Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.59 KB, 42 trang )

Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
a. Lí do về mặt lí luận :
- Phương pháp Dạy học văn bản nghị luận không còn là một vấn đề mới
nhưng nó cũng không phải là xưa cũ. Bởi đây là một phương pháp có nhiều ưu
điểm đã mang lại những hiệu quả rõ rệt trong dạy và học môn Ngữ văn ở cấp
trung học cơ sở.
- Văn bản nghị luận chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình SGK
Ngữ văn THCS. Đây là loại văn bản trực tiếp nói lí lẽ, được viết ra nhằm phát biểu
một nhận định, tư tưởng, quan điểm, thái độ trước một vấn đề đặt ra trong cuộc
sống, qua đó xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng quan điểm nào đó.
Văn

bản

nghị

luận



kết

quả

chủ

yếu


của



duy

lôgíc.

- Dạy học văn bản nghị luận có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cho học
sinh tư duy lôgíc; kĩ năng lập luận sắc bén, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư
tưởng một cách sâu sắc và bản lĩnh, tinh thần tự chủ trước đời sống. Cụ thể hơn,
kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và cách
nghị luận không chỉ giúp cho học sinh có khả năng làm văn mà có tác dụng hình
thành năng lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp. ảnh hưởng của văn
nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà còn lan tỏa đối với
tất cả các môn học khác trong trường phổ thông.
b. Lí do về mặt thực tiễn.
- Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy các tác phẩm nghị luận trong chương trình ngữ
văn còn có nhiều vướng mắc khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản.
- Xuất phát từ thực trạng học sinh chưa thích học môn văn, chưa biết cảm thụ,
bình giá một tác phẩm văn học vì phương pháp học cũ khô khan và nhàm chán.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

1

Năm 2017- 2018



Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

- Từ những lí do trên và qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn ở trường
trung học cơ sở, tôi đã có ý thức tìm tòi, nghiên cứu và rút ra phương pháp dạy
học văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn THCS. Đây là cách dạy và học
theo tinh thần đổi mới phương pháp giảng dạy làm cho học sinh tiếp thu bài học
một cách chủ động sang tạo và biết cách cảm thụ cái hay cái đẹp của một tác phẩm
văn chương. Chính vì vậy mà tôi đã mạnh dạn đưa ra ý kiên này. Rất mong có sự
đóng góp tham gia của các đồng nghiệp .
II. Mục đích nghiên cứu:
- Rút ra được phương pháp dạy tác phẩm nghị luận theo tinh thần đổi mới, theo
hướng tích hợp để tạo ra sự gắn kết kiến thức trong một bộ môn, trong cả chương
trình và giữa các bộ môn học khác nhau.
- Giúp học sinh có thể hiểu bài một cách chủ động và sáng tạo.
- Giúp học sinh có khả năng ứng xử nhanh nhạy trước những vấn đề phức tạp của
cuộc sống; bồi dưỡng cho học sinh ý thức, trách nhiệm đối với cuộc sống; nâng
cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nhiệm vụ cơ bản của đề tài là chỉ ra được các cách cơ bản để dạy và học tác
phẩm nghị luận trong môn Ngữ Văn trường THCS đặc biệt là lớp 8,9 ở trường
THCS Trần Hưng Đạo, đồng thời đề xuất những kinh nghiệm thiết thực của bản
thân trong những tiết dạy cụ thể.
IV. Đối tượng nghiên cứu.
- Các tác phẩm nghị luận trong chương trình ngữ văn lớp 8,9 trung học cơ sở.
- Học sinh khối 8 và 9 trường THCS Trần Hưng Đạo.
V. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu (Lí luận tích hợp)
- Thực nghiệm ( giảng dạy) – Phương pháp chính.
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo


2

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

- Khảo sát tình hình thực tế
- Tổng hợp đánh giá, thiết kế bài soạn tác phẩm nghị luận ở khối lớp 8 và lớp 9.
VI. Những đóng góp của đề tài.
- Qua việc áp dụng vào thực tế giảng dạy, tôi thấy đề tài đã mang lại những đóng
góp không nhỏ trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh, đặc biệt là với thể
loại văn nghị luận vẫn mang tiếng là khô khan này. Không những thế tôi cũng
nhận thấy kỹ năng viết văn nghị luận của các em cũng tốt hơn, sắc sảo hơn khi các
em hiểu rõ được vấn đề.
*********************************************

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

3

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Phần thứ hai: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢNG DẠY TÁC PHẨM

NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS.
I. Cơ sở lý luận:
Văn bản nghị luận là một trong 6 dạng văn bản trong sách giáo khoa Ngữ
văn bậc THCS. Cũng như các văn bản khác, ngoài mục đích văn chương, văn bản
nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho học sinh những phát
triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân tác phẩm. Vậy, ta
hiểu như thế nào về văn bản nghị luận?
Có nhiều cách phát biểu khác nhau về văn bản nghị luận. Theo sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 7, văn bản nghị luận là kiểu văn bản được dùng để trực tiếp
trình bày, phát biểu các tư tưởng, quan điểm bằng luận cứ và lập luận trước một
vấn đề đặt ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm
nào đó, hoặc hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống.
Như vậy, mục đích của văn bản nghị luận trước hết là để đưa thông tin và
nói lí lẽ. Văn bản nghị luận thực chất là kiểu văn bản lí thuyết, văn bản trực tiếp
nói lí lẽ.
II. Cơ sở thực tiễn:
Về đặc điểm của văn bản nghị luận, phần Tập làm văn về văn nghị luận
trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập hai; Ngữ văn 8, tập hai đã đề cập đến khá cụ
thể và sâu sắc. Cụ thể trên các phương diện sau:
1/ Phạm vi đề tài và thể loại của văn bản nghị luận:
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

