Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.25 KB, 30 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM KON TUM
KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON
------

BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO
TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA TRẠNG
NGUYÊN, THÀNH PHỐ KON TUM.

Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN THỊ CÚC
Sinh viên thực hiện: HUỲNH THỊ NGỌC HƯƠNG
TRƯƠNG NGUYỄN THU HIỀN
Lớp

: K21 GDMN A

- Kon Tum, 29/ 11/ 2017 -


LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa giáo dục
mầm non Trường CĐSP Kon Tum, và quý cô trường mầm non Hoa Trạng Nguyên,
đặc biệt vô cùng biết ơn cô Nguyễn Thị Cúc đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ chúng
em hoàn thành bài tập và qua bài tập này cô đã cho em biết nhiều kinh nghiệm, kĩ
năng cũng như có những hành trang vững chắc để bước tiếp trên con đường sự
nghiệp “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”
Xin chúc các thầy cô giáo sức khỏe, kính chúc cô Nguyễn Thị Cúc tiếp tục
đạt được nhiều thành công lớn trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Kon tum, ngày 29 tháng 11 năm 2017
Nhóm sinh viên thực hiện
Huỳnh Thị Ngọc Hương


Trương Nguyễn Thu Hiền


LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng chúng em và
được sự hướng dẫn khoa học của cô Nguyễn Thị Cúc. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào chúng em xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung bài tập lớn của mình.

Nhóm sinh viên thực hiện
Huỳnh Thị Ngọc Hương
Trương Nguyễn Thu Hiền


MỤC LỤC
Lời cam đoan.............................................................................................................i
Lời cảm ơn................................................................................................................ii
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................2
3. Đối tượng xây dựng khách thể..............................................................................2
4. Các nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
6. Giả thuyết khoa học...............................................................................................3
7. Đóng góp mới của đề tài........................................................................................3
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO
1.1. Sơ lược quá trình nghiên cứu về tính tự lập của trẻ ở Việt Nam........................4

1.2. Một số vấn đề lý luận về tính tự lập của trẻ mẫu giáo........................................4
1.2.1. Khái niệm tính tự lập.......................................................................................4
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ 3 đến 4 tuổi...................................................5
1.2.3. Biểu hiện tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 đến 4 tuổi.........................................6
1.2.4. Nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ ở trường mẫu giáo 3 đến 4 tuổi trong
chương trình giáo dục mầm non................................................................................9
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tự lập của trẻ 3 đến 4 tuổi..............................9
* TÓM TẮT CHƯƠNG I........................................................................................10
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LẬP CỦA TRẺ MẪU GIÁO 3 - 4
TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA TRẠNG NGUYÊN
2.1. Biểu hiện về tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 đến 4 tuổi thông qua các họat động
vui chơi ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên.....................................................11


2.2. Phân tích thực trạng tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 đến 4 tuổi ở trường mầm
non Hoa Trạng Nguyên...........................................................................................13
2.2.1 Biểu hiện tự lập giữa trẻ trai và trẻ gái ở trường mầm non Hoa Trạng
Nguyên....................................................................................................................13
2.2.2 Biểu hiện tính tự lập thông qua các họat động ở trường mầm non Hoa Trạng
Nguyên....................................................................................................................15
* TÓM TẮT CHƯƠNG II.......................................................................................17
CHƯƠNG III – MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ
MẪU GIÁO TỪ 3 ĐẾN 4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA TRẠNG
NGUYÊN
3.1 Cơ sở đề xuất các biện pháp..............................................................................18
3.2 Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ từ 3 đến 4 tuổi ở trường
mầm non Hoa Trạng Nguyên..................................................................................19
C. KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
1. Kết luận...............................................................................................................23
2. Kiến nghị.............................................................................................................24

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục của mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát
triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền
tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi dậy và phát triển tối
đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo.
Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ giáo dục cần chú
trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu
hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định
mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo
dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự
lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để
hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống
sau này.
Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều
sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là
nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ,
vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ,
trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên
người lớn thường “sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần
dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ.
Đối với giáo viên đa số đã nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng đắn trong giáo
dục tính tự lập cho trẻ lên ba. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành tính

tự lập cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn
quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn

1


thời gian (vì trẻ thực hiện chậm chạp, lóng ngóng vụng về..) và có tư tưởng “thà
làm quách cho xong”.
Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự lập cho trẻ nói chung và trẻ mẫu
giáo bé nói riêng giáo viên mầm non phối kết hợp với cha mẹ trẻ có những biện
pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình
thành nhân cách cho trẻ sau này. Đó cũng là lí do mà tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Tìm hiểu thực trạng giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở trường mầm
non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum”.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận về tính tự lập cho trẻ mẫu giáo.
2.2 Thực trạng giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở trường mầm
non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.
2.3 Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo từ 3 – 4 tuổi ở
trường mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.
3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở trường mầm non
Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.
4. Các nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
4.2 Tìm hiểu thực trạng giáo dục dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo từ 3 – 4 tuổi
ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.
4.3 Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo từ 3 – 4
tuổi ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Đọc tài liệu, phân tích tổng hợp, so sánh, phân loại, khái quát hóa.
5.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát.
2


- Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn.
5.3 Nhóm phương pháp toán học: Thống kê
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài được thực hiện thành công sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc
giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo từ 3 – 4 tuổi. Qua đó nâng cao hiệu quả hoạt
động giáo dục tính tự lập, góp phần vào việc hình thành các kĩ năng sống cho trẻ.
7. Đóng góp mới của đề tài
Với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ cung cấp cho người đọc
những cơ sở lý luận về tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi. Qua đó đề xuất
những biện pháp mới nhằm góp phần vào việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo từ 3 – 4 tuổi ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên.

