Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo và sức CHIẾN đấu của ĐẢNG TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.9 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ
thống ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Giữ vững bản chất và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn
hiện nay là vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết đã được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đặc biệt chú trọng. Đây cũng là vấn đề nằm
trong hệ thống quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Do thời gian nghiên cứu tương đối ngắn nên tác giả chưa tìm được một
đề tài nghiên cứu cụ thể nào tương ứng như đề tài nghiên cứu mà tác giả lựa
chọn. Do vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luôn nâng cao ý thức tự
giác kiếm tìm, hình thành, suy luận và giải thích, giải quyết các vấn đề nảy
sinh; chú tâm nghiên cứu các tài liệu liên quan đến từng vấn đề và có sự liên
kết, tập hợp các vấn đề lại với nhau, sử dụng, sắp xếp chúng một cách khoa
học, phù hợp với ý đồ của tác giả. Đặc biệt là nghiên cứu các quan điểm, các
vấn đề và giải pháp mới về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
0



3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Qua nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ tầm quan trọng của việc phải
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Đánh giá đúng thực
trạng công tác xây dựng Đảng trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cộng
sản Việt Nam giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Khách thể nghiên cứu của đề tài là Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
5.1. Cơ sở lý luận: đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Đảng, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp chủ yếu để nghiên cứu
thực hiện đề tài là phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích,
tổng hợp.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Tiểu luận gồm 3 chương.

1


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tầm quan trọng phải kiên định và nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới:
1.1. Quan điểm của các nhà lý luận:
1.1.1. Mác - Lênin:
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất
yếu lịch sử. Bảo đảm sự lãnh đạo duy nhất của Đảng là quy luật dẫn tới thắng

lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
được vũ trang bằng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, có nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt chặt chẽ, có quan hệ chặt chẽ với quần chúng, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
1.1.2.1. Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách mạng muốn thành công phải có
Đảng lãnh đạo. Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam.
Đảng là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc, không thiên vị.
Đảng ta là Đảng cầm quyền nhưng dân làm chủ. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, Đảng phải
xây dựng trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong Đảng phải đoàn kết,
mở rộng dân chủ, giữ vững tập trung, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, nêu
cao tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với quần chúng.
1.1.2.2. Về năng lực lãnh đạo của Đảng:
Năm 1945, chỉ hơn một tháng sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở rằng 'dân ghét các ông chủ tịch, các ông
ủy viên vì cái tật ngông nghênh cậy thế cậy quyền. Những ông này không
hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt Minh, nên khi nắm được chút quyền
2


trong tay vẫn hay lạm dụng...'. Người còn nói rõ hơn, nhiều người trong
Chính phủ phạm những lầm lỗi rất nặng nề, mà một trong số đó là 'cậy thế
mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy,
coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân'. Có những đảng viên 'âm thầm phớt
qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật. Về điểm này những người
ngoài Ðảng cẩn thận hơn. Vì đảng viên thường xem phép luật, chính quyền,

v.v. là việc trong nhà'.
Khi Ðảng trở thành đảng cầm quyền thì việc giải quyết mối quan hệ
giữa Ðảng với Nhà nước là giá trị văn hóa hàng đầu, vì Ðảng phải hoàn thành
sứ mạng 'kép'. Là người lãnh đạo Nhà nước, Ðảng lãnh đạo với chiều sâu trí
tuệ, một bề dày đạo đức, sự vững chắc về bản lĩnh chính trị và với phương
thức lãnh đạo trọng dân, tin dân, gần dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, nghe
dân (nhưng không theo đuôi quần chúng). Là một thành viên nhưng giữ vai
trò lãnh đạo của hệ thống chính trị, Ðảng hoạt động phù hợp Hiến pháp và
luật pháp. Ðảng coi trọng việc bàn bạc với dân; nghe dân, lấy ý kiến của nhân
dân, của các nhà khoa học và các chuyên gia, sẽ tạo được sự đồng thuận cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: 'Làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm'. Phải
khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến. Nếu cán bộ không nói năng,
không đề xuất ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một
hiện tượng rất xấu. Thế là mất hết dân chủ trong Ðảng. Thế là nội bộ của
Ðảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói
ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản. 'Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát
gan, dễ bảo 'đập đi, hò đứng', không dám phụ trách. Như thế là một việc thất
bại cho Ðảng'.
Nâng cao văn hóa cầm quyền của Ðảng là thể hiện sự quang minh
chính đại, vừa trí tuệ vừa nhân văn trong việc cầm quyền của một đội tiên
phong, tức là một đảng đạo đức, văn minh như Bác Hồ đã dạy.