4

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo


Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và phổ biến
trong đời sống. Khi cần trình bày một cách trực tiếp, mạch lạc, sâu sắc một tư
tưởng, quan điểm nào đó trước cuộc sống, người ta thường dùng nghị luận làm
phương thức biểu đạt chính. Vì vậy, phạm vi đề tài của văn bản nghị luận rất rộng.
Đề tài của các văn bản nghị luận được lựa chọn dạy trong chương trình SGK Ngữ
văn bậc THCS cũng vậy. Qua các tiêu đề của các văn bản đủ để thấy sự phong
phú, đa dạng của các vấn đề được đem ra bàn luận. Từ đề tài chiến tranh, hòa
bình, chủ quyền độc lập quốc gia đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc; từ vai trò, vị trí, ý nghĩa đến đặc trưng nghệ thuật
của văn chương; từ phương pháp đọc sách đến những vấn đề về dịch bệnh, môi
trường,...Sự phong phú, đa dạng; tính cập nhật của đề tài nghị luận trong chương
trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện rõ quan điểm dạy học văn gắn với thực tế đời
sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường với đời sống xã hội; nâng cao
vốn hiểu biết về văn hóa - xã hội nói chung cho học sinh.
Về hình thức, văn nghị luận có thể tồn tại dưới dạng các bài bình luận thời
sự, bình luận kinh tế, quân sự,...;các bài tuyên ngôn, phát biểu ý kiến, diễn thuyết;
tiểu phẩm, chuyên luận,...Các bài cáo, hịch, chiếu, biểu, tấu,...cũng đậm chất nghị
luận.
2/ Văn bản nghị luận – sản phẩm của tư duy logic:
Như chúng ta đã biết, văn bản nghị luận được dùng để trình bày trực tiếp
một tư tưởng, quan điểm bằng luận cứ và lập luận trước một vấn đề đặt ra trong
cuộc sống, vì vậy có thể nói văn bản nghị luận là sản phẩm của tư duy logic, của lí
trí.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

5

Năm 2017- 2018



Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Có thể thấy, văn chương hình tượng cũng có tính logic, nhưng đó là kiểu
logic hư cấu nghệ thuật. Còn đối với văn bản nghị luận, ở những phạm vi nhất
định cũng có sử dụng trí tưởng tượng, nhưng nhìn chung văn bản nghị luận không
căn bản dựa vào trí tưởng tượng, hư cấu. Văn bản nghị luận trước hết là sản phẩm
của tư duy logic, của lí trí sắc bén và tỉnh táo, nhằm trình bày tư tưởng, quan điểm
nào đó của người viết một cách rõ ràng, mạch lạc. Văn bản nghị luận thuyết phục
người đọc trong tính đúng đắn, khách quan, sắc bén của lập luận. Ví dụ, Viễn
Phương viết Viếng lăng Bác trước hết để bày tỏ nỗi xúc động nghẹn ngào, trào
dâng của một người con lần đầu được vào lăng viếng Bác, thì cũng với niềm tôn
kính chân thành, nhưng viết Đức tính giản dị của Bác Hồ, tác giả Phạm Văn Đồng
trước hết nhằm làm sáng tỏ và thuyết phục người đọc nhận rõ rằng, giản dị là đức
tính nổi bật ở con người vĩ đại Hồ Chí Minh,...
3/ Lập luận và luận điểm trong văn nghị luận:
Nếu như trong văn tự sự và kịch, nhân vật, cốt truyện và xung đột,...là
những yếu tố cơ bản của tác phẩm thì trong văn bản nghị luận, luận điểm, lập luận,
luận cứ, luận chứng là những yếu tố cơ bản làm nên tác phẩm.
a/Về luận điểm:
Luận điểm là tư tưởng, quan điểm, chủ trương của tác giả về một vấn đề
nào đó. Luận điểm là linh hồn của bài văn,nó thống nhất các phần, các đoạn văn
thành một khối.
Nếu luận đề nêu lên đề tài, vấn đề, câu hỏi cần bàn luận, giải đáp thì luận
điểm là những ý kiến thể hiện quan điểm, chủ trương...của người nói, người viết
được đưa ra nhằm giải đáp, làm sáng tỏ cho vấn đề hoặc câu hỏi đó giúp cho lí trí
được thông suốt.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân

Trường THCS Trần Hưng Đạo

6

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Trong một bài văn nghị luận, luận điểm có thể có các cấp độ khác nhau. Tùy
nội dung vấn đề và cách lập luận của người viết, bài văn có thể có một luận điểm
chính, luận điểm trung tâm và các luận điểm phụ; có luận điểm tổng quát, bao
trùm toàn bài và có luận điểm nhỏ là bộ phận của luận điểm lớn. Chẳng hạn, luận
điểm bao trùm của văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới là “Bước vào thế
kỉ mới con người phải chuẩn bị hành trang như thế nào?”. Luận điểm tổng quát đó
được triển khai thành các luận điểm nhỏ, bao gồm:
- Vai trò của con người trong hành trang vào thế kỉ mới;
- Những mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong bối cảnh mới;
- Những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam.
Việc xác định được hệ thống, các cấp độ của luận điểm trong văn bản là một
yêu cầu cấp thiết chứng tỏ khả năng hiểu sâu, khả năng thâu tóm vấn đề và kĩ năng
tư duy logic, mạch lạc của người đọc.
Luận điểm thường được diễn tả sáng tỏ, mạch lạc dưới hình thức một câu
khẳng định hay phủ định; thường có các từ là, có, không thể, đã,...chẳng hạn
“Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới trước hết là sự chuẩn bị về mặt bản thân con
người”.
b/Về luận cứ:
Luận cứ là lí lẽ và dẫn chứng được đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Lí lẽ là
những đạo lí, lẽ phải được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là sự
vật, sự việc, số liệu, nhân chứng, bằng chứng,...để chứng minh, làm sáng tỏ, xác