B. NỘI DUNG
3


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO
1.1. Sơ lược quá trình nghiên cứu về tính tự lập của trẻ ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về tính tự lập của trẻ em ở
các lứa tuổi khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thanh Huyền với luận án tiến sĩ: “Các biện pháp giáo dục
tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt tại trường mầm

non”. Tác giả cho rằng chế độ sinh hoạt ở trường mầm non là sự luân phiên các
hoạt động của trẻ trong một ngày với những yêu cầu cụ thể là điều kiện cơ bản
giúp trẻ hình thành tính tự lập.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hồng Thuận: “Một số biện pháp tác động của gia
đình nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi” và luận văn thạc sĩ
“Một số biện pháp tác động của gia đình nhằm phát triển tính tự lực cho trẻ mẫu
giáo 3 – 4 tuổi” của Đỗ Thị Hồng Hạnh, đã chứng minh được vai trò của cha mẹ
trong việc giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi, cách sử dụng có hiệu
quả các biện pháp giáo dục sẽ góp phần hình thành và phát triển tính tự lập cho trẻ
mẫu giáo 3 – 4 tuổi nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Tác giả Nguyễn
Hồng Thuận đã cho rằng: tính tự lập có nhiều nét tương đồng với tính tự lực. Tuy
nhiên, tính tự lực có biểu hiện xu hướng về khía cạnh hành vi và hoạt động hơn.
Như vậy, tại Việt Nam việc nghiên cứu tính tự lập của trẻ em lứa tuổi mầm
non đã được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên của các
tác giả mới đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp giáo dục tính tự lập của trẻ ở các
lứa tuổi khác nhau, ở gia đình và trong một số các hoạt động ở trường mầm non,
chưa nghiên cứu sâu về tính tự lập của trẻ 3 – 4 tuổi thông qua họat động khác
nhau của trẻ ở trường mầm non.
1.2. Một số vấn đề lý luận về tính tự lập của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Khái niệm tính tự lập
Tự lập nghĩa là sống dựa vào chính khả năng, sức lực của bản thân mình, mà
không cần phải trông đợi, dựa dẫm vào người khác. Nhưng tự lập không có nghĩa
4


là biệt lập, không có nghĩa là chỉ biết đến mình, không nhờ vả ai. Quan trọng là
mọi sự giúp đỡ, góp ý đều có giá trị nhưng kết quả chính vẫn phải do mình tạo ra.
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ 3 – 4 tuổi
Sự hình thành cái "tôi" của trẻ: 3 – 4 tuổi là tuổi đứa trẻ bắt đầu hình thành ý
thức về bản thân mình, biết mình là con gái hay con trai, biết phân biệt mình với

thế giới xung quanh. Lúc này, trẻ đã có khả năng tự ý thức về bản thân và từ đó nảy
sinh ý muốn và hành động phân biệt mình với người khác, trẻ bắt đầu thích nghe
đánh giá và nhận xét về mình, trẻ thích được khen. Cái “tôi” của trẻ rõ ràng nhất
khi trẻ muốn tự làm mọi việc, muốn có quyền đối với mọi vật xung quanh, muốn
trở thành người lớn ngay tức khắc, không muốn can thiệp vào hoạt động của mình.
Mong muốn được làm người lớn, được độc lập là động lực thúc đẩy sự phát triển
cái “tôi” của trẻ.
Trẻ biết quan tâm nhiều hơn đến thế giới xung quanh: nếu quan sát trẻ bạn sẽ
thấy trẻ có ý thức và nhạy cảm hơn với thế giới trẻ đang sống, trẻ sẵn sàng đáp lại
tương tác của mọi người, biết chờ đợi nếu chưa đến lượt mình và chia sẻ đồ chơi
với người khác. Ý thức về thời gian của trẻ trở nên rõ ràng hơn. Trẻ thể hiện sự
quan tâm của mình thông qua việc luôn tò mò muốn tìm hiểu khám phá tính chất
của sự vật, dần dần biến cái đồ chơi đó thành môn luyện tập các kỹ năng đơn giản,
đồng thời bắt đầu biết dùng các vật thể đó làm các trò chơi theo trí tưởng tượng của
trẻ. Bé chú ý hơn đến vật dụng gia đình cùng các vật dụng xung quanh, chăm chú
hơn với những vật phát sinh ngoài cửa sổ, cử chỉ hành động của người lớn cũng rơi
vào tầm ngắm của trẻ. Nếu trẻ trở nên thích nghịch nước, trẻ có thể nghịch nước
với nhiều hình thức khác nhau hoặc thích chơi bóng như ném hoặc đá bóng, sau đó
lại nhặt lên thì có nghĩa là trẻ đang khám phá thế giới xung quanh theo cách riêng
của mình…
Trẻ đã biết cách thể hiện cảm xúc của mình: trẻ cảm thấy tự tin hơn rất nhiều,
không còn rụt rè, nhút nhát với mọi người nữa, tỏ ra cởi mở hơn ngay cả khi đối
với người lạ. Tuy nhiên điều này còn tuỳ thuộc vào cá tính của từng trẻ, trong
những tình huống quen thuộc, trẻ cảm thấy hoàn toàn thoải mái, mặc dù đôi lúc trẻ
hơi e dè, thậm chí còn chạy vù đến ôm chầm lấy cha mẹ để có cảm giác thoải mái
5


hơn. Lúc này, trẻ đã có sự tự ý thức về cảm xúc rất rõ rệt, trẻ đã biết xấu hổ khi bị
ai đó lên án. Thậm chí, bản thân trẻ có thể nhận xét về mình (thông qua nhận xét

