Tải bản đầy đủ (.pdf) (288 trang)

Một số biểu trưng trong ca dao việt nam”(nhóm chất liệu biểu trưng là thế giới các hiện tượng thiên nhiên) ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.94 MB, 288 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÙY VÂN

MỘT SỐ BIỂU TRƢNG TRONG CA DAO VIỆT NAM
(NHÓM CHẤT LIỆU LÀ THẾ GIỚI CÁC HIỆN TƢỢNG
THIÊN NHIÊN)
CHUYÊN NGÀNH : LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62

22 02 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS MAI NGỌC CHỪ
2. PGS.TS CẨM TÖ TÀI

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu thống kê, kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong
bất kì công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NGUYỄN THÙY VÂN



1

Trang
Danh mục các chữ viết tắt

4
5
6

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

13

1.1. Tổng quan về ca dao Việt Nam

13

1.1.1. Khái niệm ca dao

13

1.1.2. Ngôn ngữ ca dao

14

1.1.3. Kết cấu ca dao

15

1.2. Biểu trƣng và những khái niệm liên quan


16

1.2.1. Khái niệm biểu trưng

16

1.2.2 Khái niệm tín hiệu ngôn ngữ

20

1.2.3 Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ

22

1.2.4 Mối quan hệ giữa biểu trưng và tín hiệu thẩm mĩ

23

1.2.5 Quan hệ giữa nghĩa biểu trưng và nghĩa gốc

25

nh hình thành nghĩa biểu trƣng trong ca dao Việt Nam

26

1.4. Các khái niệm "thiên nhiên" và "tự nhiên"

28


Tiểu kết chƣơng 1

30

CHƢƠNG 2: Ý NGHĨA BIỂU TRƢNG CỦA TỪ CHỈ THẾ GIỚI

31

THỰC VẬT TRONG CA DAO VIỆT NAM
2.1. Bức tranh tổng quan về từ chỉ thực vật trong ca dao Việt Nam

31

2.2. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ hoa trong ca dao Việt Nam

34

2.2.1. Khái quát về ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa trong ca dao

34

2.2.1.1. Biến thể của biểu trưng hoa trong ca dao

36

2.2.1.2. Mối quan hệ của ý nghĩa biểu trưng hoa trong ca dao Việt

37


Nam
2.2.2. Ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ biểu thị một số loài hoa trong

39


2

ca dao Việt Nam
2.2.2.1. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa đào

40

2.2.2.2. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa sen

44

2.2.2.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa hồng

47

2.2.2.4. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa lan, hoa huệ

49

2.2.2.5. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa cúc

52

2.2.2.6. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa nhài


53
55

2.3.1. Khái quát về ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ cây trong ca dao Việt Nam
2.3.2. Ý ng

một số loài cây trong ca dao Việt Nam

55
57

2.3.2.1. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ trầu- cau

57

2.3.2.2. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ cây tre

59

2.3.2.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ cây lúa

60

2.3.2.4. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ trúc, mai

62

2.3.1.5. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ cây đa


63

Tiểu kết chƣơng 2

65

CHƢƠNG 3: Ý NGHĨA BIỂU TRƢNG CỦA TỪ CHỈ THẾ GIỚI

66

ĐỘNG VẬT TRONG CA DAO VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về biểu trƣng của từ chỉ thế giới động vật trong

66

ca dao Việt Nam
3.2. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ thế giới côn trùng trong ca dao Việt Nam

76

3.2.1. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ ong, bướm

78

3.2.2. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ con tằm

80

3.3. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ thế giới loài cá trong ca dao Việt Nam


81

3.4. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ thế giới loài chim trong ca dao Việt Nam

85

3.4.1. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ én

88

3.4.2. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ nhạn

90

3.4.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ loài cò

93

3.4.4. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ chim loan

101


3

3.4.5. Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ chim phượng

102

3.5. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ các loài thú trong ca dao Việt Nam


106

3.5.1 Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ các loài thú nuôi trong ca dao Việt Nam

106

3.5.2 Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ các loài thú hoang trong ca dao Việt Nam

115

Tiểu kết chƣơng 3

118

CHƢƠNG 4:Ý NGHĨA BIỂU TRƢNG CỦA TỪ CHỈ THẾ GIỚI

119

CÁC HIỆN TƢỢNG TỰ NHIÊN TRONG CA DAO VIỆT NAM
4.1 Bức tranh tổng quan về từ chỉ các hiện tƣợng tự nhiên trong ca

119

dao Việt Nam
4.2.