nhận cho luận điểm. Dẫn chứng phải tiêu biểu, xác thực, đáng tin cậy, không thể
bác bỏ. Lí lẽ và dẫn chứng phải đáng tin cậy mới làm cho luận cứ vững chắc. Luận
cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu mới làm cho luận điểm có sức thuyết phục.
Chẳng hạn trong Nước Đại Việt ta (Ngữ văn 8), Nguyễn Trãi viết:
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

7

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...
Hai câu đầu là lí lẽ, nêu lên một nguyên lí đã được đúc kết, được thừa nhận,
hai câu sau là dẫn chứng. Trong quá trình đọc hiểu văn bản nghị luận, để phân
tích, đánh giá được tính đúng đắn của luận điểm, tính chặt chẽ, sắc bén của lập
luận thì việc xác định, phân tích luận cứ là một thao tác hết sức quan trọng và cần
thiết.
c/Về lập luận:
Lập luận là cách nêu lên luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho
luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Luận điểm được xem như kết luận
của lập luận.
Lập luận bao gồm các cách suy lí (quy nạp, diễn dịch), phân tích, chứng
minh, phản bác, bình luận, so sánh, tổng hợp, sao cho luận điểm đưa ra là hợp lí,
không thể bác bỏ. Lập luận thể hiện trong cách viết đoạn văn và trong cách tổ

chức bài văn. Mở bài cũng có lập luận, thân bài và kết bài đều có lập luận. Có lập
luận mới đưa ra được luận điểm như là kết luận của nó.
Ví dụ, luận điểm trung tâm của văn bản Chiếu dời đô (Ngữ văn 8) là: “Việc
định đô”.
Để đi đến luận điểm ấy, tác giả phải làm sáng tỏ câu hỏi: Tại sao phải dời đô
về Thăng Long?

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

8

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Và tác giả đã lập luận rõ ràng:
- Dời đô là hợp với mệnh trời;
- Hai nhà Đinh, Lê không dời đô là không theo mệnh trời;
- Thành Đại La là nơi có đủ ưu thế để trở thành kinh đô đất nước.
Để đánh giá cái hay, sức thuyết phục của văn bản nghị luận tất yếu phải
phân tích, đánh giá, chứng minh được mức độ chặt chẽ, sắc bén của lập luận và sự
hợp lí của các cách thức lập luận mà các tác giả đã lựa chọn.
4/ Bố cục, kết cấu trong văn bản nghị luận:
Trong văn bản nghị luận, tính chặt chẽ, logic của kết cấu văn bản là tiêu chí
thứ nhất. Để gây ấn tượng nghệ thuật, để tạo cho tác phẩm nhiều hàm nghĩa hoặc
để thể hiện dụng ý nghệ thuật của mình, tác giả truyện ngắn hay tiểu thuyết có thể
bắt đầu câu chuyện từ kết thúc rồi mới đến diễn biến,...còn đối với văn bản nghị
luận, sáng tạo nào của người viết cũng phải nằm trong khuôn khổ nguyên tắc kết

cấu chung của văn bản nghị luận - đó là tính logic, chặt chẽ. Kết cấu của văn bản
nghị luận thường được triển khai theo một hệ thống luận điểm, luận cứ, trình tự
lập luận nhất định nhằm từng bước giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề. Thông thường,
luận điểm trước là sự chuẩn bị cơ sở cho luận điểm sau, luận điểm sau tiếp thu và
phát triển kết quả của luận điểm trước để đi đến luận điểm cuối và cũng là kết luận
của toàn bài. Nhìn chung, có thể khái quát bố cục, trình tự lập luận của các văn
bản nghị luận như sau:
Phần thứ nhất: Mở đầu, thường là trình bày cơ sở, tiền đề lí luận, vai trò, vị
trí của vấn đề được đem ra bàn luận.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

9

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Phần thứ hai: Khảo sát, phân tích tình hình thực tiễn, thực trạng của vấn đề
được đem ra bàn luận.
Phần thứ ba: Bàn luận, phủ định hoặc khẳng định một quan điểm, tư tưởng
lập trường, thái độ; đề ra những chủ trương, giải pháp, biện pháp để khắc phục đối
với vấn đề được đem ra bàn luận.
Phần thứ ba: Khẳng định, kết luận hoặc lời kêu gọi hành động.
5/ Ngôn ngữ, giọng điệu:
Nếu đặc trưng của tác phẩm văn chương hình tượng là tính hình tượng, gợi
cảm, gọt giũa, đa nghĩa thì đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ tác phẩm nghị luận là
tính chính xác. Để thuyết phục người đọc, phải viết lên sự thật, bởi bản thân sự

thật có sức thuyết phục mạnh hơn tất cả. Do vậy ngôn từ phải chính xác. Chính
xác đến từng cung bậc và sắc thái. Bên cạnh đó, giọng điệu chính trong văn bản
nghị luận là giọng phân tích, bình luận khẳng định hoặc bác bỏ. Nếu tác phẩm văn
chương hình tượng có thể phản ánh một cách phong phú, đa dạng các cung bậc
cảm xúc tinh tế của đời sống tâm hồn, tình cảm của con người từ yêu thương, giận
hờn, mộng mơ, hi vọng đến cảm giác cô đơn, buồn tủi, sầu muộn,...thì do đặc
trưng về thể tài, ngữ điệu trong văn bản nghị luận thường được tập trung ở các sắc
thái: khảng khái, dõng dạc, tự tin, hùng hồn, thống thiết, đanh thép.
6/ Tính chất đối thoại của văn bản nghị luận:
Trước hết, văn bản nghị luận viết ra nhằm để đối thoại, tranh luận về một
vấn đề nào đó đang đặt ra trong cuộc sống, chính vì vậy, văn bản nghị luận luôn
luôn hướng tới một đối tượng người nghe nhất định (tuy nhiên, trong văn nghị
luận, chủ yếu là đối thoại ngầm). Về mặt cú pháp, trong văn bản nghị luận thường