3


Trên nền tư duy 'Chính phủ là công bộc, đày tớ của dân', Hồ Chí Minh
chỉ ra rằng 'khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính
phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là
chửi... Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc Chính phủ'.

Khuyết điểm, sai lầm cần sớm được nhận ra và khắc phục, sửa chữa.
Chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm của Ðảng, nhân dân chính là người mang
lại giá trị văn hóa cầm quyền cho Ðảng. Nhận thức rõ điều đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường xuyên nhắc nhở 'Chính phủ mong đồng bào giúp đỡ, đôn
đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đày tớ tận
tụy của nhân dân'.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng phải luôn luôn tạo điều kiện để nhân
dân phê bình mình. Bởi vì, dân chúng thông minh, sáng tạo 'biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra'.
'Dám nói' theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một giá trị văn hóa đỉnh cao.
Chỉ có một đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh thì mới đủ bản
lĩnh tạo điều kiện cho dân dám nói. Và chỉ khi nào người dân và cán bộ đảng
viên dám nói, dám phê bình, kiểm soát hoạt động của Ðảng và Chính phủ thì
Ðảng và Chính phủ mới làm việc tốt hơn và cán bộ, viên chức các cơ quan
chính phủ mới thật sự là công bộc của dân. Vì vậy, 'cần phải có biện pháp
khác, biện pháp nghiêm ngặt hơn, để trừng trị loại cán bộ tha hóa, biến chất.
Phải gây nên một đạo đức để ngăn ngừa, gây nên một phong trào quần chúng
gớm ghét, bao vây lũ giặc ấy. Biện pháp ấy là gây nên một cuộc vận động
trong công nông chống tiêu cực, làm cho những kẻ 'chạy' không sống còn
được'.
Một trong những phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là thông
qua cán bộ và công tác cán bộ. Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với
nhiều thách thức trong công tác cán bộ, đó là nạn chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy dự án, chạy bằng cấp, chạy tuổi, như Văn kiện Ðại hội XI của
4


Ðảng đã chỉ rõ. Lại có dạng thách thức khác, đó là năng lực, bản lĩnh, đạo
đức, phương pháp công tác của cán bộ không tương xứng với vị trí, chức vụ

quản lý, lãnh đạo.
Ðảng tìm thấy giá trị trong các mối quan hệ giữa người già và người
trẻ; người trong Ðảng và người ngoài Ðảng; người có bằng cấp và không có
bằng cấp, doanh nhân và trí thức, nhà lãnh đạo, quản lý và nhà khoa học... Trí
tuệ văn hóa thể hiện bản lĩnh văn hóa của đảng cầm quyền là phải xác định
thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, thế hệ trẻ chắc chắn sẽ vượt
thế hệ già. Có nhiều người không có bằng cấp nhưng có tài, có đức, cần trọng
dụng họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: 'Ðảng ta không phải trên trời sa xuống.
Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là
những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự
lợi, kiêu ngạo, xa hoa... Trong Ðảng ta chưa hoàn toàn tránh khỏi một vài kẻ
vu vơ, những việc không chính đáng'. Vì vậy, văn hóa cầm quyền là Ðảng
phải có đủ năng lực trí tuệ và bản lĩnh phân định một cách khoa học và cách
mạng, các phạm trù tốt - xấu, đúng - sai, thật - giả. Ðảng chọn được những
người có đức, có tài, quyết tâm suốt đời, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, Ðảng sẽ hoàn thành sứ mạng cầm quyền của mình.
Tóm lại, nói tới Ðảng cầm quyền là nói tới sự lãnh đạo và tính chiến
đấu của Ðảng. Văn hóa cầm quyền là cái đẹp, cái giá trị của phương thức cầm
quyền. Nâng cao năng lực lãnh đạo tức là nâng cao năng lực hoạch định
đường lối, giáo dục, thuyết phục, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối cách
mạng trên cơ sở không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực
trí tuệ, bản lĩnh chính trị và phong cách lãnh đạo. Ðảng, cán bộ đảng viên phải
biết nhận ra mình và vượt qua chính mình; tu dưỡng, rèn luyện trở thành tấm
gương sáng để Ðảng trong sạch, vững mạnh, nhân dân tin tưởng noi theo.
1.2. Quan điểm của Đảng xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam:

