PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam là nước có tốc độ đô thị hóa cao trong khu vực và trên thế giới
nhưng năng lực quản lý Nhà nước về đô thị giữa các địa phương lại không đồng
đều, có nơi chưa theo kịp với tốc độ phát triển. Do vậy,
trong quá trình
quản lý đô thị, các cấp chính quyền đô thị ở Việt Nam phải luôn đương đầu để
giải quyết những khó khăn thường trực như: tình trạng xây dựng hỗn loạn không
tuân thủ qui hoạch, vấn đề cấp thoát nước, thiếu cây xanh, tình trạng thiếu nhà ở
(nhà ổ chuột), nạn ùn tắc giao thông, đường sá xuống cấp, mạng lưới điện quá
tải, ô nhiễm môi trường, thiếu công ăn việc làm, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn
xã hội, gia tăng dân số, trật tự giao thông…
Thực trạng đó bắt nguồn từ các nguyên nhân sau đây: hệ thống pháp luật
chưa đủ để vận hành nền kinh tế thị trường nên nảy sinh nhiều tiêu cực (đô thị là
nơi giáp mặt giữa cung và cầu, nó là hàn thử biểu về tình hình kinh tế, nó rất
nhạy cảm với các chính sách kinh tế vĩ mô). Luật pháp về đô thị chưa đủ, chưa
đồng bộ, pháp chế chưa nghiêm. Cơ sở hạ tầng của đô thị lạc hậu, không đồng
bộ, xuống cấp nghiêm trọng làm phát sinh những hậu quả xấu. Công tác tổ chức
và Quản lý Nhà nước về đô thị chưa khoa học, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công
tác qui hoạch đô thị tiến hành chậm, chưa đồng bộ. Chưa phân biệt được quản lý
đô thị và quản lý nông thôn (điều này thể hiện trong công tác tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ, trình độ cán bộ…).
Trước thực trạng như vậy, công tác Quản lý Nhà nước về dô thị đòi hỏi
phải có những nét đặc thù riêng: tổ chức quản lý đô thị theo nguyên tắc tập trung
thống nhất cao, tránh tình trạng “cắt khúc”, quản lý đô thị nhất thiết phải theo qui
hoạch...
Những người quản lý đô thị, kể cả hoạch định các chính sách vĩ mô hay
các viên chức hành chính trong bộ máy chính quyền các cấp của đô thị phải nắm
vững những đặc thù của đô thị để từ đó có những chính sách và những hành
động quản lý phù hợp và hữu hiệu.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Qua nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về đô thị, về
Nhà nước, về Quản lý Nhà nước, về Quản lý Nhà nước về đô thị. Làm rõ nội
dung quản lý Nhà nước về đô thị và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về đô thị trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
3.1. Khách thể nghiên cứu của đề tài là Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động quản lý của Nhà nước về
đô thị.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
4.1. Cơ sở lý luận: đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Quản lý Nhà nước, về đô thị và quản lý Nhà nước về đô thị.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp chủ yếu để nghiên cứu thực
hiện đề tài là phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích, tổng
hợp.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Tiểu luận
gồm có 3 chương.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quản lý Nhà nước và
Quản lý Nhà nước về đô thị:
1.1. Về Quản lý Nhà nước:
1.1.1. Khái niệm:
1.1.1.1. Quản lý:
Theo Điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để
cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt
được những mục đích đã định trước.
Định nghĩa trên thích hợp với tất cả mọi trường hợp, từ sự vận động của
một cơ thể sống, một vật thể cơ giới, một thiết bị tự động hóa đến hoạt động của
một tổ chức xã hội, một đơn vị kinh tế hay cơ quan Nhà nước.
Theo Mác: “Quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội
của quá trình lao động”.
Lênin đã khẳng định: Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết phục không thôi
thì chưa đủ, mà còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa.