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

10

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

có một tỉ lệ câu nghi vấn hoặc câu có tính chất nghi vấn nhiều hơn các loại văn
bản văn chương hình tượng khác.
Ví dụ: Hịch tướng sĩ là cuộc đối thoại giữa chủ tướng và các tướng sĩ, trong
đó có rất nhiều câu hỏi trực tiếp.
Hay Nước Đại Việt ta là một đoạn đối thoại gián tiếp với quân xâm lược
nhằm khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.

Hiểu được tính chất đối thoại của văn bản, xác định được mục đích, đối
tượng giao tiếp của văn bản là điều vô cùng quan trọng trong quá trình đọc – hiểu
văn bản.
****************************************
Chương II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng
văn chương chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ đến
văn nghị luận. Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến
những tư tưởng cao siêu, trừu tượng, lập luận khó, diễn đạt khô nên không hấp
dẫn. Do vậy mà văn chương nghị luận rất ít được đưa vào chương trình phổ thông.
Mặt khác, mảng văn chương nghị luận này còn rất nghèo về đề tài, chưa phong
phú về thể loại.
Trong quá trình dạy, giáo viên lại thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm
toát nên những quan điểm tư tưởng các các tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình
thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì thế việc dạy học các tác phẩm nghị luận
thường khô, không hấp dẫn đối với học sinh nên dẫn đến tình trạng học sinh chán
học, học một cách chống đối, hời hợt.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

11

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Trên thực tế cả ở thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ
rất lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước,

thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước, mà còn rất gần
gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay. Vì thế cụm văn bản nghị luận
được tuyển chọn dạy trong chương trình Ngữ văn THCS hiện rất phong phú về đề
tài và đa dạng về thể loại. Đây là một trong sáu kiểu văn bản (miêu tả, tự sự, biểu
cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính - công vụ). Phần văn bản nghị luận dành
cho đọc – hiểu chiếm một khối lượng đáng kể trong chương trình. Văn bản nghị
luận trong sách giáo khoa THCS được phân loại như sau:
- Phân bố số lượng văn bản nghị luận theo từng lớp:
Phân bố số lượng văn bản nghị luận trong SGK Ngữ văn THCS
Lớp
Tổng số văn bản
Trung đại
Hiện đại
Nước ngoài
7
7
0
7
0
8
6
4
2
1
9
4
0
2
2
Tổng

17
4
11
3
- Phân loại văn bản nghị luận theo nội dung:
Theo sự phân chia này, văn bản nghị luận chia thành hai loại:
+ Nghị luận chính trị xã hội
+ Nghị luận văn học

Lớp
7

Phân loại văn bản nghị luận trong SGK Ngữ văn THCS
Nghị luận chính trị xã hội
Nghị luận văn học
- Sự giàu đẹp của tiếng Việt
- Tục ngữ về thiên nhiên và lao

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

12

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

động sản xuất
- Tinh thần yêu nước của nhân dân - Tục ngữ về con người và xã hội

ta
- Đức tính giản dị của Bác Hồ

- Ý nghĩa văn chương

- Những trò lố hay là Va-ren và
Phan Bội Châu
- Chiếu dời đô

- Đi bộ ngao du

- Hịch tướng sĩ
8

- Nước Đại việt ta
- Bàn luận về phép học
- Thuế máu
- Bàn về đọc sách

9

- Tiếng nói của văn nghệ

- Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ - Chó sói và cừu trong thơ ngụ
mới

ngôn của La Phông-ten

Thực tế giảng dạy của trường: Trường THCS Trần Hưng Đạo nằm ở trung
tâm thị trấn Chũ nên trình độ nhận thức của các em học sinh cũng khá nhanh nhạy.

Nhưng để cho các em có thể lĩnh hội được kiến thức cơ bản và cảm nhận được
chất văn, tính nghị luận trong mỗi văn bản nghị luận lại không phải là điều dễ
dàng. Vậy làm thế nào để học sinh có thể nhận thức, lĩnh hội được một lượng kiến
thức văn học nhất định và hơn nữa, qua các văn bản nghị luận các em có thể học
tập, rèn những kĩ năng sống, xác lập được một tư tưởng, quan điểm, hoặc hướng
tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống như thế nào đó là điều mà bản
thân tôi và đồng nghiệp chúng tôi luôn suy nghĩ, trăn trở. Xuất phát từ thực tiễn
trên, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ của mình: Làm thế nào để dạy văn bản nghị
luận có hiệu quả nhất?