119

đến nƣớc

4.3. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ trăng

126

4.4. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ mƣa

129

4.5. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ gió
4.6. Ý nghĩa biểu trƣng của từ chỉ núi
Tiểu kết chƣơng 4

132
134
136
137
142


4

VÀ KÍ HIỆU
1. Cái biểu đạt: CBĐ
2. Cái đƣợc biều đạt: CĐBĐ
3. H,: Hà Nội
4. Nxb: Nhà xuất bản
5. [88, tr.76]: Tài liệu số 88 trên thƣ mục, trang 76.
6. (1,690): Số 1 là tập 1 Kho tàng ca dao ngƣời Việt, 690 là số trang



5

Trang
1: Lược đồ đơn giản ký hiệu học hàm nghĩa
2.1:

27
31
32
33
33
56
67
119

120
m
127
129
132
134


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT VÀ Ý NGHĨA KHOA HỌC
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ca dao là viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian nói riêng và văn hóa
dân gian Việt Nam nói chung. Từ xa xƣa những câu từ trong các bài ca dao đã ăn

sâu vào tâm hồn ngƣời Việt. Có thể nói, ca dao là nơi lƣu giữ văn hóa và tinh thần
dân tộc. Chính vì vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ca dao Việt Nam.
Nghiên cứu ca dao, ngƣời ta có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, trong
đó đáng chú ý là những nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa dân gian và ngôn ngữ học.
Trong phạm vi ngôn ngữ học, việc nghiên cứu ca dao nói riêng và thơ ca nói chung
xƣa nay thƣờng đƣợc xem xét từ mặt cấu trúc ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp). Và những nghiên cứu ấy đã mang lại những thành quả đáng kể trong việc
làm sáng tỏ cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ ca dao nói riêng và thơ ca nói chung.
Tuy nhiên nếu chỉ xem xét ca dao thuần túy về mặt cấu trúc thì chƣa đủ. Nhắc
đến ca dao, ngƣời ta không thể không nói đến cách nói “bóng gió” mang tính chất
liên tƣởng. Những hình ảnh nhƣ cái cò, cái vạc, cái nông, cây đa, bến nƣớc, rồi
trăng sao, mây núi, hoa trái, …xuất hiện rất nhiều. Nói một cách khoa học, biểu
trƣng của các từ ngữ trong ca dao đã góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho những
áng ca dao bất hủ của dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ ca dao, chúng ta không
thể không chú ý đến các biểu trƣng.
Việc nghiên cứu biểu trƣng của các từ ngữ trong ca dao sẽ góp phần làm sáng
tỏ nhiều vấn đề của thi pháp học nói chung và thi pháp trong ca dao nói riêng.
Biểu trƣng thực chất là các tín hiệu thẩm mỹ xét từ góc nhìn ngôn ngữ học.
Dƣới hình thức là một loại thơ dân gian thì ca dao mang đặc điểm của một tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ, cần đƣợc tiếp cận dƣới góc độ thẩm mỹ, nhằm khám phá những
khía cạnh hình tƣợng, biểu tƣợng, các tín hiệu nghệ thuật nhƣ các tác phẩm văn
chƣơng khác. Vì vậy nghiên cứu biểu trƣng trong ca dao cũng sẽ góp phần làm sáng
tỏ những vấn đề về tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mỹ.


7

Xuất phát từ những vấn đề nhƣ trên chúng tôi mạnh dạn lựa chọn “Một số biểu
trưng trong ca dao Việt Nam”(nhóm chất liệu biểu trưng là thế giới các hiện
tượng thiên nhiên) làm đối tƣợng nghiên cứu của mình với mong muốn đƣa ra một