của người lớn hoặc liên hệ với các nhân vật trong truyện). Trẻ tự ý thức hành động
của mình theo thời gian: quá khứ, hiện tai, tương lai, trẻ đã biết bày tỏ tình cảm của
mình với những người thân yêu. Giai đoạn này, có thể xuất hiện những “khủng
hoảng tuổi lên ba” ở trẻ. Trong cuốn sách “Về nhân cách trẻ 3 tuổi”, V.Keler đã
từng nhấn mạnh đợt khủng hoảng vĩ đại của một đứa trẻ với những biểu hiện có
thể có như: “ Bé trở nên tiêu cực hơn trong quan hệ xã hội với những người xung
quanh nên đôi lúc bé không chịu phục tùng một số yêu cầu của người lớn. Bé cũng
có thể ngoan cố hơn, có những phản ứng đối với những quyết định của chính mình,
thể hiện ở chỗ trẻ kiên quyết nghiêng về phía sự thoả mãn đòi hỏi của bản thân, sự
quyết định của mình. Bạn cũng cảm thấy con mình trở nên ngang ngạnh và không
vâng lời những người thân trong gia đình mình. Bé cũng có thể đột nhiên tự tiện
hơn trong hành vi, bé muốn tự mình làm điều gì đó không cần sự giúp đỡ của bố
mẹ nữa, và hướng đến sự độc lập về mặt vận động của bé. Đôi lúc bạn bị sốc thực
sự khi nghe con bạn mắng người lớn là “đồ ngốc”, hoặc bé trở nên nổi loạn trong
những tình huống cụ thể”.
1.2.3. Biểu hiện tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
- Thông qua cuộc sống sinh hoạt hằng ngày:
Trẻ 3 – 4 tuổi đã dần nhận thức được mọi thứ xung quanh, do đó tự lập đóng
vài trò quan trọng trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Khi ở nhà trẻ biết
sử dụng thìa muỗng thành thạo trong bữa ăn và làm một số việc vặt trong nhà như
lau dọn đồ chơi, tìm quần áo bẩn của mình bỏ vào chậu, tìm hai chiếc tất cùng
màu, gấp quần áo, tự mặc quần áo, tự đánh răng, chải đầu, rửa tay khi tay bẩn, tự
mặc áo khoác, đeo khẩu trang, đội mũ khi ra ngoài đường cùng người thân của
mình….Một số trẻ biết đi vệ sinh đúng nơi, xả nước sau khi đi vệ sinh, cho quần áo
bẩn vào máy giặt, bỏ rác đúng nơi quy định. Bên cạnh đó, việc giúp đỡ người khác
là một việc tốt và nên được thực hiện thường xuyên, vì vậy trẻ có thể giúp người
lớn làm những công việc nhẹ như bật quạt, bật tivi (vị trí thấp), lấy chén ăn cơm,
6



xách phụ đồ đạc, tưới cây…Mặc dù, đó chỉ là những việc vặt, nhưng sẽ giúp trẻ
hình thành các thói quen và suy nghĩ tích cực ngay từ khi còn nhỏ.
- Thông qua hoạt động vui chơi:
Hoạt động vui chơi, trong đó trò chơi đóng vai theo chủ đề tác động rất nhiều
đến trẻ. Từ đó trẻ thể hiện được tính độc lập và tập khẳng định “cái tôi” thông qua
“xã hội trẻ em” trong hoạt động vui chơi.
Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng tâm
lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thần. Chơi là để học làm
người, là để phát triển nhân cách một cách toàn diện. Với những ý nghĩa to lớn đó,
có thể khẳng định rằng: chơi cũng là cách để trẻ rèn luyện và phát huy khả năng tự
lập.
Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể hiện khả năng tự lập
của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải quyết lấy mọi tình huống,
chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của ai. Trẻ có thể tự tiến
hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng say, thích thú. Trong các hoạt động
khác cũng như trong những hoạt động có tạo ra sản phẩm, trẻ có thể tự đáp ứng tốt
yêu cầu của người lớn. Bên cạnh đó, có những trẻ lại ỷ lại vào người khác và chậm
trong quá trình hoạt động, khả năng tự hoàn thành công việc của bản thân kém,
không có sự cố gắng để vươn tới đạt được một mục đích nhất định trong vui chơi
cũng như trong công việc. Với những trẻ này, nhà giáo dục cần chú ý để có biện
pháp tác động giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự lập của trẻ trong hoạt
động vui chơi cũng như các hoạt động khác. Đây là một giai đoạn quan trọng trong
bước tiến, trên con đường hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
- Thông qua hoạt động học tập:
Học tập thể hiện qua nhiều mảng khác nhau, ở lứa tuổi 3 – 4 tuổi trẻ có xu thế
thích bắt chước người lớn về mọi mặt từ thói quen đến cách nói. Khi cô giáo giao
cho một nhiệm vụ bất kì với sự hướng dẫn cụ thể, trẻ sẽ thích thú thực hiện cho dù
kết quả có ra sao. Trẻ đáp ứng yêu cầu một cách tốt nhất mà trẻ có thể làm. Nếu
gặp khó khăn, trẻ sẽ nhờ đến sự giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên trẻ thích tự mình
làm, trẻ có thể ngồi im lặng tập trung vào việc được giao trong một thời gian khá