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

13

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy xem xét khả năng giáo dục học
sinh qua các giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận.
-Thứ nhất, bồi dưỡng cho học sinh ý thức, trách nhiệm đối với cuộc sống;
nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội.
Chẳng hạn, Bàn luận về phép học (Ngữ văn 8) của tác giả Nguyễn Thiếp
được viết từ thế kí XVIII nhưng những gì tác phẩm đề cập tới là vấn đề bức xúc
của xã hội ta ngày nay. Bài tấu này giúp người đọc, người nghe xác định rõ mục
đích chân chính của việc học, tác hại của lối học hình thức, cầu danh lợi và gợi mở
một số phương pháp, biện pháp, hình thức học có hiệu quả. Đây là vấn đề hết sức
gần gũi, có khả năng tác động trực tiếp đến động cơ, phương pháp học của học

sinh.
Như vậy, nếu khai thác đúng đắn và sâu sắc những giá trị nội dung tư tưởng
trong tác phẩm nghị luận sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, nhận
thức và quan điểm, thái độ tích cực đối với cuộc sống cho học sinh.
-Thứ hai, rèn luyện cho học sinh khả năng ứng xử nhanh nhạy trước những
vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống; phát triển tư duy logic, tư duy sáng
tạo.
Giống như các văn bản nhật dụng, đọc - hiểu các văn bản nghị luận là một
dịp để học sinh được trải nghiệm, được đặt mình vào các tình huống thực ở ngoài
đời. Thông qua cách đặt và giải quyết vấn đề của tác giả, học sinh có thể học được
cách ứng xử nhanh nhạy, bản lĩnh, sự tự chủ, lập trường kiên định, cách thể hiện
quan điểm thái độ trước những vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống của
mình, của quê hương, làng xóm của mình.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

14

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc THCS, việc thể hiện bản lĩnh, chủ
kiến của mình trước mọi điều trong cuộc sống là một vấn đề khó khăn . Trong môi
trường học áp đặt, các em càng có ít cơ hội được thể hiện quan điểm, bản lĩnh của
mình. Do đó, qua những giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận, học sinh có dịp để thể
hiện bản lĩnh, tinh thần tự chủ trước đời sống cũng như được rèn luyện, nâng cao
năng lực tư duy logic và sáng tạo.


Chương III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, bám sát đặc điểm, phương pháp dạy
học văn bản nghị luận, thông qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi xin đề xuất một số
phương pháp dạy học, thể cụ thể như sau:
1. Tái hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại tạo nên tác phẩm:
Chúng ta biết rằng, mỗi văn bản nói chung, văn bản nghị luận nói riêng
thường được ra đời (có xuất xứ) trong những tình huống, hoàn cảnh khá đặc biệt.
Điều dễ gây được sự tò mò, hứng thú của học sinh chính là những chi tiết xúc
động về tác giả, những câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến tác phẩm,... Do đó,
để tạo tâm thế cho học sinh sẵn sàng đi vào tác phẩm, người thầy cần tái hiện sinh
động không khí lịch sử, thời đại đã sản sinh ra tác phẩm. Cũng giống như việc xây
dựng “Biểu tượng lịch sử” trong việc giảng dạy môn Lịch sử, việc tái hiện không
khí sẽ tạo được sự hứng thú để học sinh tham gia vào đọc - hiểu văn bản.
Ví dụ những câu chuyện về không khí chiến thắng giặc Minh vang dội khi
dạy Nước Đại Việt ta (Ngữ văn 8), những câu chuyện kể về Nguyễn Thiếp mấy lần
từ chối lời mời của vua Quang trung khi dạy Bàn luận về phép học (Ngữ văn
8),...chắc chắn sẽ thu hút mạnh mẽ trí tò mò, sự thích thú, độ tập trung chú ý của
học sinh.
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

15

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Bên cạnh việc sử dụng các câu chuyện, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh

để tái hiện không khí lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, khi công nghệ thông tin vô
cùng phát triển, việc tìm kiếm tranh ảnh phù hợp với nội dung một bài dạy không
phải là khó, chính vì vậy, kết hợp giữa câu chuyện lịch sử với kênh hình, học sinh
sẽ có hứng thú học tập hơn rất nhiều.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Thuế máu (Ngữ văn 8). Để làm rõ tội ác của thực
dân Pháp, GV có thể kết hợp đưa kênh hình với tư liệu trong văn bản :

Trên thực tế, phương pháp này không phải là mới nhưng có lúc, có chỗ
chúng ta chưa coi trọng đúng mức khâu này.
2. Đọc, tóm tắt văn bản nghị luận:
a. Đọc văn bản nghị luận:
Hoạt động đọc chính là con đường quan trọng nhất để đến với một tác phẩm
văn học. Việc dạy học văn bản nghị luận cũng như vậy. Tuy nhiên, không giống
với đọc các văn bản tự sự, trữ tình, tác phẩm văn chương hình tượng thường có
tính mơ hồ, đa nghĩa, tính mở. Thông tin trong văn bản văn chương chủ yếu là
thông tin hình tượng, hình ảnh, cảm xúc,...Do đó, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm;