cách nhìn hoàn thiện hơn về nhóm biểu trƣng này trong ca dao ngƣời Việt.
1.2. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm ý nghĩa biểu
trƣng và giá trị biểu trƣng của những từ ngữ đƣợc sử dụng trong ca dao Việt Nam
(thuộc nhóm chất liệu biểu trƣng là thế giới các hiện tƣợng thiên nhiên).
Qua kết quả thống kê, phân tích, miêu tả, luận án sẽ cho đƣợc một bức tranh
toàn cảnh, toàn diện và hệ thống về ý nghĩa biểu trƣng của các từ ngữ chỉ thế giới
các hiện tƣợng thiên nhiên trong ca dao Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao chất
lƣợng giảng dạy văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng trong nhà trƣờng.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài cũng sẽ đóng góp nhất định trong việc giữ
gìn và phát triển văn hóa dân tộc.
Biểu trƣng, nhất là biểu trƣng trong ca dao Việt Nam đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu Ngữ Văn quan tâm.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu biểu trƣng và biểu trƣng trong ca dao Việt Nam, có
thể tạm phân thành hai xu hƣớng: Xu hƣớng truyền thống chỉ nghiên cứu các sự vật
hiện tƣợng đƣợc dùng để biểu trƣng trong ca dao và xu hƣớng gần đây nghiên cứu
sâu hơn về biểu trƣng và những khái niệm liên quan.
Xem xét biểu trƣng trong ca dao, Nguyễn Văn Nở đã có một phát hiện thú vị,
đó là việc so sánh thân em với những sự vật, hiện tƣợng hay loài hoa ít đƣợc để ý, ít
đƣợc tôn trọng, làm nổi bật sự thấp kém của phụ nữ trong xã hội trƣớc đây. Tác giả
kết luận "Cùng một đối tượng, người ta có thể so sánh với rất nhiều hình ảnh khác
nhau qua sự liên tưởng phát hiện đầy sáng tạo của tác giả dân gian. Đối tượng
người phụ nữ, và đặc biệt là thân phận của họ là một trong những ví dụ tiêu biểu. Ở
mỗi miền, mỗi vùng “Thân em...” lại hiện lên với những hình ảnh khác nhau, phản


8

ánh một cách nhì

trong cách phô diễn. Sự thống nhất về mặt cấu trúc, sự phong phú đa dạng về hình
ảnh liên tưởng đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về thân phận
người phụ nữ trong xã hội xưa" [85 , 23].
Bàn về những biểu trƣng cụ thể trong văn học dân gian nói chung và ca dao
Việt Nam nói riêng còn có hàng loạt bài viết, chẳng hạn Ý nghĩa biểu trưng của hệ
biểu tượng con số trong ca dao người Việt của Nguyễn Thị Duyên, Hoa hồng trong
ca dao của Nguyễn Phƣơng Châm, Biểu tượng "nước" trong thơ ca dân gian và thơ
ca hiện đại các dân tộc ít người của Nguyễn Thị Thanh Lƣu, v.v.
Trần Văn Nam trong công trình Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ đã nêu
đƣợc đặc trƣng cơ bản của các biểu trƣng trong ca dao Nam Bộ đồng thời bƣớc đầu
chỉ ra đƣợc một số khác biệt so với ca dao Bắc Bộ. Điển hình là khác biệt giữa biểu
trƣng cầu trong ca dao Bắc Bộ và Nam Bộ.
Ngoài những bài viết giới thiệu những biểu trƣng cụ thể, trong những năm
gần đây đã có một số luận án tiến sĩ Ngữ Văn thuộc các chuyên ngành văn học dân
gian và ngôn ngữ học đề cập đến khái niệm biểu trƣng và biểu trƣng trong ca dao
Việt Nam. Đây là những nghiên cứu sâu và rất có giá trị.
Nguyễn Thị Kim Ngân, Trần Thị Diễm Thúy và Đặng thị Diệu Trang đều
đề cập đến thiên nhiên trong ca dao. Nếu nhƣ Nguyễn Thị Kim Ngân đề cập đến
thiên nhiên nói chung thì Trần Thị Diễm Thúy bàn về Thiên nhiên trong ca dao trữ
tình Nam Bộ còn Đặng thị Diệu Trang thì đề cập đến Thiên nhiên trong ca dao trữ
tình đồng bằng Bắc Bộ. Những công trình này đều đã để lại những dấu ấn riêng và
chủ yếu tiếp cận vấn đề từ góc độ văn hóa dân gian.
Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt là tên luận án tiến sĩ của
Đỗ Thị Hòa. Tác giả đã miêu tả khá chi tiết các đặc điểm hình thái biểu hiện của
thế giới động vật trong ca dao, hệ thống hóa các từ ngữ định danh động vật và các
dạng kết cấu, các thủ pháp nghệ thuật chủ yếu của các bài ca dao có hình tượng
loài vật. Tác giả cũng đặt ra và tìm hiểu cách ứng xử với môi trƣờng xã hội và tự
nhiên đƣợc phản ánh vào thế giới động vật trong các bài ca dao có hình tƣợng loài



