Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Danh gia anh huong cua bien doi khi hau den san xuat va nang luc thich ung cua nguoi dan tai huyen hoang hoa, tinh thanh hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 86 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
----------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN SẢN XUẤT LÚA VÀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA”

Người thực hiện
Lớp
Khóa
Chuyên ngành
Giáo viên hướng dẫn

:
:
:
:
:

Nguyễn Thị Quý
MTB
57
Môi trường
TS. Đinh Thị Hải Vân

HÀ NỘI - 2015



HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
----------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN SẢN XUẤT LÚA VÀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA”

Người thực hiên
Lớp
Khóa
Chuyên ngành
Giáo viên hướng dẫn
Địa điểm thực tập

:
:
:
:
:
:

Nguyễn Thị Quý
MTB
57
Môi trường
TS. Đinh Thị Hải Vân
Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa


HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài : “Đánh giá ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu đến năng suất lúa và khả năng thích ứng của người dân tại
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh hóa ” là công trình nghiên cứu của bản thân.
Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong khóa luận đã được nêu rõ trong
phần tài liệu tham khảo. Các số liệu và kết quả trình bày trong khóa luận hoàn
toàn trung thực, nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội , ngày......tháng..... năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Quý

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Học viện nông nghiệp Việt Nam, Em
chân thành cảm ơn sự dạy dỗ và quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo,
cô giáo, ban Giám đốc Học viện, ban chủ nhiệm khoa Môi Trường
Sau thời gian thực tập tốt nghiệp, để hoàn thành được khóa luận tốt
nghiệp này, ngoài sự nổ lực của bản thân em , ngoài ra em còn nhận được sự dạy
dỗ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Em xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa, cùng toàn thể các thầy cô
giáo trong khoa môi trường, đã trang bị cho em những kiến thức, tạo điều kiện
cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy
cô giáo trong bộ môn Quản lý môi trường. Đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận

tình của cô giáo TS. Đinh Thị Hải Vân trong suốt quá trình em thực hiện khóa
luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của của cán bộ Phòng
Nông nghiệp và PTNT huyện Hoằng Hóa, Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh
Thah Hóa, UBND xã Hoằng Phụ và xã Hoằng Đông, huyện Hoằng Hóa đã tạo
điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã hết
lòng tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ và luôn ở bên em trong suốt quá trình học
tập và rèn luyện.
Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài không thể tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý
kiến của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày....tháng.....năm 2015
Sinh viên

2


Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng
nghiêm trọng. Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, là băng tan, nước
biển dâng cao; là các hiện tượng thời tiết bất thường, bão lũ, sóng thần, động
đất, hạn hán và giá rét kéo dài… dẫn đến thiếu lương thực, thực phẩm và xuất
hiện hàng loạt dịch bệnh trên người, gia súc, gia cầm. Theo báo cáo của Tổ chức
liên Chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) 2007, nhiệt độ
trái đất đang tăng lên 0,7 độ C kể từ thời kì tiền công nghiệp và hiện tại đang
tăng với tốc độ ngày càng cao, gia tăng mực nước biển băng hà lùi về hai
cực. Nếu khoảng thời gian 40 năm (1962 – 2003) lượng nước biển trung bình

toàn cầu tăng 1,8mm/năm thì riêng 10 năm cuối từ 1993 - 2003 mức tăng là
3,1mm/năm. Tổng cộng, trong 100 năm qua, mực nước biển đã tăng 0,31m.
Theo quan sát từ vệ tinh, diện tích các lớp băng ở Bắc cực, Nam cực, băng ở
Greenland và một số núi băng ở Trung Quốc đang dần bị thu hẹp. Chính sự tan
chảy của các lớp băng cùng với sự nóng lên của khí hậu các đại dương toàn cầu
(tới độ sâu 3.000m) đã góp phần làm cho mực nước biển dâng cao.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên hứng chịu khá nhiều tác động khi biến đổi khí
hậu .Ngân hàng Thế giới xếp Việt Nam là một trong 5 quốc gia hàng đầu trên
thế giới có nguy cơ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu mang
lại.Ngân Hàng Thế Giới nhận định rằng đất nước này sẽ gánh chịu những hậu
quả của biến đổi khí hậu như là “thảm họa tiềm tàng”. Mối đe dọa lớn nhất đối
với Việt Nam là mực nước biển dâng. Trong một cuộc khảo sát trên 84 quốc gia
đang phát triển nhằm đánh giá về những rủi ro từ mực nước biển dâng thì Việt
Nam đều đứng nhất nhì trên tất cả các yếu tố được xem xét. Hơn một nửa dân số
Việt Nam (55%) sống ở vùng đất thấp ven biển (những vùng đất cao từ 0 – 10m
so với mực nước biển). Mực nước biển được dự đoán sẽ tăng thêm 1-3 m trong

