp là biện pháp cách thức mà các bên thỏa
thuận lựa chọn để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
thông qua một tài sản mà giá trị của tài sản này có khả năng thay thế cho
nghĩa vụ bị vi phạm.
13

Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận
thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Được tôn
vinh là "nữ hoàng" của các biện pháp bảo đảm, thế chấp được lựa chọn làm
biện pháp bảo đảm của hầu hết các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong các
quan hệ tín dụng. Với ưu thế là biện pháp bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không
phải chuyển giao tài sản bảo đảm, vẫn khai thác được giá trị của tài sản bảo
đảm mà lợi ích của các bên vẫn đạt được, thế chấp là một giải pháp tuyệt vời

được các bên tham gia giao dịch dân sự ưu tiên lựa chọn sử dụng. Ở biện
pháp này, thay vì chuyển giao tài sản cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ
chuyển giao toàn bộ hồ sơ pháp lý của tài sản cho bên có quyền. Đó có thể là
giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoặc giấy tờ là điều kiện chuyển
nhượng tài sản. Việc giao giấy tờ này đồng nghĩa với việc bên có nghĩa vụ
không thể định đoạt tài sản được vì không có giấy tờ để giao dịch.
Với việc BLDS năm 2005 sắp xếp các quy định về thế chấp trong phần
“nghĩa vụ và hợp đồng” cho thấy nhà làm luật đã tiếp cận nó dưới giác độ là
một giao dịch dưới dạng hợp đồng dựa trên cơ sở nền tảng của lý thuyết trái
quyền. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS năm 2005 cũng đã mang “dáng
dấp” của vật quyền bảo đảm (ví dụ như quy định tại Điều 325 về thứ tự ưu
tiên thanh toán, quy định tại Điều 323 về đăng ký giao dịch bảo đảm) dù còn
chưa toàn diện và triệt để. Đánh giá khách quan thì việc quy định thế chấp với
bản chất “chủ yếu” là một quan hệ trái quyền như BLDS hiện hành có ưu
điểm là dễ hiểu, dễ áp dụng trong đời sống, nhưng điểm hạn chế nhất là hiệu
quả thực thi các quy định về bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp còn thấp,
thiếu triệt để. Theo quy định tại khoản 5 Điều 351 BLDS năm 2005, bên nhận
thế chấp có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ giao tài sản thế chấp để xử lý khi
14

có sự vi phạm. Bên nhận thế chấp không có quyền trực tiếp trên tài sản thế
chấp mà quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp chỉ mang tính
“gián tiếp” thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp theo hợp
đồng đã ký kết.
Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự xuất
hiện từ thời La Mã cổ đại. Quá trình phát triển của biện pháp thế chấp trong
Luật La Mã với nền tảng pháp lý là lý thuyết về vật quyền bảo đảm đã ảnh
hưởng và chi phối mạnh mẽ đến sự ra đời, thay đổi của các quy định pháp luật
về thế chấp ở các nước theo hệ thống luật Civil Law mà điển hình là các nước
Pháp, Đức, Nhật Bản. Tính chất vật quyền cho phép bên nhận thế chấp có

quyền tác động trực tiếp đến tài sản thế chấp mà không phụ thuộc vào ý chí
của bất kỳ chủ thể nào khi chứng minh được bên thế chấp có quyền sở hữu tài
sản thế chấp (sẽ được sở hữu hoặc được ủy quyền định đoạt), có giao kết hợp
đồng thế chấp và bên có nghĩa vụ có sự vi phạm nghĩa vụ. Cụ thể, bên nhận
thế chấp có quyền truy đòi tài sản thế chấp từ sự chiếm giữ của bất kỳ ai (trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác) để xử lý và có quyền ưu tiên thanh
toán trước từ số tiền thu được khi xử lý tài sản thế chấp. Với những quy định
được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về vật quyền bảo đảm đã tạo nên ưu thế
cho người nhận thế chấp trong việc xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm cho
quyền lợi của mình. Dĩ nhiên, đi kèm với đó phải là một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, hệ thống đăng ký tài sản phát triển với sự minh bạch hóa cao. Đây
là xu thế phát triển của hầu hết hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế
giới và cũng là cách nhìn nhận hợp lý về bản chất của thế chấp khi đây là một
biện pháp bảo đảm được xác lập trên một tài sản xác định.
Như vậy, về bản chất cần xác định thế chấp là một biện pháp có tính
chất vật quyền nhằm bảo đảm cho quan hệ trái quyền. Căn cứ để tạo lập
quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp, chính là sự thỏa thuận
15