Để điều khiển, phối hợp hoạt động của tập thể những con người, chúng ta
cần có những phương tiện buộc con người phải hành động theo những nguyên
tắc nhất định, phải phục tùng những khuôn mẫu, những mệnh lệnh nhất định. Cơ
sở của sự phục tùng hoặc là uy tín, hoặc là quyền uy. Quyền uy là phương tiện
rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc đối tượng quản lý phải phục tùng, là yếu
tố không thể thiếu của quản lý. Không có quyền uy thì hoạt động quản lý sẽ
không có hiệu quả.
3
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có mục đích của các
chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất kỳ đâu,
khi nào nếu ở đó và lúc đó có hoạt động chung của con người. Mục đích và
nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối
hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hoạt động chung
thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung đó theo những phương
hướng thống nhất, nhằm đạt được mục đích đã định trước. Quản lý được thực
hiện bằng tổ chức và quyền uy.
1.1.1.2. Quản lý Nhà nước:
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng: Là hoạt động tổ chức, điều hành của cả
bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà
nước trên các phương diện Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Theo cách hiểu
này, quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân lao động làm chủ”.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu
cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn
thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính
nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của
mình.
1.1.2. Đặc trưng của quản lý Nhà nước:
Quản lý Nhà nước mang tính quyền lực và dựa trên cơ sở pháp luật.
Quyền lực đó do giai cấp thống trị thiết lập dựa trên cơ sở của quyền uy. Điều
kiện để xây dựng quyền uy là sức mạnh kinh tế. Ngoài ra, quyền uy còn dựa trên
các lực lượng khác, các công cụ của giai cấp thống trị như quân đội, công an,
luật pháp.
4
Quản lý Nhà nước luôn mang tính tổ chức và điều chỉnh. Nhà nước có một
hệ thống bộ máy gồm cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong nội bộ của
mỗi cơ quan ấy lại có một hệ thống ngành dọc của riêng mình, tạo thành một thể
thống nhất và bền chặt, tác động hỗ trợ nhau mọi hoạt động nhằm mang lại hiệu
quả tốt nhất.
Quản lý Nhà nước phải mang tính khoa học và hệ thống.
1.2. Quản lý Nhà nước về đô thị:
1.2.1. Khái niệm:
1.2.1.1. Đô thị:
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ dân số cao, chủ yếu là lao động
phi nông nghiệp; người dân sống và làm việc khoa học, văn minh, hiện đại, có
hiệu quả kinh tế cao, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, có môi trường sống tốt hơn cho
con người.
1.2.1.2. Quản lý Nhà nước về đô thị:
Quản lý Nhà nước về đô thị là toàn bộ hoạt động của Chính phủ, các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp (có thẩm quyền) dựa trên cơ sở pháp luật để
điều chỉnh các quy định quản lý về đô thị, điều chỉnh các hoạt động về xây dựng,
quy hoạch đô thị, về đất ở, nhà ở, hạ tầng kỹ thuật, về cảnh quan môi trường, văn
hóa xã hội tại các đô thị; điều chỉnh các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong
nội thành, nội thị, giữ gìn sự ổn định trật tự xã hội tại các đô thị nhằm thực hiện
các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế tại các đô thị mà
Nhà nước đã đề ra.
1.2.2. Phân loại đô thị:
1.2.2.1. Điều kiện để phân loại:
Các Thành phố, thị xã, thị trấn được các cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định thành lập’
5
Trung tâm tổng hợp các chuyên ngành, tập trung tất cả các cơ quan quản
lý Nhà nước, dịch vụ …
Quy mô dân số tối thiểu là 4000 người/đô thị.
Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp phải từ 65% dân số trở lên.
Cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động của dân cư tối thiểu phải bằng
70% so với tiêu chuẩn từng loại đô thị.
Mật độ dân số nội thành phải đạt tối thiểu 2000 người/km2.
1.2.2.2. Phân loại:
Có tổng số 06 loại đô thị:
Loại đặc biệt: Thủ đô hoặc những nơi có chức năng đầu mối, trung tâm,
ảnh hưởng lớn; phải có từ 5 triệu người trở lên; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
trong nội thành phải trên 95% dân số.
Loại một: có chức năng văn hóa, xã hội, du lịch, dịch vụ đối với cả nước
và quốc tế; lao động phi nông nghiệp trên 85% dân số; cơ sở hạ tầng được xây
nhiều mặt, hoàn chỉnh.