7


lâu để hoàn thành, hay có thể tỏ ra khó chịu khi khônglàm được hoặc vui mừng khi
đã hoàn thành. Điều này thúc đẩy được sự vươn lên trong học tập của trẻ ngay từ
nhỏ. Qua đó trẻ sẽ hình thành được nhiều khả năng như khả năng nghe, khả năng
nói, khả năng viết, khả năng nhận biết,... Tính tự lập cũng dần dần được hình thành
theo. Điều đó thể hiện qua việc thực hiện những bài tập và ôn lại bài khi về nhà...
Đấy tuy chỉ là các biểu hiện nhỏ tuy nhiên nó sẽ trở thành những tiền đề, từ đó
hình thành thói quen về tính tự lập cho trẻ.
- Hoạt động lao động ( tự phục vụ):
Lao động tự phục vụ là hình thức lao động đi vào toàn bộ cuộc sống hàng
ngày của trẻ ở trường mẫu giáo. Hình thức lao động này nhằm giữ gìn sự sạch sẽ
và ngăn nắp trong lớp học và ngoài sân trường, giúp đỡ người lớn tổ chức quá trình
sinh hoạt hàng ngày - lao động tự phục vụ nhằm phục vụ cho bản thân trẻ, và đồng
thời phục vụ cho tập thể, do đấy có khả năng to lớn để giáo dục khả năng tự lập
cho trẻ.
Ở mẫu giáo nhỏ, nội dung lao động tự phục vụ phong phú, mang tính chất
thường xuyên và phần lớn đã chuyển thành nhiệm vụ của các trẻ trực nhật. Trẻ giữ
gìn sạch sẽ lớp học, ngoài sân, sửa chữa đồ chơi, dán lại sách vở, giúp bạn hay em
nhỏ hơn mình, yếu hơn mình. Trẻ mẫu giáo nhỏ chưa biết cách tổ chức các công
việc nên luôn tỏ ra cố gắng, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt kết quả tốt, được
đánh giá cao. Điều này khẳng định khả năng tự lập của trẻ được hình thành thuận
lợi thông qua quá trình trẻ tham gia lao động tự phục vụ tại trường mầm non.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tự làm những công việc vừa sức của mình để
phục vụ cho bản thân. Các con rất hào hứng khi được giúp cô giáo những việc đơn
giản như: chuẩn bị bàn, ghế cho giờ học, giờ ăn hay tự mình sắp xếp đồ dùng ngay
ngắn để vào cặp. Trong giờ ăn, các bé được tập cách bê bát ăn cơm một cách cẩn
thận về chỗ ngồi của mình và sau khi ăn xong các bé biết tự mang bát đến khu vực
quy định.

Chính những việc làm của người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý quan sát
và ghi nhớ để thực hiện lại. Vì vậy, ngoài việc nâng cao tính tự giác, tự lập, trẻ còn
tạo dựng được tinh thần tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh.
8


Đó có thể là những hành động nhỏ trẻ có thể hỗ trợ bạn bè trong giờ học hay giờ
chơi. Đối với trẻ mới vào lớp chưa quen các kĩ năng tự phục vụ bản thân thì những
trẻ đã được học trước sẽ trở thành người hướng dẫn cho bạn mới. Những lúc như
vậy các cô giáo luôn chú ý khen ngợi, động viên, khuyến khích trẻ và trẻ luôn vui
thích và cố gắng phát huy những kĩ năng tốt này. Các cô luôn tạo điều kiện để trẻ
học những kĩ năng sống vì những trải nghiệm sẽ giúp trẻ thích ứng nhanh với môi
trường xung quanh, phát triển tính nhanh nhẹn, khả năng tư duy, ý thức tự giác và
tinh thần tập thể.
1.2.4 Nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi trong chương
trình mầm non.
Mục tiêu giáo dục mầm non, giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non nhằm giúp
trẻ phát huy khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau
này, trẻ biết được những điều nên làm và những điều không nên làm, giúp trẻ tự
giác, tự tin thể hiện được khả năng, năng lực của mình.
Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa
mãn các nhu cầu tự lập của trẻ giúp trẻ rất hứng thú tham gia các hoạt động của
lớp, và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng tự phục
vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ mọi người trở nên tốt hơn, không cần
cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự nguyện và thích thú.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tự lập của trẻ 3 – 4 tuổi.
- Yếu tố gia đình: đây là yếu tố đầu tiên cũng như tiền đề, vì gia đình là môi trường
trẻ tiếp xúc đầu tiên và thân thuộc nhất. Ở môi trường này trẻ sẽ tiếp thu và bắt
chước theo các hành động, lời nói việc làm của các thành viên khác trong gia đình.
- Yếu tố nhà trường: là môi trường trẻ tiếp xúc khi trẻ đi học, ở đây trẻ được tiếp

xúc với nhiều người, đó là bạn bè, cô giáo.... Trẻ thoải mái thể hiện mình và giao
lưu với các bạn, cô giáo, học hỏi được nhiều đức tính và thói quen tốt.
- Yếu tố xã hội: đây là yếu tố khách quan, vì xã hội lành mạnh, tốt đẹp sẽ tạo nên
nhận thức tốt đẹp ở mỗi con người, đối với trẻ cũng vậy.
* TÓM TẮT CHƯƠNG I
9


Sự tự lập của trẻ mẫu giáo phản ánh một trình độ phát triển tương đối cao của
trẻ, không chỉ về phương diện hoạt động mà còn cả phương diện ý thức và tự ý
thức. Để có được kỹ năng và thói quen tự lập, mỗi đứa trẻ phải trải qua một quá
trình học tập, rèn luyện vất vả. Quá trình này được tập từ lứa tuổi mầm non, nó
diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời con người. Giai đoạn tuổi mầm non, điển hình
là 3 – 4 tuổi được coi là giai đoạn đặt nền móng cho sự hình thành khả năng tự lập.
Ở giai đoạn này, việc giáo dục trẻ nói chung và việc giáo dục tính tự lập nói
riêng không thể tiến hành một cách tùy tiện. Sự phát triển này phải tuân theo
những quy định nhất định, phán ánh đặc điểm phát triển tâm sinh lí nói chung của
trẻ ở lứu tuổi này.

CHƯƠNG II
10


THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LẬP CỦA TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI Ở
TRƯỜNG MẦM NON HOA TRẠNG NGUYÊN
2.1 Biểu hiện về tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thông qua các họat
động vui chơi ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên.
Để tìm hiểu thực trạng giáo dục tính tự lập cho trẻ. Chúng tôi đã sử dụng hệ
thống những câu hỏi nhằm tìm hiểu về nhận thức của giáo viên về học sinh của
trường mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.

Kết quả thu được như sau:
* Về phía giáo viên:
Bảng 1: Nhận thức của giáo viên về việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo nhỏ (3 – 4 tuổi) trường mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum.