của các bên tham gia giao dịch về việc bên thế chấp sẽ dùng tài sản của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà không chuyển giao tài sản thế chấp.
Trong thời gian tới chúng ta cần tập trung nghiên cứu lý thuyết về vật quyền
bảo đảm để xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc cho việc sửa đổi các
quy định về thế chấp tài sản cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện
nay.
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp thế chấp tài sản
Là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nên thế chấp cũng
có đầy đủ các đặc điểm của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã
được nêu ở phần trên. Bên cạnh đó, thế chấp còn có những đặc điểm riêng so
với biện pháp bảo đảm khác như sau:

Thứ nhất, không có sự chuyển giao tài sản thế chấp.
Trong quan hệ thế chấp, bên thế chấp không phải giao tài sản bảo đảm
cho bên nhận thế chấp. Tính chất bảo đảm được xác định bằng việc bên thế
chấp phải giao cho bên nhận thế chấp những giấy tờ chứng minh tình trạng
pháp lý của tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp. Ví dụ: A thế chấp chiếc
xe máy SH để vay B mười triệu đồng. Anh A giao cho anh B giấy đăng ký xe
chứng minh quyền sở hữu của A mà không phải giao chính bản thân chiếc xe
đó.
Những giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp có thể là giấy đăng ký
quyền sở hữu tài sản (ví dụ ô tô, xe máy, máy bay, tàu biển…); giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; hay các giấy tờ khác như hợp đồng mua bán hàng
hóa có kèm theo hóa đơn; hợp đồng mua bán nhà ở trong tương lai kèm theo
dự án đã được phê duyệt về ngôi nhà đó; hoặc giấy tờ thừa kế nhà đất;… Các
loại giấy tờ trên phải là bản gốc (bản duy nhất) được giao cho bên nhận thế
chấp giữ nhằm hạn chế sự định đoạt của bên thế chấp đối với tài sản thế chấp.
16

Thứ hai, một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ (đối với chủ thể
quyền khác nhau) chỉ có thể là tài sản thế chấp.
Theo quy định tại khoản 1 điều 324 BLDS: Một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm
xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên,
nếu muốn một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ đối với nhiều người có
quyền khác nhau, bên bảo đảm chỉ có thể lựa chọn biện pháp thế chấp. Vì bên
nhận thế chấp không trực tiếp giữ tài sản bảo đảm, quyền lợi của tất cả các
chủ nợ được bảo đảm bằng giá trị của tài sản đó. Đối với biện pháp cầm cố
không thể xảy ra trên thực tế hai hay nhiều chủ nợ không liên quan đến nhau
cùng giữ một tài sản. Tài sản đó chỉ có thể là đối tượng của cả hai biện pháp
cầm cố và thế chấp. Ví dụ: Anh A thế chấp một chiếc ô tô trị giá 1,8 tỷ đồng