Ngoài ra, còn có đô thị loại hai, loại ba, loại bốn và đô thị loại năm.
6
Chương 2: Nội dung và thực trạng Quản lý Nhà nước về đô thị:
2.1. Nội dung Quản lý Nhà nước về đô thị:
2.1.1. Quản lý Nhà nước về quy hoạch và xây dựng phát triển đô thị:
Lĩnh vực quản lý đô thị này có các nội dung chính sau:
Ban hành các quy định về quy hoạch và quản lý xây dựng phát triển đô thị.
Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị.
Quản lý kiến trúc đô thị.
Quản lý di sản văn hoá, lịch sử, di sản kiến trúc và cảnh quan đô thị.
Quản lý xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Quản lý nhà và đất đô thị.
Quản lý môi trường đô thị.
Quản lý trật tự xây dựng đô thị.
Với các nội dung quản lý nêu trên, quản lý quy hoạch và xây dựng phát
triển đô thị có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động xây dựng
phát triển đô thị. Những quy hoạch, kế hoạch, dự án, thiết kế xây dựng ... dù có
chất lượng cao nhưng nếu không được quản lý tốt sẽ không thể phát huy tác
7
dụng. Không những vậy, quản lý đô thị còn có tác động tích cực hoặc tiêu cực
đối với việc phân bổ, huy động các nguồn lực phát triển đô thị cũng như đảm
bảo công bằng xã hội.
Cũng như hầu hết các hoạt động khác, yếu tố con người có tầm quan trọng
đặc biệt trong quản lý đô thị. Ngoài yêu cầu về đạo đức, người lãnh đạo hoặc
cán bộ quản lý đô thị phải có kiến thức vững về chuyên môn và kỹ năng quản lý.
Yêu cầu về kiến thức chuyên môn bao gồm kiến thức về các quy định pháp luật,
hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn và kiến thức cơ bản của chuyên ngành về xây
dựng đô thị. Yêu cầu về kỹ năng bao gồm hiểu biết về khoa học, tâm lý trong
quản lý, kỹ năng thu thập, xử lý thông tin, giao tiếp, tham gia ý kiến hoặc ra
quyết định, lưu trữ hồ sơ ...
Trong bối cảnh xây dựng, phát triển đô thị hiện nay, một trong những bất
cập làm hạn chế hiệu quả của quản lý đô thị, đó là trình độ chuyên môn và kỹ
năng của lực lượng cán bộ quản lý đô thị, đặc biệt là cán bộ quản lý đô thị cấp
phường, thị trấn, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh). Tuy chưa có những thông kê
chính xác nhưng qua thực tế một số khoá đào tạo bồi dưỡng về quản lý đô thị có
thể thấy một số điểm yếu sau:
Số cán bộ quản lý đô thị không có chuyên môn về xây dựng khá lớn, nhất
là tại các phường, thị trấn. Đây là điểm yếu cơ bản bởi nếu không có chuyên
môn về xây dựng sẽ rất khó khăn để nắm bắt các quy định pháp luật, các yêu
cầu, thông số, quy định chuyên ngành làm cơ sở cho hoạt động quản lý.
Hầu hết các cán bộ quản lý đô thị đều được thuyên chuyển hoặc tuyển
dụng từ cán bộ chuyên môn kỹ thuật và không được trang bị kỹ năng quản lý nói
chung và kỹ năng trong quản lý đô thị nói riêng. Các địa phương có định kỳ tổ
chức tập huấn, bồi dưỡng nhưng chủ yếu là về kiến thức pháp luật mà không chú
ý đến kỹ năng và kiến thức chuyên môn.
8
Để tăng cường chất lượng và hiệu quả của công tác lập và quản lý quy
hoạch xây dựng, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 09/2008/CT-TTg ngày
28 tháng 02 năm 2008 yêu cầu các Bộ, UBND các tỉnh, TP trực thuộc trung
ương thực hiện một loạt nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ về đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý đô thị.
2.1.2. Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn tại các đô thị:
Phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề trật tự an toàn tại
các đô thị.