Nội dung

Việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo nhỏ 3 – 4 tuổi có cần thiết không?
Việc giáo dục tính tự lập của trẻ mẫu

Rất cần

Mức độ
Cần

thiết
SL

%

thiết
SL

4/10

40% 6/10

Ảnh hưởng


giáo nhỏ 3 – 4 tuổi có ảnh hưởng đến
quá trình phát triển của trẻ không?

SL
7/10

Không cần
thiết

%

SL

%

60%

0/10 0%

Ít ảnh

Không ảnh

hưởng

hưởng

%
SL
70% 3/10


%
30%

SL
%
0/10 0%

Nhận xét:
Để thu được bảng này chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra thăm dò ( 10
phiếu, thu lại đủ 10 phiếu). Qua quá trính xử lý phiếu chúng tôi thu được kết quả
sau:
- 60% số lượng giáo viên cho rằng việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo
bé 3 – 4 tuổi là cần thiết.
- 40% cho là rất cần thiết
11


- 0% không cần thiết
- 70% giáo viên cho rằng việc giáo dục tính tự lập của trẻ mẫu giáo bé 3 – 4
tuổi có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ.
- 30% cho rằng ít ảnh hưởng
- 0% cho rằng không ảnh hưởng
Như vậy, phần lớn giáo viên cũng nhận thức được việc giáo dục tính tự lập
cho trẻ mẫu giáo là quan trọng. Qua việc tiếp xúc trò truyện với các cô, chúng tôi
thấy, đa số đội ngũ giáo viên trong trường mầm non Hoa Trạng Nguyên có quan
tâm đến việc giáo dục tính tự lập cho các trẻ. Nhìn chung các giáo viên phụ trách
lớp đã nhận thức rõ về tầm quan trọng cũng như vai trò của việc giáo dục tính tự
lập cho trẻ. Các giáo viên chủ nhiệm lớp thường xuyên chỉ dạy cho các trẻ về các
công việc tự lập của trẻ trong mọi hoạt động, từ hoạt động đón, trả trẻ, đến các hoạt

động học tập, vui chơi, hoạt động ăn uống, vệ sinh cá nhân trước khi ăn, sau khi
ăn, hoạt động ngủ trưa. Song vẫn còn có một số giáo viên còn mang tư tưởng xem
nhẹ, chỉ coi trọng việc giảng dạy ở trên lớp, chỉ bám theo chương trình mầm non
mà chưa thực sự quan tâm đến việc lồng ghép về giáo dục tính tự lập cho trẻ trong
các hoạt động. Một số giáo viên cho rằng đó chỉ là việc của phụ huynh, phụ huynh
thì phải quan tâm đến việc chỉ dạy cho con trẻ. Đồng thời tại trường cũng tạo điều
kiện cho các giáo viên thực hiện được ý tưởng của mình, đúng với chương trình
giáo dục mầm non mà trường đề ra. Nói chung đa số đội ngũ giáo viên trong
trường đều có các biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ. Nhưng bên cạnh đó vẫn
còn một số giáo viên chưa nhận thức sâu sắc, chưa thực sự yêu quý trẻ, nên dẫn tới
chưa thể nhiệt tình chỉ dạy cho các cháu.
* Về phía học sinh:
Qua quá trình tiếp xúc, tìm hiểu một số trẻ 3 – 4 tuổi ở trường mầm non Hoa
Trạng Nguyên, chúng tôi được biết khả năng nhận thức của các trẻ tương đối tốt.
Có được điều này là nhờ ở các cô. Phần lớn các trẻ đều rất say mê, yêu thích mỗi
khi được tự mình thực hiện một công việc nào đó khi cô giáo giao cho. Các trẻ sẵn
sàng tham gia những công việc bằng khả năng có thể của mình dưới mọi hình thức
12


và dưới sự hướng dẫn của cô giáo chủ nhiệm. Song vẫn còn rất nhiều trẻ chưa nhận
thức, chưa nỗ lực tham gia vào vào các hoạt động, cũng như là các công việc mà
các cô giao cho. Nhiều trẻ còn rụt rè, nhút nhát, chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi
đứng trước đám đông. Trẻ hoàn toàn không thể tự nhớ được mà phải phụ thuộc vào
sự nhắc nhở của cô và phụ huynh. Bởi lẽ các trẻ còn quá nhỏ nên chưa ý thức được
hành vi của mình, các em phần lớn là học theo cách bắt chước giáo viên, phụ
huynh hoặc bạn bè. Vì vậy muốn trẻ nhận thức tốt thì người giáo viên cũng phải
gương mẫu trong mọi công việc, giáo viên phải là tấm gương sáng cho các trẻ. Tuy
nhiên bên cạnh những trẻ nhận thức được chiếm phần lớn thì vẫn còn tồn tại một
số phần tử chưa nhanh nhạy trong các hoạt động tự lập.

2.2. Phân tích thực trạng tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở trường mầm
non Hoa Trạng Nguyên
2.2.1 Biểu hiện tự lập giữa trẻ trai và trẻ gái ở trường mầm non Hoa Trạng
Nguyên.
Những nghiên cứu cho rằng có sự khác biệt giữa não và hormones của con
trai và con gái, như là: con gái có nhiều tế bào thần kinh hơn và nghe tốt bằng cả
hai tai, trong khi con trai lại có khuynh hướng chỉ nghe bằng một tai; con gái nhìn
hiểu tốt bằng cả hai mắt, trong khi con trai chỉ nhìn rõ ở mắt bên trái. Các nhà
nghiên cứu không cho rằng những điều này có ảnh hướng đến cách cư xử của trẻ.
Chúng ta có thể nhận ra những xu hướng khác biệt ở con trai và con gái. Các trẻ có
thể phối hợp các bộ phận cơ thể khác nhau, nhưng cũng còn tùy vào môi trường và
cách dạy. Những trẻ trai thì hiếu động gấp 4 lần bởi vì có chỉ số ADHD (chỉ số
hiếu động và tìm tòi, khám phá) nhiều hơn trẻ gái 6 lần. Nhưng những trẻ gái lại có
khả năng bắt chước cao.
Chính những đặc điểm đó đã tạo nên sự khác nhau trong quá trình nhận thức
về tự lập đối với trẻ trai và trẻ gái ở độ tuổi mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi ở trường mầm
non Hoa Trạng Nguyên. Cũng nhằm đánh giá về việc này, chúng tôi đã chọn lớp
mầm 1, trường mầm non Hoa Trạng Nguyên để tiến hành theo dõi. Kết quả thu
được như sau:
13