tại ngân hàng X để vay 200 triệu đồng, sau đó lại tiếp tục thế chấp tại ngân
hàng Y để vay 300 triệu đồng và cuối cùng cầm cố cho anh B để vay 800 triệu
đồng. Chiếc ô tô là tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ đối với các chủ thể
quyền khác nhau nhưng vẫn bảo đảm được lợi ích cho bên có quyền vì tổng
các nghĩa vụ không vượt quá giá trị tài sản bảo đảm.
Thứ ba, nhiều loại giao dịch thế chấp là đối tượng bắt buộc của đăng
ký giao dịch bảo đảm và đây cũng là biện pháp bảo đảm được đăng ký nhiều
nhất trong thực tế (cả tự nguyện lẫn bắt buộc).
Theo quy định tại điều 3 nghị định 83/2010/NĐ-CP ngày 23/07/2010
của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm thì các loại giao dịch sau bắt
buộc phải đăng ký: thế chấp quyền sử dụng đất; thế chấp rừng sản xuất là
rừng trồng; cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay và thế chấp tàu biển. Như vậy,
trong số năm loại giao dịch bảo đảm bắt buộc phải đăng ký thì có đến bốn loại
là giao dịch thế chấp. Ngoài ra, các giao dịch bảo đảm khác do các bên tự
17

nguyện đăng ký tại Trung tâm tâm đăng ký giao dịch phần lớn là giao dịch thế
chấp. Điều này xuất phát từ đặc điểm thứ nhất của biện pháp thế chấp. Vì
không có sự chuyển giao tài sản nên việc cần minh bạch hóa tình trạng pháp
lý của tài sản là rất cần thiết để đảm bảo cho an toàn giao dịch. Việc đăng ký
giao dịch bảo đảm tạo lợi thế ưu tiên thanh toán cho người đăng ký trước khi
một tài sản dùng để đảm bảo cho nhiều giao dịch thường xảy ra phổ biến đối
với tài sản thế chấp.
1.2.3. Những điểm khác nhau cơ bản giữa thế chấp tài sản với các
biện pháp bảo đảm khác
Nếu như ở BLDS năm 1995, hai biện pháp bảo đảm đối vật là cầm cố
và thế chấp được phân biệt với nhau bởi tiêu chí tài sản bảo đảm là động sản
(cầm cố) hay bất động sản (thế chấp). Thì đến BLDS năm 2005 hai biện pháp
bảo đảm này được phân biệt với nhau bởi tiêu chí có hành vi chuyển giao tài
sản bảo đảm hay không. Đây là một bước tiến quan trọng thể hiện sự phát

triển của luật dân sự Việt Nam. Theo quy định tại điều 326 BLDS năm 2005,
biện pháp cầm cố có sự chuyển giao tài sản bảo đảm từ bên cầm cố sang cho
bên nhận cầm cố. Nói cách khác, trong thời gian biện pháp cầm cố có hiệu
lực, bên nhận cầm cố được quyền chiếm hữu tài sản cầm cố. Trong khi đó đặc
trưng của biện pháp thế chấp là không có sự chuyển giao tài sản bảo đảm từ
bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp. Trong thời gian biện pháp thế chấp
có hiệu lực, tài sản vẫn thuộc quyền chiếm hữu của bên thế chấp; bên thế chấp
được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản bảo đảm một cách
bình thường [41, Điều 342].
Nếu như biện pháp thế chấp là biện pháp bảo đảm đối vật điển hình
(vật quyền bảo đảm) thì biện pháp bảo lãnh lại là biện pháp bảo đảm đối nhân
đặc trưng (trái quyền bảo đảm). Điều này đã nói lên điểm khác nhau cơ bản
giữa thế chấp vào bảo lãnh. Nếu như ở biện pháp thế chấp bên thế chấp phải
18