1


thế kỷ 21 mà có khả năng thậm chí còn tăng cao hơn nữa. Năm 2014, bão và áp
thấp nhiệt đới hoạt động trên khu vực Tây Thái Bình Dương và biển Đông ít hơn
trung bình nhiều năm , Tây Thái Bình Dương có 23 cơn bão lớn và áp thấp
nhiệt đới; trên biển Đông có 5 cơn bão và 3 áp thấp nhiệt đới ít hơn trung bình
nhiều năm là 4 cơn và ít hơn năm 2013 là 11 cơn.Bão ít, nhưng có nhiều siêu
bão, siêu bão ảnh hưởng trực tiếp đến Philippin, Nhật Bản gây thiệt hại lớn về
người và tài sải.Trên đất liền Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của 3 cơn bão
và ảnh hưởng của 1 áp thấp nhiệt đới từ bão số 5 suy yếu thành, trong đó có hai
siêu bão ảnh hưởng trực tiếp đến Bắc Bộ, một cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến
Nam Trung Bộ.( Theo báo cáo tổng kết mùa mưa, bão, lũ năm 2014 của Đài

KTTV Hà Nam).
Ở nước ta, dân số trên 80 triệu và 100% người Việt Nam sử dụng lúa gạo
làm lương thực chính. Lúa gạo đóng vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp
của bà con nôngdân trên khắp cả nước, ngành sản xuất lúa gạo chiếm vị trí quan
trọng trong nển kinh tế xã hội của quốc gia, là chỗ dựa cho các ngành khác phát
triển và là nguồn dự trữ cho chính sách xã hội của nhà nước. Chính vì vậy, sản
xuất lúa cần được quan tâm trước thực trạng biến đổi khí hậu hiện nay.
Huyện Hoằng Hóa là một huyện đồng bằng ven biển với đa số dân cư
sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Là một trong các huyện trọng điểm
sản xuất lúa của tỉnh Thanh Hóa. Lúa được coi là cây lương thực chủ đạo; không
những thế huyện còn có vùng trồng lúa chất lượng tiêu biểu với giống lúa mới
cho chất lượng cao như: F1, F2, Bắc Ưu 903.... Cho đến năm 2015,diện tích lúa
cả năm là 14.300 ha, năng suất lúa bình quân cả năm: 62 tạ/ha, sản lượng: 88.550
tấn.( Theo Đài TT Hoằng Hóa).Tuy nhiên, Hoằng hóa được đánh giá là một trong
những huyện đồng bằng ven biển sẽ bị ảnh hưởng nặng nề khi nước biển dâng.
Trong những năm gần đây, mùa bão, lũ thường bắt đầu muộn và kết thúc sớm,
hướng di chuyển của các cơn bão bất thường, số lượng các xoáy thuận nhiệt đới
không thể hiện thành xu thế. Nền nhiệt trong các đợt rét đậm, rét hại và các đợt
2


nắng nóng có biến động theo chiều hướng xấu về mức độ và thời gian. Mặt
khác, hoạt động sản xuất lúa còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khi nhiệt độ
tăng, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng ảnh hưởng rất lớn
tới sản xuất nông nghiệp.
Trong bối cảnh của biến đổi khí hậu như thế, biện pháp thích ứng của
người dân là rất quan trọng trong khi nhà nước lại chưa có nhưng chính sách phù
hợp.Xuất phát từ thực tiễn trên em tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất lúa và khả năng thích ứng của
người dân ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa”.

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá được diễn biến khí hậu từ năm 1964 – 2014 tại huyện Hoằng

Hóa- tỉnh Thanh Hóa trong vòng 30 năm trở lại đây.
- Tìm hiểu được hiện trạng sản xuất và năng suất lúa của huyện Hoằng
Hóa- tỉnh Thanh Hóa trong vòng 15 năm trở lại đây.
- Đánh giá được ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất lúa của
huyện Hoằng Hóa- tỉnh Thanh Hóa.
- Tìm hiểu được các biện pháp thích ứng trong sản xuất lúa tại huyện
Hoằng Hóa – Thanh Hóa.
- Đề xuất các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất
nông nghiệp.

3


Phần 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về biến đổi khí hậu
2.1.1. Quan điểm về biến đổi khí hậu
Thời tiết là “trạng thái khí quyển tại một địa điểm nhất định được xác định
bằng tổ hợp các yếu tố như nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa,…”. Khí
hậu là “trạng thái trung bình theo thời gian (thường là 30 năm) của thời tiết” (Bộ
Tài nguyên và Môi trường, 2008, tr.6).
Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết tại một khu vực nào đó, như
một tỉnh, một châu lục họa toàn cầu trên cơ sở chuỗi số liệu dài( thường từ nhiều
tháng đến hàng triệu năm, trước đây thời gian dùng để đánh giá là 30 năm- Theo
tổ chức khí tượng thế giới – WMO). Khi ta nói “ Khí hậu Việt Nam là khí hậu
nóng ẩm”. Điều đó có nghĩa là nước ta thường xuyên có nhiệt độ trung bình năm