Phải xây dựng các định hưỡng, mục tiêu, chiến lược, các chương trình về
bảo vệ trật tự an toàn tại các đô thị; phải xây dựng các tổ chức, lực lượng để bảo
vệ an toàn trật tự tại các đô thị; phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm
pháp luật tại đô thị.
Phải xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước về trật tự tại các đô thị.
Phải xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ trật tự đô thị.
2.2. Thực trạng phát triển đô thị và thực trạng quản lý Nhà nước về đô
thị ở Việt Nam hiện nay:
2.2.1. Những kết quả đạt được:
Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðịnh hướng phát triển hệ
thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, trong đó vai trò của các đô thị được xác
định là những động lực phát triển chính trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu phát triển đất nước cơ bản thành nước công
nghiệp vào năm 2020.
Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự
quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực vận động của toàn xã hội, chúng ta có thể tự
hào với những thành tựu quan trọng đã đạt được của công tác phát triển đô thị
toàn quốc. Hệ thống đô thị quốc gia đã có sự chuyển biến tích cực cả về lượng
cũng như về chất. Mạng lưới đô thị quốc gia đã và đang được phát triển, mở rộng
9
từ 629 đô thị năm 1999 đến nay đã tăng lên 754 đô thị. Về dân cư đô thị, tỷ lệ đô
thị hóa đã tăng từ 20,7% năm 1999 đến nay đạt gần 30% nếu tính dân số nội thị.
Trong đó, có hai đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đô thị loại I
tăng thêm năm đô thị, trong khi đó loại V tăng thêm 99 đô thị. Ðiều này đã
chứng tỏ mức độ đô thị hóa đã phát triển mạnh ở khu vực các đô thị nhỏ, lan tỏa
trên diện rộng và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước.
Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt từ 12 đến 15%, cao
gấp 1,5 đến 2 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Năm 2007-2009 đạt
khoảng từ 8 đến 10%(H). Hiện nay nguồn thu đô thị, nhất là của các thành phố
lớn chiếm tỷ lệ 70% trong cơ cấu GDP cả nước. Tại một số đô thị lớn, GDP bình
quân đầu người đạt hơn 1.500 USD như Hà Nội khoảng 1.500 USD/năm, Nha
Trang 1.779 USD/năm... Sự phát triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu
việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định
và phát triển chung của xã hội.
Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại những nguồn lực
quan trọng cho việc xây dựng và cải tạo chỉnh trang diện mạo của các đô thị.
Kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được các chính quyền đô thị quan tâm đầu tư
phát triển với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị
hiện đại, ứng dụng công nghệ thiết kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều
đô thị đã và đang xuất hiện các công trình kiến trúc cao tầng là những điểm nhấn
kiến trúc đô thị có chất lượng cao. Ði đôi với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị
mới hiện đại, đồng bộ thì công tác cải tạo, chỉnh trang đô thị và bảo tồn các giá
trị di sản kiến trúc đô thị đã được coi trọng, góp phần duy trì và tạo dựng bản sắc
của từng đô thị.
Chất lượng cuộc sống người dân đô thị đang từng bước được cải thiện
thông qua sự đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Năm 1999, diện tích
nhà ở bình quân đầu người đạt 6 m2 đến nay đã tăng gấp đôi, đạt 12 m2. Mô
10
hình đầu tư phát triển các khu đô thị mới đồng bộ đã được nghiên cứu nhân rộng
tại nhiều địa phương trong cả nước, sử dụng có hiệu quả quỹ đất dành cho phát
triển đô thị, đồng thời từng bước giải quyết nhu cầu rất lớn của xã hội về nhà ở.
Hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội đô thị như hệ thống giao thông,
cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn và
công trình phúc lợi công cộng của các đô thị được đầu tư xây dựng, cải tạo và
phát triển khá nhanh, tạo nên bộ khung cơ bản để các đô thị phát triển. Về cấp
nước sạch, thời điểm năm 1999 Việt Nam vẫn còn hơn 70% số dân đô thị sử
dụng nước không bảo đảm vệ sinh, đến nay bình quân trên cả nước 73% số dân
đô thị đã được cấp nước sạch. Chất lượng phục vụ của giao thông công cộng tại
các đô thị, các vùng và trên cả nước ngày càng tốt hơn. Hiện nay, nhiều địa
phương đang tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư xây dựng và phát triển giao
thông công cộng đô thị như dự án đường sắt trên cao tại Hà Nội, dự án tàu điện
ngầm tại thành phố Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông huyết mạch, tuyến vành
đai các đô thị lớn, cầu qua sông, v.v...
Vấn đề cải thiện điều kiện môi trường đô thị cũng đã được chính quyền đô
thị quan tâm. Một số đô thị đã có nhà máy hoặc trạm xử lý nước thải được đầu tư
xây dựng và đi vào hoạt động. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt bình quân cả
nước đạt khoảng 80%. Chúng ta đã có ba công nghệ trong nước xử lý chất thải
rắn sinh hoạt đã được Bộ Xây dựng cấp giấy chứng nhận: SERAPHINE,
ANSINH-ASC, MBT-CD. Cấp điện và chiếu sáng đô thị được cải thiện rõ rệt.
90% số các tuyến đường trục chính cấp đô thị từ các đô thị loại 3 trở lên được
chiếu sáng. Dịch vụ cung cấp thông tin liên lạc phát triển nhanh chóng phục vụ
tích cực cho các yêu cầu đặt ra của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hơn mười năm qua, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển xã hội,
Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành đã và đang từng bước hoàn
thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng và phát
11
triển đô thị, trong đó nhiều văn bản luật lần đầu tiên đã được nghiên cứu, xây
dựng và ban hành như Luật Xây dựng năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Luật
Kinh doanh bất động sản năm 2006 và đặc biệt là Luật Quy hoạch đô thị vừa
được Quốc hội thông qua tháng 6-2009. Các văn bản luật và hệ thống văn bản
dưới luật đã thường xuyên được rà soát, điều chỉnh để từng bước đi vào cuộc
sống, góp phần quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thông
thoáng, hướng tới sự phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam.
2.2.2. Những vấn đề hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ của công tác phát triển đô thị
trong những năm vừa qua, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận còn nhiều
việc cần phải làm. Công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị nhìn chung đã được
quan tâm triển khai. Trong cả nước đã có chín đồ án quy hoạch vùng được Chính
phủ phê duyệt, 59/63 tỉnh, thành phố có quy hoạch vùng tỉnh, phục vụ việc quản
lý sự phát triển mạng lưới đô thị của các địa phương. Tất cả các đô thị từ loại IV
trở lên đều đã có quy hoạch chung xây dựng được phê duyệt. Tuy nhiên, tỷ lệ
phủ kín quy hoạch chi tiết tại các đô thị của cả nước còn thấp. Tỷ lệ trung bình
trong cả nước hiện nay là khoảng 45%, không đồng đều giữa các đô thị và vùng,
miền. Ðiều đó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực phát
triển cũng như công tác quản lý xây dựng đô thị theo quy hoạch.
Mặt khác, tốc độ tăng trưởng và đô thị hóa cao tại phần lớn các đô thị đã
dẫn đến sự mất cân đối trong khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật đô thị. Mặc dù việc cấp nước sạch đã được cải thiện đáng kể nhưng tỷ lệ
thất thoát, thất thu nước bình quân vẫn cao từ 20 đến 30%, vừa gây thất thoát
nguồn tài nguyên quan trọng, vừa giảm nguồn thu cho ngân sách. Tình trạng úng
ngập, tắc nghẽn giao thông tại đô thị còn diễn ra phổ biến. Các hồ, kênh, mương,
sông ngòi trong đô thị với vai trò điều hòa và thoát nước mưa đô thị vào mùa
mưa lũ ít được quan tâm bảo vệ. Hiện tượng ô nhiễm môi trường vẫn chưa có lời
12
giải hữu hiệu. Nhiều đô thị vẫn còn lúng túng trong việc tìm ra nguồn lực đầu tư
hệ thống cơ sở hạ tầng thoát nước, xử lý chất thải rắn, giao thông đô thị...