đưa ra một tài sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ của mình. Nói cách khác
đối tượng của biện pháp này là một tài sản cụ thể và khi nghĩa vụ bị vi phạm
thì bên nhận thế chấp sẽ xử lý tài sản thế chấp đó để bù đắp cho việc vi phạm
nghĩa vụ của bên thế chấp. Trong khi đó ở biện pháp bảo lãnh, bên bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ không cần đưa ra một tài sản cụ thể mà chỉ khi bên được
bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ, không thực hiện được nghĩa vụ thì bên bảo lãnh
mới phải đưa ra tài sản thuộc sở hữu của mình để xử lý bù đắp cho việc vi
phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh [41, Điều 361].
Khác với thế chấp là biện pháp được sử dụng để bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ xác định. Biện pháp đặt cọc được sử dụng để bảo đảm cho việc
giao kết và thực hiện hợp đồng. Đối tượng của đặt cọc là tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc vật có giá trị [41, Điều 58] trong khi đó đối tượng của thế chấp là tất
cả các loại tài sản (quyền sử dụng đất không thể là đối tượng của đặt cọc
nhưng là đối tượng phổ biến của biện pháp thế chấp).
Biện pháp ký cược chỉ sử dụng trong quan hệ cho thuê tài sản và nó đòi

hỏi phải có sự chuyển giao một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý, vật có
giá trị để bảo đảm cho việc trả lại tài sản thuê. Trong trường hợp tài sản thuê
không còn, tài sản ký cược đương nhiên thuộc về người cho thuê tài sản mà
không cần đưa tài sản đó ra xử lý. Đó chính là những điểm khác biệt giữa ký
cược và thế chấp tài sản [41, Điều 359].
Đối với biện pháp ký quỹ, tài sản ký quỹ có thể là một khoản tiền, kim
khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác và đòi hỏi tài sản này phải được gửi
vào một tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng nhất định để bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự [41, Điều 360]. Đòi hỏi này không được đặt ra đối
với thế chấp tài sản.
Tín chấp là một biện pháp bảo đảm đặc biệt ở nước ta mà hầu hết pháp
luật các nước đều không quy định. Với tính chất vật quyền bảo đảm, thế chấp
19

có đối tượng là một tài sản cụ thể trong khi đó đối tượng của tín chấp không
phải là một lợi ích vật chất mà là uy tín của tổ chức Chính trị - xã hội.
Nhìn chung, giữa thế chấp và các biện pháp bảo đảm khác đều có sự
khác biệt về đối tượng, hình thức và ý nghĩa. Trong đó cần chú ý đến những
điểm khác biệt giữa thế chấp và cầm cố, bảo lãnh để có được sự lựa chọn biện
pháp bảo đảm phù hợp với mục đích của mình.
1.2.4. Vai trò của biện pháp thế chấp tài sản
Biện pháp thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự có nhiều ưu điểm so với các biện pháp khác.Với việc không chuyển giao
tài sản bảo đảm, biện pháp thế chấp đáp ứng linh họat lợi ích của các bên chủ
thể.
Đối với bên nhận thế chấp, do không trực tiếp nắm giữ tài sản nên
không mất chi phí cho việc duy trì, giữ gìn và bảo quản tài sản bảo đảm trong
thời hạn thế chấp như không phải lo về kho, bến bãi, người trông coi hay biện
pháp bảo quản thích hợp cũng như không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nếu làm hư hỏng, mất mát tài sản thế chấp.

Đối với người có nghĩa vụ biện pháp thế chấp là lựa chọn được ưu tiên,
đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh cần sử dụng vốn và duy trì hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Với việc không phải chuyển giao tài sản thế chấp, bên
thế chấp vẫn được tiếp tục sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức (có thể cho thuê hoặc bán nếu tài sản thế chấp là tài sản luân chuyển trong
quá trình sản xuất, kinh doanh. Mặt khác người thế chấp có thể thế chấp một
tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ khác nhau nếu tổng các nghĩa vụ
không lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Bên thế chấp có thể khai thác được hết
giá trị của tài sản thế chấp để huy động được tối đa lượng vốn cần vay. Ví dụ:
A thế chấp chiếc xe máy SH để vay B mười triệu đồng. Anh A giao cho anh B
giấy đăng ký xe chứng minh quyền sở hữu của A mà không phải giao chính

×