Bảng 2: Biểu hiện về tính tự lập giữa trẻ trai và trẻ gái lớp mầm 1, trường
mầm non Hoa Trạng Nguyên, thành phố Kon Tum ( Sỉ số: 20 trẻ, trong đó có 11 nữ
và 9 nam)
Thực hiện
Nội dung

Trẻ trai


Trẻ gái

SL

%

SL

%

Lắng nghe nhiệm vụ giáo viên giao cho.
Cố gắng thực hiện cho xong các công việc cô

9/9
6/9

45%
30%

11/11
10/11

55%
50%

giáo giao.
Bỏ dở công việc giữa chừng.

3/9


15%

1/11

5%

Nhận xét:
Qua quá trình xử lí số liệu chúng tôi thu được kết quả như sau:
- 45% số lượng trẻ trai lắng nghe nhiệm vụ giáo viên giao cho.
- 55% số lượng trẻ gái lắng nghe nhiệm vụ giáo viên giao cho.
- 30% số lượng trẻ trai cố gắng thực hiện cho xong các công việc cô giáo giao và
15% số lượng trẻ trai bỏ dở công việc giữa chừng.
- 50% số lượng trẻ gái cố gắng thực hiện cho xong các công việc cô giáo giao và
chỉ có 5% số lượng trẻ gái bỏ dở công việc giữ chừng.
→ Số lượng trẻ gái lắng nghe nhiệm vụ giáo viên giao cho nhiều hơn số lượng trẻ
trai là 10%. Số lượng trẻ gái cố gắng hoàn thành công việc cô giáo giao nhiều hơn
số lượng trẻ trai là 20%. Vì số lượng trẻ trai bỏ dở công việc giữa chừng nhiều hơn
số trẻ gái bỏ dở công việc giữa chừng là 10%.
Như vậy có thể thấy được mức độ lắng nghe và thực hiện, hoàn thành công
việc cô giáo giao cho hai nhóm thì nhóm các trẻ gái thực hiện tốt hơn so với nhóm
các trẻ trai. Từ những kết quả đó, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các trẻ đều biết
tự lập, tuy nhiên vì đặc điểm tâm lý về giới tính khác nhau đã ảnh hưởng đến mức
độ tự lập của các trẻ. Những trẻ gái hay bắt chước cô hơn, do đó các trẻ gái tự thực
hiện các công việc của cô giao cho và của bản thân trẻ với hình mẫu như là cô giáo
14


của mình, nên các trẻ gái biết tự lập hơn các trẻ trai trong mọi công việc, chỉ khi
bản thân trẻ không thực hiện được, trẻ sẽ nhờ cô hoặc các bạn trai giúp. Đối với
các trẻ trai, hiếu động, tính tò mò khám phá cao nên ít chú ý tâm đến công việc

chính mà cô giáo giao cho, dẫn tới tình trạng đang làm việc này thì bỏ dở giữa
chừng hoặc chuyển sang việc khác. Tuy nhiên không thể đánh giá các trẻ trai
không biết tự lập trong công việc, một khi các trẻ trai thực hiện công việc thì bản
thân sẽ muốn chứng minh bản lĩnh của mình, từ đó trẻ sẽ thực hiện tốt hơn các trẻ
gái nếu trẻ thực sự muốn làm. Do đó để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi giáo viên
phải có kinh nghiệm và năng lực để tạo sự tập trung cao độ của trẻ vào công việc,
làm cơ sở cho việc hình thành tính tự lập cho trẻ.
2.2.2 Biểu hiện tính tự lập của trẻ 3 – 4 tuổi thông qua các hoạt động ở trường
mầm non Hoa Trạng Nguyên
Việc giáo dục tính tự lập thông qua các hoạt động ở trường mầm non đều có ý
nghĩa giáo dục đạo đức cho các trẻ. Thông qua các hoạt động như hoạt động vui
chơi, hoạt động học tập và hoạt động lao động tự phục vụ hình thành cho trẻ những
kĩ năng cần thiết. Trong quá trình quan sát chúng tôi đã nhận thấy như sau:
- Trong hoạt động vui chơi:
+ Trò chơi với đồ vật đồ chơi: Khi trẻ hoạt động với đồ vật đồ chơi, trẻ rất thích
thú và say mê với các đồ vật. Khi tham gia một tiết học với đồ vật đồ chơi, hầu hết
các trẻ đều tự lấy đồ chơi cho mình, phù hợp với sở thích và yêu cầu của cô giáo.
Đa số các trẻ đều biết tự sáng tạo với đồ chơi mình có và tự trẻ thực hiện ý tưởng
đó, chỉ khi không thể thực hiện được, trẻ mới nhờ cô giáo giúp đỡ. Sau khi chơi
xong, các trẻ đều biết thu dọn đồ chơi để vào vị trí cũ theo yêu cầu của cô, chỉ có
một số ít là không thu dọn đồ chơi vì bận say sưa chơi với các đồ vật khác.
+ Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề: Hầu hết các trẻ tự nghĩ ra ý tưởng để chơi,
và tự thực hiện ý tưởng đó. Trẻ tự chọn chủ đề chơi, có thể là bác sĩ, mẹ con, thợ
cắt tóc….để chơi. Trẻ tự chọn hoàn cảnh và khung cảnh chơi, ví dụ như chơi ở vị
trí nào? Thời điểm nào? Không chỉ có vậy, trẻ còn tự phân vai chơi cho nhau, tự
đóng vai mà trẻ thích. Trong cuộc chơi thì trẻ phối hợp với các bạn khác để chơi,
15