Trong những năm qua, các chính quyền đô thị đã rất quan tâm đầu tư để
xây dựng đội ngũ, liên tục đào tạo, bồi dưỡng trình độ cán bộ làm công tác quản
lý đô thị bằng nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước cũng như sự giúp đỡ của các
cơ quan, tổ chức quốc tế. Mô hình hợp tác với các thành phố trên thế giới đã đem
lại nhiều kinh nghiệm bổ ích trong thực tiễn quản lý. Mặc dù vậy, những cán bộ
đã qua đào tạo chuyên môn lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị mới chỉ chiếm
từ 9 đến 11% ở cấp xã, phường, chưa đáp ứng được mức độ đòi hỏi của khối
lượng công việc. Mặt khác, do lĩnh vực quản lý đô thị và kinh tế đô thị còn là
vấn đề khá mới mẻ, chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm để phù hợp đặc thù
của nước ta, do đó ở nhiều nơi, vai trò của chính quyền đô thị trong việc điều
phối các đối tượng và điều tiết nguồn lực tham gia trong quá trình phát triển đô
thị còn có nhiều hạn chế, dẫn đến thực tế vẫn còn phổ biến tình trạng thiếu thông
tin, chồng chéo giữa các lĩnh vực.
Có thể thấy rằng, có nhiều bất cập hạn chế trong nhiều cấp độ, thuộc nhiều
lĩnh vực từ việc xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch cho đến việc quản lý
các quá trình phát triển trong đời sống hằng ngày của đô thị. Thực tế này có
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, liên quan đến mọi đối tượng tham
gia trong đô thị từ cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền đô thị cho đến các
doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như chính bản thân người dân đô thị.
13
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả Quản lý
Nhà nước về đô thị ở Việt Nam hiện nay:
Phát huy giá trị các bài học kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn xây dựng
phát triển đô thị ở nước ta cũng như nhiều nước tiên tiến trên thế giới, định
hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
445/QÐ-TTg ngày 7-4-2009 và Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn
từ năm 2009 đến năm 2020 (Quyết định số 758/QÐ-TTg ngày 8-6-2009) đã đề ra
các định hướng, giải pháp tổng thể, toàn diện phát triển hệ thống đô thị quốc gia,
14
xác định các giai đoạn phát triển, mục tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện cho từng
giai đoạn.
Theo đó, để quá trình phát triển của các đô thị trong cả nước đáp ứng các
yêu cầu phát triển bền vững, để hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về đô thị
được tăng cường, chính quyền đô thị các cấp cần đặc biệt lưu ý một số vấn đề
sau:
3.1. Không ngừng đẩy mạnh vai trò công tác lập quy hoạch và nâng
cao chất lượng quy hoạch:
Công tác quy hoạch phải được ưu tiên đầu tư đi trước để định hướng và
bảo đảm tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo chỉnh
trang đô thị. Ðồng thời với việc áp dụng các tiến bộ trong phát triển đô thị, quy
hoạch không những phải đáp ứng yêu cầu cao về tạo dựng chất lượng không gian
đô thị, mà còn phải đáp ứng tốt yêu cầu về dự báo gắn sát với thực tiễn và xu
hướng phát triển của xã hội, thật sự trở thành nền tảng cho việc tạo dựng nguồn
lực phát triển cho đô thị.
3.2. Tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ chính nội lực của đô thị:
Cùng với các nguồn hỗ trợ phát triển mà đô thị có được, cần đặc biệt chú
trọng việc đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị trong các lĩnh vực quản lý
nhà nước, quản lý quy hoạch, quản lý nhà, đất; quản lý đầu tư xây dựng, quản lý
khai thác sử dụng công trình đô thị. Thông qua các giải pháp về quy hoạch đô thị
kết hợp với các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần
kinh tế trong xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư cho phát triển đô thị,
đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến trình nâng cấp chất
lượng đô thị hóa.