9

vật, đồng thời cố gắng phân tích những cơ sở hiện thực tạo nên các giá trị biểu trƣng
của thế giới động vật trong ca dao cổ truyền của ngƣời Việt và giải mã các giá trị
biểu trƣng của các lớp, các loài vật cụ thể đƣợc phản ánh vào ca dao.
Trƣơng Thị Nhàn trong luận án phó tiến sĩ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các
tín hiệu thẩm mỹ - không gian trong ca dao

tín hiệu chƣa chuyển mã, tín hiệu nguyên c
, tính tác động, tính
tái hiện, tính biểu cảm, tính biểu trƣng, tính trừu tƣợng và cụ thể, tính truyền thống
và cách tân, tính hệ thống, tính cấp độ.
Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong luận án tiến sĩ ngữ văn Biểu tượng nghệ thuật
trong ca dao truyền thống người Việt đã bƣớc đầu tiến hành phân loại, miêu tả và
tìm hiểu hệ thống biểu tƣợng nghệ thuật trong ca dao từ nhiều phƣơng diện nhƣ:
nguồn gốc và con đƣờng hình thành biểu tƣợng, sự vận động của biểu tƣợng trong
từng chỉnh thể đơn vị hoặc nhóm đơn vị ca dao. Công trình nghiên cứu của tác giả
đã góp phần nghiên cứu sâu sắc hơn về thi pháp ca dao, về đặc trƣng của các loại ca
dao. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc.
Tiếp thu thành tựu nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu của mình theo hƣớng tiếp cận ngôn ngữ học nghĩa là nghiên cứu ý
nghĩa biểu trƣng của các từ ngữ chỉ hiện tƣợng thiên nhiên. Để tránh trùng lặp với
các công trình đã công bố, ngƣời viết tập trung vào những biểu trƣng chƣa đƣợc các
tác giả đi trƣớc khai thác hoặc mới chỉ nói đến một cách sơ lƣợc. Hy vọng kết quả
của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cái hay, cái đẹp của ca dao Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Thông qua việc thống kê phân loại các từ ngữ biểu thị các hiện tƣợng thiên
nhiên trong kho tàng ca dao ngƣời Việt, luận án tìm hiểu ý nghĩa biểu trƣng của



10

chúng. Từ đó xây dựng nên một bức tranh toàn cảnh về giá trị biểu trƣng của các tín
hiệu chỉ các hiện tƣợng thiên nhiên đƣợc sử dụng trong ca dao Việt Nam.
Xác định ý nghĩa, giá trị thẩm mỹ của các từ ngữ biểu trƣng trong ca dao,
qua đó làm rõ đƣợc đặc trƣng văn hóa tƣ duy của ngƣời Việt qua hệ thống ý nghĩa
biểu trƣng.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác lập khung lí thuyết liên quan đến vấn đề biểu trƣng nói chung và biểu
trƣng trong ca dao nói riêng.
- Thống kê các từ ngữ biểu thị các hiện tƣợng tự nhiên trong kho tàng ca dao
ngƣời Việt qua đó xác định các đơn vị từ vựng đƣợc sử dụng với ý nghĩa biểu trƣng
thuộc thuộc thế giới thiên nhiên đƣợc sử dụng trong ca dao Việt Nam.
- Miêu tả phân tích các ý nghĩa biểu trƣng đƣợc thể hiện qua các từ ngữ biểu
thị các hiện tƣợng thiên nhiên trong kho tàng ca dao.
- Tập trung nghiên cứu cụ thể, toàn diện (nghiên cứu trƣờng hợp) một số từ
ngữ biểu thị các hiện tƣợng thiên nhiên thể hiện nhiều ý nghĩa biểu trƣng và mang
đậm nét đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là các ý nghĩa biểu trƣng (sau đây gọi tắt là
biểu trƣng) của các từ ngữ chỉ các hiện tƣợng thiên nhiên trong ca dao Việt Nam.
Nhóm 1: Nhóm từ ngữ chỉ thế giới thực vật
Nhóm 2: Nhóm từ ngữ chỉ thế giới động vật
Nhóm 3: Nhóm từ ngữ chỉ các hiện tƣợng tự nhiên.
4.2. Phạm vi và tƣ liệu khảo sát
Ở luận án này, chúng tôi khảo sát biểu trƣng của các từ ngữ biểu thị thế giới
thiên nhiên trong cuốn Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan
Đăng Nhật chủ biên.