những vai chơi mà trẻ đảm nhận, trẻ phải tự thực hiện lấy mà không được nhờ ai

làm thay.
+ Trong trò chơi xây dựng cũng không ngoại lệ. Sau khi cô giáo phổ biến chủ đề
chơi, các trẻ sẽ tự về góc xây dựng và tự lấy đồ chơi để chơi. Trẻ tự phân công các
công việc cho nhau, có trẻ thì xây hàng rào, trẻ thì xây bồn hoa, trẻ thì xây nhà,…
và công việc của trẻ nào trẻ đó phải tự làm. Sau khi chơi xong, đa số các trẻ đều
biết thu dọn đồ chơi để lại vào vị trí cũ, nhưng cũng có một số trẻ không quan tâm
đến việc thu dọn đồ chơi mà bận chạy sang các góc chơi khác để chơi, một số trẻ
khác thì nghĩ rằng công việc thu dọn đồ chơi rất khó khăn, trẻ không thể xếp ngay
ngắn đồ chơi lên kệ được và phải nhờ cô giúp đỡ.
- Trong hoạt động học tập:
Khi cô giáo dạy trẻ một bài học, trẻ thường áp dụng những thói quen và kiến
thức mình đã được học. Từ đó, nếu trẻ làm đúng và nhận được lời khen, trẻ sẽ
thường xuyên áp dụng và ngày càng có hứng thú với các bài học.
- Trong hoạt động lao động tự phục vụ:
Có thể nói đây là hoạt động quan trọng để giáo dục trẻ biết tự lập trong cuộc
sống thường ngày. Mỗi sáng khi phụ huynh đưa trẻ đến lớp, trẻ tự cất cặp, mũ, dép
vào đúng vị trí kệ của mình. Khi vào ăn sáng, giáo viên đã xếp sẵn bàn và ghế đủ
cho số lượng trẻ ăn sáng, giáo viên để cho trẻ tự xúc ăn, trẻ nào ăn chậm cô sẽ
giúp, sau khi ăn xong giáo viên tập cho trẻ thói quen tự dọn thìa và bát vào thau.
Sau khi ăn sáng xong, trẻ tự rửa miệng rửa tay và lau khô. Đến giờ ăn trưa cũng
vậy, trẻ đã có sẵn thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi ăn. Vì cô giáo đã tập
cho trẻ trước đó, nên đa số các trẻ đều biết tự vệ sinh cá nhân cho mình trước và
sau khi ăn. Đến giờ ngủ trưa, các trẻ cũng biết tự lấy chăn và gối của mình ra, cô
giáo chỉ xếp giường, còn việc đặt gối và bung chăn ra trẻ có thể tự làm. Sau khi
ngủ dậy, trẻ và cô cùng nhau dọn, cô giúp các trẻ xếp gọn chăn và gối lại rồi để trẻ
tự mang cất vào tủ, vào vị trí của mình đã đánh dấu. Khi ra về, trẻ cũng biết tự lấy
cặp, mũ, dép để ra về.

16



Tuy nhiên vì trẻ ở độ tuổi 3 – 4 tuổi còn quá nhỏ, nên trẻ chỉ có thể tự làm
những việc nhẹ, vừa sức, trẻ không thể giúp cô lấy ghế hay làm những công việc
khác quá sức trẻ như lau nhà, xếp giường, bàn,…
* TÓM TẮT CHƯƠNG II:
Qua nghiên cứu thực trạng giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở
trường mầm non Hoa Trạng Nguyên có thể nhận thấy rằng: Đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm đã nhận thức tương đối đầy đủ vị trí, tầm quan trọng của việc giáo dục tính
tự lập cho trẻ mẫu giáo; các trẻ 3 – 4 tuổi ở trường mầm non Hoa Trạng Nguyên
cũng đã có những biểu hiện về tự lập trong các hoạt động khác nhau ở trường; việc
tự lập có sự chênh lệnh lớn giữa các trẻ trai và các trẻ gái; còn một số trẻ chưa biết
tự lập trong các hoạt động do trẻ còn quá nhỏ và giáo viên chưa có biện pháp giáo
dục hợp lí, phù hợp với độ tuổi của trẻ.

CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO
TỪ 3 – 4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA TRẠNG NGUYÊN
3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp
Dựa trên thực trạng và tầm quan trọng của tính tự lập của trẻ, việc đề xuất và
thực hiện các biện pháp giáp dục tính tự lập cho trẻ là việc hoàn toàn thiết yếu.
17


Người lớn thường không muốn trẻ phải gánh nhiều trách nhiệm khi chưa thực
sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra
rằng con trẻ đã đủ khéo léo, có các kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào một
công việc nào đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên
và khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người kiểm
soát trẻ quá chặt để trẻ phụ thuộc quá lâu thì trẻ sẽ bát riết lấy cha mẹ, cô giáo,
chúng có thể trở thành những đứa trẻ lưới biếng và mọi việc đối với trẻ đều trở nên