3.3. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước
về đô thị đi đôi với việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản
lý đô thị các cấp:
15
Tăng cường phân cấp quản lý đô thị; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của
chính quyền đô thị các cấp, tổ chức bộ máy tinh giản, gọn nhẹ nâng cao tính hiệu
quả, hiệu lực quản lý, đồng thời chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức phù hợp với thực tế trình độ, kinh nghiệm và
kiến thức.
3.4. Cần chú trọng phát huy vai trò và trách nhiệm làm chủ của cộng
đồng, của người dân đô thị:
Việc xây dựng và duy trì chất lượng đô thị phụ thuộc một phần quan trọng
trong ý thức của người dân thực hiện nếp sống văn minh đô thị. Do đó, cần có
giải pháp tích cực để cộng đồng nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm tham gia xây
dựng và quản lý đô thị được cụ thể hóa ngay từ trong cuộc sống hằng ngày của
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng của đô thị.
PHẦN KẾT LUẬN
Quản lý đô thị là hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức khai thác và điều hoà việc sử
dụng các nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, tài chính và con người) nhằm mục
tiêu tạo dựng môi trường sống thuận lợi của đô thị, kết hợp hài hoà giữa lợi ích
16
quốc gia và lợi ích đô thị đảm bảo sự phát triển bền vững. Quản lý đô thị trước
hết là sự thực thi quyền lực công, nhân danh Nhà nước trên địa bàn đô thị. Giai
đoạn hiện đại, ngoài cơ quan Nhà nước, quản lý đô thị đã có sự tham gia của các
tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng. Tuy nhiên,
quản lý đô thị vẫn thể hiện bản chất và vai trò chủ đạo của Nhà nước đối với khu
vực lãnh thổ đặc biệt quan trọng là đô thị.
Trong giai đoạn hiện nay, để phù hợp với xu thế phát triển của đất nước,
với tốc độ tăng trưởng đô thị hóa cao ở Việt Nam, chúng ta cần phải không
ngừng nâng cao, tăng cường hiệu lực, hiệu quả Quản lý của Nhà nước về đô thị.
MỤC LỤC
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quản lý Nhà nước và
Quản lý Nhà nước về đô thị:
17
1.1. Về Quản lý Nhà nước:
1.1.1. Khái niệm:
1.1.1.1. Quản lý:
1.1.1.2. Quản lý Nhà nước:
1.1.2. Đặc trưng của quản lý Nhà nước:
1.2. Quản lý Nhà nước về đô thị:
1.2.1. Khái niệm:
1.2.1.1. Đô thị:
1.2.1.2. Quản lý Nhà nước về đô thị:
1.2.2. Phân loại đô thị:
1.2.2.1. Điều kiện để phân loại:
1.2.2.2. Phân loại:
Chương 2: Nội dung và thực trạng Quản lý Nhà nước về đô thị:
2.1. Nội dung Quản lý Nhà nước về đô thị:
2.1.1. Quản lý Nhà nước về quy hoạch và xây dựng phát triển đô thị
2.1.2. Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn tại các đô thị:
2.2. Thực trạng phát triển đô thị và thực trạng quản lý Nhà nước về đô
thị ở Việt Nam hiện nay:
2.2.1. Những kết quả đạt được:
2.2.2. Những vấn đề hạn chế:
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả Quản lý
Nhà nước về đô thị ở Việt Nam hiện nay:
3.1. Không ngừng đẩy mạnh vai trò công tác lập quy hoạch và nâng cao
chất lượng quy hoạch:
3.2. Tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ chính nội lực của đô thị:
18
3.3. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước
về đô thị đi đôi với việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản
lý đô thị các cấp:
3.4. Cần chú trọng phát huy vai trò và trách nhiệm làm chủ của cộng
đồng, của người dân đô thị:
PHẦN KẾT LUẬN
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
2. Tài liệu hỏi đáp các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
3. Giáo trình Quản lý hành chính Nhà nước, Khoa Nhà nước - Pháp luật,
Học viện Báo chí và tuyên truyền, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2006.
4. Giáo trình Quản lý Nhà nước, Học viện chính trị-hành chính quốc gia…
20