11

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp thống kê là một trong số những phƣơng pháp nghiên cứu chính
xác. Kết quả của việc thống kê cho phép ngƣời nghiên cứu đƣa ra những kết luận,
những khái quát phù hợp với chân lí, hoặc tăng thêm sự thuyết phục cho những giả
thiết, suy luận (khi chƣa đủ cứ liệu để kết luận).
Việc sử dụng phƣơng pháp thống kê cho phép chúng tôi tính toán đƣợc số
lần xuất hiện của các biểu trƣng, qua đó nhận biết đƣợc vị trí của biểu trƣng trong
thể loại ca dao, trong tâm thức dân gian, nhận biết đâu là những biểu trƣng đƣợc ƣa
thích nhất, phổ biến nhất.
5.2. Phƣơng pháp miêu tả
Quan sát, miêu tả ngôn ngữ nhƣ một hệ thống- cấu trúc ở mọi bình diện, cấp
độ, thuộc tính... của các đơn vị ngôn ngữ, những mối liên hệ, quan hệ, cách thức tổ
chức và trật tự tôn ti... của chúng theo quan điểm hoặc trƣờng phái (quan điểm
truyền thống, cấu trúc, cải biến tạo sinh, tầng bậc, chức năng, tri nhận...) trên
nguyên tắc:
a) Phân biệt đơn vị ngôn ngữ (khách quan) và đơn vị phân tích (chủ quan do
ngƣời nghiên cứu đặt ra).
b) Phân biệt đơn vị ngôn ngữ (chung, khái quát) và các dấu hiệu thuộc tính của nó.
5.3. Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa
Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa là tiến hành phân tích mối quan hệ bình diện
hệ thống – cấu trúc và bình diện hoạt động, chỉ ra sự khác nhau giữa nghĩa bản thể
và nghĩa liên hội, nghĩa sự vật – logic và nghĩa biểu trƣng, sự biến đổi ý nghĩa theo
cả trục đồng đại và lịch đại. Nhƣ vậy khi xem xét biểu trƣng trong ca dao cần so
sánh đối chiếu các yếu tố trên trục hệ hình để thấy rõ hƣớng nghĩa biểu trƣng của
từng yếu tố dựa trên những đặc điểm tƣơng đồng và khác biệt.

5.4 . Phƣơng pháp tiếp cận kí hiệu học (sémiotique):
Phƣơng pháp tiếp cận kí hiệu học giúp phân tích đặc trƣng mối quan hệ giữa
cái biểu trƣng và cái đƣợc biểu trƣng, các cấp độ của cái đƣợc biểu trƣng; Phân loại


12

các ý nghĩa biểu trƣng đƣợc thể hiện qua các tín hiệu ngôn ngữ biểu thị các hiện
tƣợng tự nhiên trong kho tàng ca dao ngƣời Việt, đồng thời phân tích quá trình
chuyển biến các nghĩa biểu trƣng của các tín hiệu ngôn ngữ thể hiện thế giới tự
nhiên trong ca dao.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung vào các kết quả nghiên cứu
về ý nghĩa biểu trƣng đƣợc thể hiện trong ca dao ngƣời Việt nói chung, hệ thống ý
nghĩa biểu trƣng đƣợc thể hiện qua các đơn vị từ vựng chỉ các hiện tƣợng thiên
nhiên trong kho tàng ca dao ngƣời Việt nói riêng.
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ đặc điểm biểu trƣng của các hiện
tƣợng thiên nhiên trong kho tàng ca dao ngƣời Việt, qua đó thấy đƣợc những đặc
thù về văn hóa và tƣ duy của ngƣời Việt.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào việc giảng dạy, nghiên
cứu văn học dân gian nói chung, ca dao ngƣời Việt nói riêng theo cách tiếp cận từ
hƣớng ngôn ngữ học.
Kết quả nghiên cứu còn có thể đƣợc sử dụng cho việc nghiên cứu, biên soạn từ
điển biểu tƣợng trong kho tàng ca dao Việt Nam.
7. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4
chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí luận

Chương 2:Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thế giới thực vật trong ca dao
Việt Nam
Chương 3: Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thế giới động vật trong ca
dao Việt Nam
Chương 4: Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thế giới các hiện tượng tự
nhiên trong ca dao Việt Nam


13

CHƢƠNG 1

1.1. Tổng quan về ca dao Việt Nam
1.1.1. Khái niệm ca dao
Thuật ngữ ca dao (歌謠) là một từ Hán Việt, theo nghĩa nguyên gốc, ca (歌)là bài
hát có chƣơng khúc, giai điệu; dao (謠) là bài hát ngắn, không có giai điệu, chƣơng
khúc, đã từng đƣợc dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Trong Từ điển thuật
ngữ văn học

: “Theo

nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu” [91,
tr.16] và một thời gian ca dao đƣợc hiểu là “danh từ chung chỉ toàn bộ những bài
hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu”[91, tr.26]. Theo
cách hiểu từ khái niệm này thì ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Trong thực tế thì khái niệm ca dao đã dần dần có sự thu hẹp nội hàm. Hiện nay
các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam “dùng danh từ ca dao để chỉ riêng
thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng
đệm tiếng láy, tiếng đưa hơi)”. Với nghĩa này thì ca dao là bộ phận chủ yếu và quan
trọng nhất của thơ dân gian truyền thống.