5



Lịch sử cách mạng Việt Nam 82 năm qua đã minh chứng và khẳng định
vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ, trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chính vì
vậy, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng.
Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phụng
sự nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Không ngừng làm giàu trí
tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các
vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống
được những nguy cơ lớn, sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu chủ quan và sự
thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Đảng phải nghiêm túc xem xét những sai lầm khuyết điểm và yếu kém
của mình. Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI đã nêu ra một số vấn đề cơ bản
và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay, đẩy mạnh cuộc vận động
đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu
chống phá hòng xoá bỏ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của
chúng ta. Chúng dùng chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, tấn công vào tổ chức Đảng, dung nhiều âm mưu và thủ đoạn
thâm độc chống phá Đảng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức;
thổi phồng các khuyết điểm, sai lầm của Đảng; tố cáo ta độc đoán, chuyên
quyền, chúng hô hào “đa nguyên, đa đảng”.
Một số phần tử bất mãn, thoái hoá, biến chất trong Đảng cũng phụ hoạ
tuyên truyền chống đối Đảng. Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội hiện nay
chưa được ngăn chặn có hiệu quả… càng làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng và là nguy cơ của cách mạng nước ta.

6



Cách mạng nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và những thách thức
lớn. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những
nhiệm vụ hết sức nặng nề. Coi lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với
trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của
Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Trong quá
trình lãnh đạo đổi mới, Đảng ta ngày càng trưởng thành và cũng nhận thức rõ
hơn những thành tựu và những mặt yếu kém của mình để có biện pháp phát
huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Thắng lợi của công cuộc đổi mới thời
kỳ qua chứng tỏ Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy được bản lĩnh và
những kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có hiệu quả công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức tạp trong
nước và quốc tế.
Đảng muốn làm được sứ mệnh của mình phải thường xuyên đổi mới, tự
chỉnh đốn và phát triển cùng với bản chất cách mạng và khoa học của Đảng ta
và chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng Đảng trong thời gian
qua:
2.1. Những thành tựu:
Trong 82 năm xây dựng và trưởng thành,, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại………..
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng ấy, Đảng có lúc phạm sai lầm,
khuyết điểm nhưng đã nghiêm túc tự phê bình, tích cực sửa chữa và rút ra
những bài học quý báu.
Nhìn tổng quát trong thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng Đảng đã đạt

được những thành tựu tích cực:
7


Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới
một cách đúng đắn, sang tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng đinh chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Ở những bước ngoặt của cách mạng và những diễn biến phức tạp của tình
hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch tạo cơ sở cho sự
thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Có tiến bộ về thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân
chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ của tập thể, sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân.
Đã có chủ trương và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị. Đảng đã xây dựng
và triển khai thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đảm bảo tính
kế thừa và phát triển. Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, nâng cao trình độ
và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên; ngăn chặn được sự sa sút, yếu kém
của nhiều tổ chức cơ sở Đảng; bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và
phong cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên và xử lý kỷ luật đảng có nhiều tiến bộ.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội, tập trung trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong quá trình ra Nghị quyết, thể chế hoá về Nhà nước các Nghị quyết
của Đảng.