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

16

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

quan điểm, thái độ, tình cảm của tác giả càng được bộc lộ kín bao nhiêu thì tác
phẩm càng trở nên ý nhị, sâu sắc bấy nhiêu.
Ngược lại, đặc điểm cơ bản của văn nghị luận là: các tư tưởng, quan điểm,

thái độ của người viết phải được xác lập, thể hiện một cách rõ ràng, trực tiếp qua
ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu. Thông tin trong văn bản nghị luận chủ yếu là
thông tin lí lẽ. So với văn bản văn chương hình tượng, ngôn ngữ trong văn bản
nghị luận có tính khách quan, chính xác, tính đơn nghĩa tương đối. Chẳng hạn,
mục đích chính khi đọc các văn bản nghị luận như Tiếng nói của văn nghệ, Phong
cách Hồ Chí Minh (Ngữ văn 9),...là để thu thập thông tin, lí lẽ, để biết được tiếng
nói của văn nghệ có giá trị như thế nào trong cuộc sống? Phong cách Hồ Chí Minh
được thể hiện ở những phương diện nào?...từ đó xác định cho mình một quan
điểm, thái độ và hành động cần có trước những vấn đề được đặt ra.
Khi đọc văn bản nghị luận cần phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng văn
bản (không có yêu cầu nghiệm ngặt như đọc văn bản văn chương hình tượng).
Không thể đọc như đọc diễn cảm văn chương các văn bản Bàn về đọc sách,
Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới (Ngữ văn 9),...Ngược lại, phải kết hợp với đọc
diễn cảm, phải thể hiện cảm xúc chủ quan và thay đổi ngữ điệu đọc nhằm bắt
trúng giọng điệu của tác giả khi đọc các văn bản Hịch tướng sĩ (Ngữ văn 8), Thuế
máu (Ngữ văn 8),...
Khi hướng dẫn học sinh đọc đúng cũng có nghĩa là bước đầu đã hướng học
sinh đến cái đích của việc đọc - hiểu văn bản nghị luận.
b. Tóm tắt văn bản nghị luận:
Trên thực tế giảng dạy, Giáo viên mới chỉ quan tâm nhiều đến việc tóm tắt
một văn bản tự sự (chủ yếu là truyện), còn đối với văn bản nghị luận thì việc tóm
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

17

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo


tắt thực sự chưa được chú ý nhiều. Mặc dù tóm tắt văn bản chưa phải là khái quát,
nhưng đối với văn bản nghị luận, để tóm tắt phải biết khái quát ở một mức độ nhất
định. Do đó, rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt cũng chính là rèn kĩ năng khái quát.
Hơn nữa, dung lượng văn bản nghị luận thường dài, lại chủ yếu là thông tin, lí lẽ,
lập luận. Vì thế, để học sinh dễ ghi nhớ, dễ vận dụng khi đọc - hiểu trong dạy học,
cần rèn cho học sinh thao tác tóm tắt văn bản nghị luận.
Khi tóm tắt văn bản nghị luận, cần tuân theo cách thức, biện pháp sau:
Do đặc trưng thể loại, khi tóm tắt văn bản nghị luận, ta có thể tóm tắt theo
bố cục bài văn, cụ thể: theo hệ thống các luận điểm, luận cứ và theo trình tự lập
luận của tác giả. Có thể vận dụng hai hình thức tóm tắt văn bản nghị luận như sau:
Tóm tắt thành dàn ý:
Ví dụ: tóm tắt văn bản Tiếng nói của văn nghệ (Ngữ văn 9).
1) Nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ
- Tác phẩm nghệ thuật lấy chất liệu ở thực tại đời sống khách quan nhưng
không phải là sự sao chép đơn giản mà khi sáng tạo một tác phẩm, nghệ sĩ gửi vào
đó một cách nhìn, một lời nhắn nhủ của riêng mình.
- Tác phẩm văn nghệ không cất lên những lí thuyết khô khan mà chứa đựng
tất cả những say sưa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng của nghệ sĩ...
- Nội dung văn nghệ còn là rung cảm và nhận thức của người tiếp nhận.
2) Giải thích tại sao con người cần đến tiếng nói của văn nghệ.
- Văn nghệ giúp cho chúng ta được sống đầy đủ hơn, phong phú hơn với
cuộc đời và với chính mình.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

18

Năm 2017- 2018



Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

- Trong những trường hợp con người bị ngăn cách với cuộc sống, tiếng nói
của văn nghệ sẽ là sợi dây buộc chặt họ với cuộc đời bên ngoài.
- Tác phẩm văn nghệ hay giúp cho con người vui lên, biết rung cảm và biết
ước mơ trong cuộc đời còn lắm vất vả, cực nhọc.
3) Con đường văn nghệ đến với bạn đọc và khả năng kỳ diệu của nó.
- Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật là kỳ diệu
bởi đó là tiếng nói của tình cảm, tác động tới mỗi con người qua những rung cảm
sâu xa từ trái tim.
Tóm tắt thành một văn bản hoàn chỉnh, ngắn gọn.
Ví dụ: Hịch tướng sĩ (Ngữ văn 8)
Từ xưa đến nay, các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước đời nào cũng
có, ví như Kỉ Tín, Do Vu, Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang,...
Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc. Lòng ta đau xót, quên
ăn, quên ngủ; căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu phải
chết trăm nghìn lần ta cũng cam lòng.
Ta đối với các ngươi rất ân tình. Nhưng các ngươi nhìn thấy chủ nhục mà
không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu
quân giặc mà không biết tức. Hoặc ham mê những thú vui tầm thường. Nếu giặc
tràn sang, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, lúc bấy giờ hậu quả thật khôn lường.
Nay các ngươi phải lo huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên để người người
đều giỏi, có thể bêu đầu giặc. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ để tiếng thơm
muôn đời.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo


19

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Nay ta soạn Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi chăm chỉ chuyên tập sách
này thì mới phải đạo thần chủ, bằng không tức là kẻ nghịch thù...
Việc hướng dẫn học sinh tóm tắt văn bản phải được duy trì thường xuyên,
có như vậy các em mới nắm chắc các thao tác, cách thức tóm tắt và nhớ các ý cơ
bản trong một văn bản nghị luận.
3. Phát hiện, khái quát luận đề, luận điểm và phân tích luận đề, luận
điểm:
a. Phát hiện, phân tích luận đề:
Xác định luận đề trước khi vào đọc - hiểu chi tiết là để việc phân tích luận
điểm, luận cứ, lập luận không tản mạn, vụn vặt. Đối với văn bản, đoạn trích, đề tài
thường thể hiện ở nhan đề tác phẩm, tên văn bản. Vì vậy, để khái quát luận đề, bên
cạnh việc đọc toàn bộ văn bản, Giáo viên cần hướng học sinh vào tiêu đề của văn
bản, đoạn trích.
Chẳng hạn, Chiếu dời đô, Bàn về phép học (Ngữ văn 8), Bàn về đọc sách
(Ngữ văn 9),...
Các câu hỏi thường dùng để phát hiện, phân tích luận đề, như sau:
(?)Theo em, văn bản này bàn luận vấn đề gì? Hoặc
(?)Luận đề của văn bản này là gì?
(?)Tác giả bàn về vấn đề này nhằm mục đích gì? Hoặc
(?)Vấn đề được đem ra bàn luận có ý nghĩa, tầm quan trọng như thế nào?
b. Phát hiện, phân tích, khái quát luận điểm:

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân

Trường THCS Trần Hưng Đạo

20

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Trọng tâm của việc phân tích và dạy học văn bản nghị luận là luận điểm,
luận cứ, luận chứng, lập luận. Việc phát hiện, khái quát và phân tích luận điểm vừa
là đầu mối vừa là mục tiêu quan trọng của một giờ đọc - hiểu văn bản nghị luận.
Quá trình phát hiện, khái quát luận điểm là quá trình đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi: “Viết văn bản (phần, đoạn) này, tác giả nhằm khẳng định điều gì?" Nói
cách khác, để phát hiện được luận điểm, phải trả lời được câu hỏi “Quan điểm, chủ
trương của tác giả về vấn đề này như thế nào?”
Chẳng hạn: Đoạn thứ nhất trong Chiếu dời đô, tác giả lí giải vấn đề gì?
Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát hiện, tóm tắt, khái quát các ý thành luận
điểm không hề dễ, đặc biệt là với đối tượng học sinh Trung tâm. Để khái quát
được luận điểm phải qua thao tác tìm tòi, phát hiện, phân tích,...Do đó, tùy vào nội
dung từng bài, từng đoạn, phần cụ thể mà giáo viên phải có những cách thức, câu
hỏi cụ thể để dẫn dắt, gợi ý học sinh từng bước phát hiện, phân tích và khái quát
luận điểm.
4. Lấy ví dụ, dẫn chứng tiêu biểu ngoài văn bản để phân tích, làm sáng
tỏ luận điểm:
1. Như chúng ta đã nói, văn bản nghị luận là văn bản thông tin, lí lẽ, lí lẽ
đó thường được chứng minh bằng những dẫn chứng tiêu biểu. Nhưng
ở một số văn bản khác, dẫn chứng trong bài còn hạn chế là cho việc
dạy học hết sức khó khăn (hoặc là ít dẫn chứng cụ thể, hoặc có dẫn
chứng nhưng do phong cách ngôn ngữ, hành văn nên dẫn chứng cũng

rất khái quát, khó hiểu đối với học sinh. Để học sinh hiểu, giải thích,
phân tích được các luận cứ, luận điểm cần phải lấy thêm ví dụ ngoài
văn bản.
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

21

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

2. Ví dụ, trong văn bản Tiếng nói của văn nghệ (Ngữ văn 9), Nguyễn
Đình Thi viết “Mỗi một tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta
một thứ ánh sáng riêng”. Để có thể giải thích cho học sinh lớp 9 hiểu
được luận điểm cơ bản này là một điều hết sức khó khăn. Phải lấy
thêm các ví dụ từ các tác phẩm nghệ thuật để chứng minh:
3. Một tác phẩm nghệ thuật lớn là tác phẩm có giá trị về nội dung, nghệ
thuật.
4. Tác phẩm ấy mang đến cho mỗi người một nhận thức riêng về vẻ đẹp
cuộc sống được phản ánh...
5. Để kiểm tra khả năng hiểu của học sinh và cũng là tạo điều kiện để
các em có thể thực hành, vận dụng, sáng tạo, giáo viên có thể yêu cầu
các em lấy thêm ví dụ. Một giờ đọc- hiểu văn bản nghị luận như vậy
sẽ nhẹ nhàng, lí thú và hiệu quả hơn.
5. Liên hệ với thực tế:
Chương trình thay sách giáo khoa Ngữ văn với quan điểm xóa bỏ khoảng
cách quá xa giữa văn học nhà trường với đời sống xã hội, gắn tác phẩm với đời
sống cá nhân học sinh. Cùng với các văn bản nhật dụng, các văn bản nghị luận

được lựa chọn góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa quan điểm trên. Kể cả
các văn bản nghị luận trung đại đã cách xa chúng ta nhiều thế kỉ, song những vấn
đề mà tác phẩm đặt ra vẫn có ý nghĩa thời sự đối với thời đại chúng ta.
Ví dụ, Chiếu dời đô (Ngữ văn 8) vẫn luôn là bài học mới mẻ về ý thức,
trách nhiệm của một người đứng đầu đất nước trước đời sống của muôn dân và sự
vững mạnh, phồn thịnh của một quốc gia. Hay Bàn luận về phép học (Ngữ văn 8)