Trong Từ điển Tiếng Việt thì Ca dao đƣợc định nghĩa là “Thơ ca dân gian
truyền miệng dưới hình thức những câu hát, không theo một điệu nhất định”. Hoặc
có thể hiểu“Thể loại văn vần, thường làm theo thể lục bát, có hình thức giống như
ca dao cổ truyền” [90, tr.16]. Ở đây, đối tƣợng xem xét của chúng tôi là ca dao theo
cách hiểu thứ nhất.
Cách hiểu về ca dao nhƣ vừa trình bày đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận. Ngay cả
trong các nền văn hóa khác nhƣ Anh và Pháp ngƣời ta cũng quan niệm tƣơng tự về Ca
dao (petit chanson populaire, Tiếng Pháp; và trong tiếng Anh Proverb hoặc Folkssong)“Ca dao là câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian” .
Theo Vũ Ngọc Phan thì “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được
như những thể loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca” [88, tr.76].


14

Nguyễn Xuân Kính cho rằng “ca dao không có nghĩa là toàn bộ những câu
hát của một loại dân ca nào đó (như hát trống quân, hát quan họ, hát ghẹo…) khi
tước đi tiếng đệm tiếng láy, tiếng đưa hơi” mà “Ca dao là những sáng tác văn
chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc
điểm nhất định và bền vững về phong cách”. [54, tr.79]
Phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ và các mối quan hệ gia
đình, xã hội. Ngoài ra, ca dao còn đề cập đến các hiện tƣợng thiên nhiên, những
kinh nghiệm sản xuất và đấu tranh, …
1.1.2. Ngôn ngữ ca dao
Ngôn ngữ ca dao mang đậm tính chất ngôn ngữ dân tộc. Nhờ biết dựa vào
ngôn ngữ dân tộc, khai thác sử dụng ngôn ngữ dân tộc mà ca dao dân gian Việt
Nam rất giàu bản sắc. Thêm nữa, chính ca dao lại tác động ngƣợc trở lại ngôn ngữ
dân tộc, để củng cố và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Văn học dân gian vốn có tính
dân tộc, tính tập thể, và tính truyền miệng nên vừa thống nhất, vừa đa dạng. Vì vậy
mà hai khuynh hƣớng dân tộc hóa và địa phƣơng hóa luôn diễn ra song song và tác
động lẫn nhau. Ngôn ngữ ca dao cũng vậy, vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang

sắc thái địa phƣơng. Chúng ta nhận thấy dấu ấn văn hóa vùng miền nhờ vào ngôn
ngữ địa phƣơng. Ca dao Bắc Bộ thì nhẹ nhàng tình tứ.
Thí dụ:
Người về em chẳng cho về,
Em nâng vạt áo, em đề câu thơ.
Ca dao Nam Bộ thì bộc lộ một cách rõ ràng, bộc trực, dứt khoát.
Thí dụ:
Anh về em nắm vạt áo em la làng,
Anh bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em…

tiếp thông thƣờng không thể nào diễn đạt đƣợc. Ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn
ngữ giàu sắc thái biểu cảm, tính chất biểu tƣợng, ƣớc lệ, tƣợng trƣng, ẩn dụ….


15

1.1.3 Kết cấu của ca dao
- Kết cấu một vế đơn giản: Đây là dạng kết cấu nội dung của lời vốn là một ý
lớn do các phán đoán tạo thành. Thí dụ:
Dốc bồ thương kẻ ăn đong,
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
(1, 699)
A: Dốc bồ thương kẻ ăn đong.
B: Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
Cả hai phán đoán A, B đều nhằm diễn đạt cái ý đồng cảm với những ngƣời
cùng cảnh ngộ với mình.
- Kết cấu hai vế tương hợp: Dạng này thƣờng xuất hiện trong hát đối đáp. Nội
dung gồm hai ý lớn có thể tƣơng hợp. Thí dụ:
Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
(1, 255)
Ngƣời con trai ƣớm hỏi cô gái và cô gái trả lời. Dạng kết cấu này chiếm hầu
hết trong kho tàng ca dao, dân ca nhất là mảng đề tài về tình yêu đôi lứa và tình cảm
gia đình.
- Kết cấu nhiều vế nối tiếp: Kết cấu nhiều vế nối tiếp nhau là nội dung của lời
gồm nhiều ý nối tiếp nhau. Thuộc dạng này có hai loại. Một loại thì giữa các ý
không có mối liên hệ mạch lạc. Một loại giữa các vế không chỉ gắn bó về vần mà
còn đƣợc liên hệ chặt chẽ về nội dung.