tiếp tục hoàn chỉnh quan điểm và bổ sung chủ trương, giải pháp về xây
dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; lãnh đạo xây dựng quy chế phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là ở cơ sở, ban hành và đưa vào thực
8


hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở; kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị và cải cách tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà
nước.
2.2. Hạn chế, khuyết điểm:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa
với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ phải chịu tác động của
nhiều yếu tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng của các thế
lực thù địch, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng… đã làm
cho công tác xây dựng Đảng gặp phải rất nhiều khó khăn và tồn tại những hạn
chế, thiếu sót nhất định, bao gồm:
2.2.1. Chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất
chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên. một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản than, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác,
giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống.
Chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đó là những người
phai nhạt lý tưởng, sống thực dụng, cơ hội, cá nhân vị kỷ, bản vị cục bộ, tham
hũng, hối lộ, sa hoa, lãng phí, xa dân, gây phiền hà cho dân. Một số thoái hoá
về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ lại gây hậu quả nghiêm trọng.
2.2.2. Một số Đảng bộ ở cơ sở chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi
phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt
Đảng giảm sút. Trí tuệ và tính chủ động, tích cực của đội ngũ đảng viên, của
tập thể cấp uỷ chưa được phát huy đầy đủ; đảng viên cấp uỷ viên không dám
phê bình thẳng thắn những yếu kém, khuyết điểm của nhau, nhất là của cấp

trên trực tiếp và người đứng đầu. Tình trạng độc đoán, thậm chí gia trưởng,
chuyên quyền vẫn còn tồn tại ở một số nơi.
Ngược lại, nhiều nơi lại diễn ra tình trạng dân chủ quá trớn, nói và làm
tuỳ tiện, chấp hành không nghiêm Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Tình hình thiếu đoàn kết hoặc mất đoàn kết còn xảy ra ở nhiều nơi,
9


có nơi rất nghiêm trọng, chủ yếu do tư tưởng cơ hội, tham vọng cá nhân, kèn
cựa địa vị, cục bộ, bè phái chi phối.
2.2.3. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo
kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
chưa được làm sáng tỏ. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất
cập; công tác tổ chức cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Việc giáo dục tư
tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên được coi trọng, ít
đổi mới về phương pháp, thiếu sắc bén. Không ít cán bộ, đảng viên lười học
tập, buông lơi việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống.
Công tác lý luận chậm làm sang tỏ một số vấn đề lớn do thực tiễn đất
nước và yêu cầu xây dựng Đảng đặt ra, do đó trên một số vấn đề chưa tạo
được sự thống nhất cao về nhận thức, quan điểm và hành động trong Đảng,
chưa tạo được đầy đủ cơ sở khoa học cho việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện
đường lối và cơ chế, chính sách.
Một số biểu hiện trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ thể hiện ở việc
sắp xếp, kiện toàn bộ máy; tinh giảm biên chế triển khai còn chậm; công tác
quy hoạch cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận chuyển biến chưa mạnh;
việc quản lý, đánh giá cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng còn theo nếp
cũ, ít tác dụng…
2.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng, chưa đi
sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
Đảng cầm quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của các cơ quan Nhà

nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân.
Mặc dù đã có những tiến bộ, song vẫn bộc lộ rõ sự lúng túng trong việc
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, làm cho hiệu lực
quản lý của các cơ quan Nhà nước chưa được phát huy đầy đủ. Có lúc, có
việc buông lỏng lãnh đạo, nhưng cũng có lúc, có việc tổ chức Đảng lại bao
biện, làm thay Nhà nước. Đảng chưa phối hợp chặt chẽ và phát huy tốt vai trò
các cơ quan chức năng của Đảng, các tổ chức Đảng, đội ngũ đảng viên, cấp
10