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

22

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

phê phán lối học hình thức, cầu lợi danh, lối học tủ, học lệch,... - những vấn đề
nhức nhối, bức xúc trong xã hội ta ngày nay.
Để tổ chức một giờ học thực sự sinh động, có ý nghĩa giáo dục, Giáo viên
cần hướng mối quan tâm của học sinh vào các vấn đề có ý nghĩa thiết thực với đời
sống hôm nay, tổ chức cho học sinh trao đổi, tranh luận về những vẫn đề phức tạp.
Chẳng hạn:
(?)Từ lối học xưa, em có suy nghĩ gì về mục đích và phương pháp học của
chúng ta ngày nay? (Bàn luận về phép học).
Liên hệ thực tế như vậy giúp học sinh hiểu tác phẩm hơn, vừa gắn với thực
tế, vừa tạo điều kiện cho các em bộc lộ quan điểm, tư tưởng, chính kiến riêng, qua
đó góp phần hình thành “kĩ năng sống”, bản lĩnh đối mặt với những vấn đề đang
đặt ra trong cuộc sống.
6. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm khi dạy đọc – hiểu văn bản

nghị luận:
Trong dạy học Ngữ văn, làm việc theo nhóm là một hoạt động học tập tích
cực đã được nhiều giáo viên thực hiện thành công. Đây cũng là một trong những
kĩ năng quan trọng mà mỗi nhà trường cần hình thành cho học sinh.
Trong dạy học hợp tác, học sinh được tổ chức thành từng nhóm một cách
phù hợp (nhóm theo số lượng hay nhóm theo tính chất); được giao nhiệm vụ cụ
thể; được khuyến khích trao đổi, thảo luận, hướng dẫn hợp tác với nhau để cùng
giải quyết một nhiệm vụ học tập, qua đó, giúp các em chiếm lĩnh được kiến thức,
hiểu thấu đáo vấn đề và phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo.

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

23

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

Với môn Ngữ văn, hoạt động nhóm là môi trường thuận lợi để học sinh
cùng nhau bàn bạc những vấn đề về nội dung, ý nghĩa một văn bản văn học, phân
tích ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật văn bản, là biện pháp tích cực để khai thác
những hướng khác nhau trong cảm nhận văn chương. Hoạt động nhóm có thể
được tổ chức dưới nhiều hình thức cụ thể, chẳng hạn:
- Tóm tắt văn bản, tác phẩm theo nhóm
- Đọc sáng tạo, sắm vai theo nhóm
- Thảo luận, tranh luận theo nhóm
- Giải thích, cắt nghĩa theo nhóm
- Luyện tập theo nhóm

- Ngoại khóa theo nhóm
- Điều tra, khảo sát thực tế theo nhóm,...
Tuy nhiên, trên thực tế đối với học sinh Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục
hòa nhập trẻ khuyết tật tỉnh Yên Bái, chỉ có thể áp dụng hoạt động nhóm ở một số
hình thức:
- Tóm tắt văn bản, tác phẩm theo nhóm
- Thảo luận, tranh luận theo nhóm
- Giải thích, cắt nghĩa theo nhóm
- Luyện tập theo nhóm
Khi các em học sinh tham gia vào hoạt động nhóm (đặc biệt là đối với học
sinh khuyết tật), các em sẽ xóa đi phần lớn các mặc cảm đồng thời phát triển các
quan hệ xã giao, các kĩ năng giao tiếp cá nhân như nghe, nói, tranh luận; rèn luyện
khả năng hợp tác, tương hỗ và giúp các em tự tin hơn. Bên cạnh đó, hoạt động
nhóm sẽ khuyến khích sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Ngoài
ra, hoạt động nhóm dựa trên nguyên tắc dân chủ và tương hỗ nên tất cả học sinh từ
Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

24

Năm 2017- 2018


Đề tài: Dạy và học văn bản nghị luận trong SGK Ngữ Văn lớp 8,9 tại trường THCS Trần Hưng Đạo

khá, giỏi, trung bình, yếu kém, học sinh bình thường, học sinh khuyết tật đều có
thể tham gia.
Trong thực tế, việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đôi lúc, đôi chỗ
chưa thực sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, máy móc, tùy tiện, lệch lạc,
như giờ học lộn xộn, ồn ào; nội dung thảo luận, thời gian thảo luận không phù hợp

với khả năng của học sinh,...khiến cho giờ học Ngữ văn trở nên rời rạc,...Như
vậy , hoạt động nhóm chỉ thực sự có hiệu quả khi mục đích được xác định rõ ràng,
tất cả các em đều được tham gia vào quá trình đọc- hiểu một cách tích cực; nội
dung thảo luận phải phù hợp, bám sát nội dung, gợi hứng thú cho học sinh. Đây
chính là nguyên tắc khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học Văn nói chung, dạy
học văn bản nghị luận nói riêng.
Thời gian giành cho hoạt động nhóm, số lượng các thành viên trong
nhóm,...phụ thuộc vào mức độ yêu cầu cảu câu hỏi, bài tập, có thể chia thành các
nhóm lớn hoặc nhỏ.
Chẳng hạn, đối với hoạt động nhóm lớn khi khai thác văn bản Chiếu dời đô
(Ngữ văn 8):
(?)Tác giả cho rằng, dời đô là hợp với mệnh trời. Vậy “mệnh trời” ở đây
nghĩa là gì? Phải chăng “vâng mệnh trời” là vâng theo mệnh lệnh của một đấng
thần linh tối cao vạn năng nào đó?
Hoặc
(?)Lẽ ra, kết thúc bài chiếu phải là một mệnh lệnh, vì chiếu là để ban bố
mệnh lệnh. Nhưng kết thúc Chiếu dời đô lại là một câu hỏi. Cách kết thúc như vậy
có làm hỏng giá trị và chức năng của bài chiếu hay không? Vì sao?

Người thực hiện: Trần Thị Như Xuân
Trường THCS Trần Hưng Đạo

25

Năm 2017- 2018


×