khó khăn. Chắc hẳn ai cũng đã được nghe câu nói “Nếu bắt cho con một con cá,
con sẽ có cá ăn một ngày. Nhưng nếu dạy con bắt cá, con sẽ có cá ăn suốt đời”.
Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập, sống bằng đôi
tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau để đặt ra mục tiêu và cách
thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về tính tự lập theo lời Bác dạy “Tuổi nhỏ
làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”.
Vì vậy chúng ta cần đặt ra các mục tiêu để rèn luyện các kỹ năng tự lập cần
thiết cho trẻ:
- Kỹ năng phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, rửa mặt,
rửa tay, tự đi dép, tự cất dép, lấy đồ dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra
về, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang, tự lấy và cất gối.
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Tự thay quần áo khi thấy bẩn, tự xúc miệng nước
muối sau khi ăn, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, xả nước sau khi đi vệ sinh, đi
vệ sinh đúng nơi qui định, rửa tay bằng xà phòng khi tay bẩn, nhặt rác, bỏ rác vào
đúng nơi qui định.
- Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn,
giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây…
Hình thành tính tự lập cho trẻ không những giúp trẻ nắm vững một vài kĩ
năng hay sự tự tin trong cuộc sống, đấy là cũng là một tiền đề hình thành nhân
cách con người trẻ sau này.
3.2 Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ từ 3 – 4 tuổi ở
trường mầm non Hoa Trạng Nguyên.
18


Biện pháp 1: Luyện tập cho trẻ các công việc tự phục vụ vừa sức
- Giáo viên cần phải tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu tự lập cho trẻ và kết hợp
khuyến khích, động viên trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ tự mình cởi giày, dép và tự cất lên kệ, trẻ rất thích làm những công
việc đó, nên trẻ làm rất lâu, lúc đó giáo viên cần đứng bên cạnh và nhắc nhở trẻ,

kết hợp động viên trẻ: “ Con làm giỏi lắm, Con làm được rồi đấy!”. Hoặc khi trẻ tự
xúc cơm nhưng rất chậm và rơi vãi đầy bàn, lúc đó giáo viên không nên quát mắng
trẻ mà cần động viên, khuyến khích trẻ xúc cơm nhanh hơn và cẩn thận hơn.
- Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được làm việc, những lúc đó trẻ có
thể trở nên bướng bỉnh, do đó giáo viên cần phải biết nắm bắt tâm tư nguyện vọng
của trẻ, phải cảm thông và tạo điều kiện cho trẻ tự làm, tự trải nghiệm với công
việc.
Ví dụ: Trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào bát, nhưng có trẻ thì lúng túng không biết
chia như thế nào, có khi trẻ còn làm rơi vãi lung tung dưới đất. Những lúc đó giáo
viên không nên khó chịu mà cần nhẹ nhàng hướng dẫn cho trẻ, làm hành động mẫu
cho trẻ quan sát, sau đó động viên trẻ tự làm.
- Trong quá trình giáo dục, cần hình thành cho trẻ những kĩ năng và thói quen tự
lập. Cần bắt đầu giáo dục cho trẻ từ thói quen tự phục vụ, thói quen vệ sinh cá
nhân, thói quen giúp đỡ người khác, những thói quen đó đòi hỏi phải tác động đến
trẻ một cách lâu dài, có hệ thống và nhất quán vì trẻ dễ nhớ nhưng cũng dễ quên.
Vì vậy phải luyện tập cho trẻ thường xuyên.
- Để trẻ tự lập hoàn toàn, giáo viên cần thực hiện các quá trình “ cùng hành động”,
nghĩa là cho trẻ làm cùng cô. Khi cùng làm với trẻ, giáo viên phải kết hợp giảng
giải, giải thích cho trẻ biết lý do, ý nghĩa, tác dụng của từng hoạt động, từ đó trẻ sẽ
dễ nhớ và làm một cách tự nguyện mà không có cảm giác bị ép buộc, sai khiến.
- Để giúp cho trẻ thực hiện được các thói quen tự phục vụ một cách phấn khởi và
nhớ lâu, cần kết hợp lồng ghép những bài thơ bài hát có ý nghĩa giáo dục trẻ để trẻ
dễ dàng thực hiện các kĩ năng đó.
+ Trước giờ ăn, cho trẻ hát bài hát “ Tập rửa tay”:
19


Giờ ăn đến rồi, giờ ăn đến rồi, con vâng lời cô dạy, trước khi ăn phải rửa tay,
xoay xoay xoay cổ tay, xoa xoa mu bàn tay rồi đến kẽ ngón tay, con lau bàn tay
xinh, con lau bàn tay sạch, xinh xinh thật là xinh.

+ Có thể dùng thơ để lồng ghép như rửa tay, rửa mặt, giờ ăn, giờ ngủ,…

Rửa tay

Miếng xà phòng nho nhỏ

Đôi bàn tay be bé

Em xát lên bàn tay

Nay rửa sạch xinh xinh

Nước máy đây trong vắt

Tất cả lớp chúng mình

Em rửa đôi bàn tay

Cùng giơ tay vỗ vỗ

Rửa mặt
Bàn tay nhỏ nhắn

Lau đến mũi miệng

Bé cầm chiếc khăn

Khuôn mặt của bé

Rủ một bên mặt


Xinh xinh là lạ

Rồi đến bên kia

Là nhờ bé đấy

Gấp chiếc khăn lại

Chăm chỉ rửa mặt

Thời gian đầu giáo viên vừa làm mẫu vừa kết hợp phân tích cách làm các kỹ
năng cần thiết, sau đó cho trẻ tự làm và giáo viên chỉ nhắc nhở bằng lời, và phải
tạo điều kiện để trẻ thường xuyên được thực hành luyện tập các kĩ năng như rửa
tay, rửa mặt, xúc miệng bằng nước muối, tự cởi và gấp quần áo, tự cất và lấy dép
đúng nơi quy định,…
Biện pháp 2:Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập vào các hoạt động của trẻ
- Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo hướng đổi mới thể hiện được mối
quan hệ hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với nhau, phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý, đặc biệt là nhu cầu hứng thú của trẻ trong các hoạt động. Trong thời gian trẻ
tham gia hoạt động, cần duy trì tính hấp dẫn tạo cho trẻ có hứng thú và niềm say
20


×