uỷ các cấp và cán bộ chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước. Tính chủ động,
tích cực của đoàn thể và vai trò làm chủ của nhân dân chưa được phát huy
mạnh mẽ.
2.2.5. Tổ chức cơ sở Đảng ở nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt, phương
thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ, vừa
thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một số cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; bệnh quan lieu, độc đoán, cục bộ, địa
phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất
đoàn kết nghiêm trọng. Công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, quan
điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn yếu. Các cấp
uỷ, tổ chức Đảng chưa dành nhiều công sức cho việc chuẩn bị ra Nghị quyết
và chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra xác định rõ trách nhiệm của các cấp,
các ngành, của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện Nghị quyết.
Những khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trực tiếp và chủ yếu là nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng, kể cả BCH TU và
Bộ chính trị chỉ đạo chưa tập trung và kiên quyết; chủ trương, biện pháp thiếu
đồng bộ; chưa chỉ đạo kết hợp tiến hành tự phê bình và phê bình với kiện toàn
tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lý kinh tế, tài
chính và tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên.
Chương 3: Giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đưa ra hệ thống các giải pháp để
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay như sau:
3.1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị:
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

11


Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi
cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao
động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo
điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận:
Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số
vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước tavà những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không
ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên
cứu lý luận. tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến
khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên
cứu lý luận.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến
đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các
nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt, giáo dục truyền

thống yêu nước, cách mạng.
Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận xã hội. Đổi mới hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng
thiết thực, hiệu quả.
3.3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân:

12


Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ
chức đảng và các tầng lớp nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc,
trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân.
Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Triển khai thực hiện tốt quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến
nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức sống của cán bộ, đảng viên. Xử lý
nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức,
lối sống.
3.4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị:

Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số
ban, bộ, ngành Trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao
chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu,
nhất là ở cấp chiến lược.
Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi
mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, nhất là
của đảng đoàn, ban cán sự đảng.
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt
cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung
ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ . Chống quan lieu, bè phái, cục bộ địa phương, lối làm việc
vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
13


3.5. Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên:
Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của cá loại
hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị,
bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm
chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí ,
yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối
sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính
tiên phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không
đủ tư cách đảng viên.
3.6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội

bộ:
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới
tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán
bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài.
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục
tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán
bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây
dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên
cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả
công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không
bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa.

14


Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng
lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút.
Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện
luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp;
khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý
cán bộ.
Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội
ngũ chuyên gia đầu ngành. Đỏi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản
lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.
Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý
cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết

vấn đề chính trị hiện nay. Giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng.
3.7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát:
Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực
hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.
Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước,
mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công
tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan
hành pháp, tư pháp, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng
chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan.
Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa Uỷ ban kiểm tra Đảng với các tổ
chức Đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố
cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
3.8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng:

15


Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng
bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các
cơ quan quản lý Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng
từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi
đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là

trách nhiệm của người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức Đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đổi mới cách ra Nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Đảng. Đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà,
bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi
đôi với làm.
PHẦN KẾT LUẬN
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng
Đảng, nhờ vậy Đảng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lãnh đạo nhân dân giành
chính quyền, kháng chiến thắng lợi, thống nhất đất nước và đưa cả nước ta
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, công tác xây dựng Đảng càng được đặc biệt chú trọng. Đại hội VI của
Đảng ta khẳng định: xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một Đảng cầm quyền
có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
16


Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Báo cáo chính trị Đại hội IX,
X, XI đều đặt vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng lên vị trí quan trọng hàng đầu của Đảng giai đoạn
hiện nay và đưa ra các giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này.

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tầm quan trọng phải kiên định và nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới:

1.1. Quan điểm của các nhà lý luận:
1.1.1. Mác - Lênin:
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
17


1.1.2.1. Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
1.1.2.2. Về năng lực lãnh đạo của Đảng:
1.2. Quan điểm của Đảng xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam:
Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng Đảng trong thời gian
qua:
2.1. Những thành tựu:
2.2. Hạn chế, khuyết điểm:
Chương 3: Giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng:
3.1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị:
3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận:
3.3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân:
3.4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức,, bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị:
3.5. Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng
viên:
3.6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội
bộ:
3.7. Đổi mới, nânh cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát:
3.8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng:
PHẦN KẾT LUẬN


18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
2.

Tài liệu hỏi đáp các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
3.

TS. Phạm Xuân Mỹ: Tìm hiểu đường lối đổi mới của Đảng Cộng

sản Việt Nam, HN, 2003.

19



×