16

1.2. Biểu trƣng và những khái niệm liên quan
1.2.1. Khái niệm biểu trưng
Biểu trưng, biểu tượng, tượng trưng là những thuật ngữ thuộc về nhiều
ngành khoa học khác nhau nhƣ tâm lí học, văn hóa học, tín hiệu học, ngôn ngữ học.
Hệ thống khái niệm này đƣợc dùng với nội hàm nhƣ sau:
Biểu tượng văn hóa: Vật thể, hình ảnh, ý niệm, hành động v.v mang tính chất
tiêu biểu, đặc thù cho mọi nền văn hóa, có thể chuyển hóa qua nhiều bình diện khác
nhau: tín ngƣỡng, phong tục tập quán, sinh hoạt, giao tiếp, sáng tạo nghệ thuật.
Trong phạm vi văn hóa Việt thì trống đồng là một biểu tƣợng văn hóa, rồng, tiên
vừa là hình ảnh, vừa là ý niệm, một cặp biểu tƣợng văn hóa đặc thù trong tâm thức
ngƣời Việt.
Biểu tượng ngôn ngữ: Biến thể của biểu tƣợng văn hóa trong phạm vi đời sống
ngôn ngữ, bao gồm ngôn ngữ văn học. Chẳng hạn các từ ngữ nhƣ cá, chim, cá nước
chim trời, bóng chim tăm cá chính là các yếu tố ngôn ngữ mang tính biểu trƣng
trong tiếng Việt.
Biểu trưng, tượng trưng: Biểu trƣng là cách lấy một sự vật, hiện tƣợng nào đó

để biểu hiện có tính chất tƣợng trƣng, ƣớc lệ một cái gì đó khác mang tính trừu
tƣợng. Đó là hiện tƣợng khá phổ biến và quen thuộc đối với các dân tộc và phản
ánh quan niệm ngây thơ dân gian của mỗi tộc ngƣời đôi khi đƣợc cố định hóa trong
ngôn ngữ. Khi một sự vật, hiện tƣợng có giá trị biểu trƣng thì nó sẽ gợi lên trong ý
thức ngƣời bản ngữ sự liên tƣởng khá bền vững [106, tr 145].
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm“Biều trưng”, biểu trƣng tồn tại
rộng khắp trong các nền văn hóa và đời sống tinh thần.
Nguyễn Văn Nở giải thích về hai chữ “Biểu trưng” trong cuốn “Biểu trưng
trong tục ngữ Người Việt” nhƣ sau, “Biểu trưng (symbole: tiếng Pháp; symbol:
tiếng Anh) là một khái niệm rất quen thuộc và được sử dụng trong nhiều ngành
khoa học. Nó có nguồn gốc từ tiếng Latin (symbolus) nghĩa là dấu hiệu. Ở Việt Nam
thuật ngữ này được dịch là biểu trưng hoặc biểu tượng. Theo chúng tôi biểu trưng
và biểu tượng không đồng nhất. Nghĩa biểu trưng mang tính lâm thời, nghĩa là ở


17

những ngữ cảnh khác nhau nó có thể có nghĩa khác nhau; còn biểu tượng có tính cố
định” [86, tr. 41].
Về thuật ngữ biểu trƣng, tác giả “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” cho
biết lịch sử của nó nhƣ sau: “Khởi nguyên, biểu tượng (symbole) là một vật được
cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi bên giữ một phần, chủ và
khách, người cho vay và người đi vay, hai kẻ hành hương, hai kẻ sắp chia tay lâu
dài…Sau này ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối thân tình xưa, món nợ
cũ, tình bạn ngày trước. Ở người Hi Lạp thời cổ đại, biểu tượng còn là những dấu
hiệu để cha mẹ nhận ra con cái bị lưu lạc. Bằng lối loại suy, từ được mở rộng
nghĩa, chỉ các tấm thẻ, cầm chúng thì có thể lĩnh lương, phụ cấp hay thực phẩm; chỉ
mọi dấu hiệu tập hợp, chỉ các điềm triệu hay quy ước. Biểu tượng chia ra và kết
hợp lại với nhau, nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp; nó gợi lên ý một cộng
đồng, đã bị chia cắt và có thể tái hình thành. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu

hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối
kết những phần của nó đã bị vỡ ra” [52, tr.23].
Với tƣ cách là một hệ thống kí hiệu, ngôn ngữ cũng là những biểu trƣng. Chất
liệu biểu trƣng là cái nằm bên ngoài; vật mà nó biểu trƣng lại nằm sâu trong nội
tâm. Ngôn ngữ biểu trƣng là ngôn ngữ dùng để diễn đạt kinh nghiệm nội tại; nó hầu
nhƣ là sự thể nghiệm cảm quan đó; nó là một vật nào đó do ảnh hƣởng của thế giới
vật lí tác động đến chúng ta. Ngôn ngữ biểu trƣng là ngôn ngữ nhƣ sau: thế giới bên
ngoài là biểu trƣng cho thế giới nội tại; là biểu trƣng cho linh hồn và tâm linh.
Theo Erich Fromm [37, tr.24] “biểu trưng có ba loại (dịch giả dùng chữ “biểu
trưng”): Biểu trƣng mang tính chất tập quán; biểu trƣng mang tính chất ngẫu nhiên
và biểu trƣng phổ biến. Theo đó, biểu trƣng mang tính chất tập quán là ngôn ngữ sử
dụng hằng ngày. Giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt của loại biểu trƣng này
không có mối quan hệ nội tại. Biểu trƣng mang tính chất ngẫu nhiên cũng thế.
Nhƣng nếu với biểu trƣng mang tính chất tập quán ai cũng có thể hiểu đƣợc (đối với
cộng đồng ngôn ngữ đó) thì biểu trƣng mang tính chất ngẫu nhiên chỉ có ngƣời nào
đã tham gia vào sự việc có liên quan với vật biểu trƣng mới có thể hiểu đƣợc còn


18

ngƣời khác thì không. Trong khi đó, với biểu trƣng mang tính chất phổ biến thì giữa
cái biểu trƣng và cái mà nó đại diện có mối quan hệ nội tại. Biểu trƣng phổ biến là
loại biểu trƣng mà quan hệ giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt nhất trí với nhau
trong nội tại chứ không phải ngoại tại. Biểu trƣng phổ biến bám rễ sâu trong thân
thể, ý thức và tâm linh của mỗi ngƣời; nó không giới hạn trong một cá nhân hay
một nhóm ngƣời nào. Tuy nhiên có điều cần phải thấy rằng, trong các nền văn hóa
khác nhau, một số biểu trƣng có ý nghĩa hiện thực khách quan vì vậy chúng có ý
nghĩa khác nhau. Về mặt biện chứng, biểu trƣng phổ biến chịu sự quyết định của sự
khác nhau về điều kiện tự nhiên. Nét khác nhau này tạo nên hiện tƣợng: tại các khu
vực khác nhau trên trái đất, một biểu trƣng nào đó có ý nghĩa khác nhau. Có một

tình hình rất khác với phép biện chứng của biểu trƣng nói trên, rất nhiều vật biểu
trƣng, mỗi cái có nhiều ý nghĩa khác nhau; bởi vì, mỗi cái lại có nhiều kinh nghiệm
gắn liền với một hiện tƣợng tự nhiên nào đó, hoặc gắn liền với một hiện tƣợng tự
nhiên tƣơng tự. Ý nghĩa biểu trƣng trong bất kì tình huống đƣợc xác định nào, cũng
chỉ có thể đƣợc quyết định bởi toàn bộ bối cảnh khi xuất hiện vật biểu trƣng, cũng
có nghĩa, chịu sự quyết định của kinh nghiệm mang tính chất chi phối của ngƣời
vận dụng vật biểu trƣng.
Trong quyển “Ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ” Wallace L. Chafe cho rằng:
“Biểu trưng là khi một cái gì đó trong thế giới tư tưởng và khái niệm biến thành
một cái gì đó có khả năng trở thành cái cầu bắc các vực ngăn cách vật phát và vật
thu” [118, tr.28].
Ở Việt Nam, khi đề cập đến biểu trƣng, các nhà nghiên cứu cũng đã đƣa ra
nhiều cách hiểu về thuật ngữ này. Chẳng hạn Bùi Khắc Việt , trong bài“Về tính
biểu trưng của thành ngữ trong Tiếng Việt” cho biểu trưng thể hiện ở chỗ từ “hình
ảnh hoặc sự việc, sự vật cụ thể được miêu tả trong tự nhiên là nhằm nói về ý niệm
khái quát” [116, tr.28] và ông hiểu “tính biểu trƣng khác với tính hình ảnh”, tuy vậy
hình ảnh cũng có vai trò gợi cho ta ý niệm về nội dung. Hà Công Tài thì cho rằng:
“Nói đến biểu trưng tức là nói đến hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan. Đó
là hình ảnh sao chép lại nguyên sơ các hiện tượng do cảm giác khác nhau như thị


Luận án đầy đủ ở file: Luận án Full






×