cao và lượng mưa trung bình hằng năm lớn. So với thời tiết, khí hậu thường ổn
định hơn.
Có rất nhiều khái niệm và định nghĩa về biến đổi khí hậu (BĐKH) được
trên thế giới và ở Việt Nam sử dụng:
Theo Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH của UNFCCC: Biến
đổi khí hậu là sự biến đổi cơ bản của khí hậu được quy trực tiếp hoặc gián tiếp
do hoạt động của con người, làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu; sự
thay đổi này cộng thêm khả năng biến động tự nhiên của khí hậu quan sát được
trong các thời kì có thể so sánh được.
Chương trình Môi trường Quốc gia về Ứng phó với BĐKH đưa ra định
nghĩa: “ Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình
hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài
thập kỷ hoặc dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể do quá trình tự nhiên bên trong
hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi
thành phần khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất”.

4


Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể hiểu một cách đơn giản: “BĐKH là
sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc là dao động của khí hậu
duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn”.
2.1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu
Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung. Theo IPCC (2007), nhiệt
độ không khí trung bình toàn cầu trong thế kỷ XX đã tăng lên 0,740C và nhiệt độ
trung bình bề mặt toàn cầu sẽ tăng 2,0 – 4,5 0C vào năm 2100 (so với thời kỳ
1980 – 1999) tương ứng với mức tăng nhiệt độ nói trên, mức nước biển trung
bình toàn cầu sẽ tăng 0,18 – 0,59 m vào thời kỳ 2090 – 2099 (so với thời kỳ
1980 – 1999).
Sự nâng cao mực nước biển do băng tan dẫn tới sự ngập úng ở các vùng

đất thấp, các đảo nhỏ ven biển. Trong thế kỷ XX, nước biển đã dâng cao trung
bình 0,17 m (từ 0,12 m đến 0,22 m). Nguyên nhân của hiện tượng này có thể
giải thích bằng việc cả khối nước biển dãn nở khi nhiệt độ tăng và việc này làm
các chóp băng ở hai cực tan dần (Nguyễn Thọ Nhân, 2009). Theo IPCC (2007),
băng giá trên mặt đất giảm dần diện tích, nhiều tảng băng đã tan từ cuối thế kỷ
19. Ở Nam cực, chiều dày của các tấm băng đã giảm đi và vào cuối năm 2002,
thềm băng Larsen B đã bị vỡ ra. Và ở Bắc Bán cầu diện tích băng giảm 7% từ
năm 1990.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
Sự dịch chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của trái đất dẫn tói nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các
hệ sinh thái và hoạt động của con người.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thủy quyển, sinh quyển, địa quyển. (Trần Thọ Đạt, 2012).
5


Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình và mực nước biển dâng thường
được coi là hai biểu hiện chính của BĐKH.
2.1.3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
BĐKH là hiện tượng đã xuất hiện từ lâu trên trái đất, bắt đầu ngay từ thời
đại địa chất qua thời đại lịch sử đến thời đại hiện nay. Nếu như trong thời đại địa
chất và thời đại lịch sử BĐKH diễn ra phù hợp với các quá trình vận động tự
nhiên để duy trì sự tồn tại và phát triển của trái đất thì trong thời đại hiện nay với
hàng loạt hoạt động của con người cùng hàm lượng cao các khí nhà kính trong
đó đặc biệt là sự xuất hiện của khí CFCs, BĐKH lại trở thành một hiện tượng
đáng lo ngại, được cả thế giới quan tâm vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc

sống, sự tồn tại và phát triển của tất cả các sinh vật sống trên trái đất.
Có 2 nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu đó là do tự nhiên và do
con người.
2.1.3.1. Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng
của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa,
thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của trái đất. Với sự xuất hiện các
Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi,
nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt
trái đất. Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng
lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể
là từ khi tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của Mặt trời
đã tăng lên hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì
sự thay đổi cường độ sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí
quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO 2), hơi nước, bụi và
tro vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu
trong nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa,
6


các sol khí phản chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì
vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí hậu. Dòng hải
lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi trong lưu thông
đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động của CO 2 vào
trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với
một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ
đạo quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ

có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn
đến BĐKH.
Tóm lại, có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự
nhiên đóng góp một phần rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến
hiện nay. Theo các kết quả nghiên cứu và công bố từ Ủy Ban Liên Chính Phủ về
biến đổi khí hậu (IPCC) thì nguyên nhân gây ra BĐKH chủ yếu là do các hoạt động
của con người.
2.1.3.2. Nguyên nhân nhân tạo
Có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên
nhanh chóng hơn nửa thế kỷ qua chủ yếu là do hoạt động của con người. Chẳng
hạn như việc đốt các nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ…) phục vụ các hoạt
động công nghiệp, giao thông vận tải, phá rừng làm mất cân bằng sinh thái, sản
xuất hóa chất và thay đổi mục đích sử dụng đất bao gồm thay đổi trong nông
nghiệp, công nghiệp, nhà ở... Ngoài ra còn một số hoạt động khác như đốt sinh
khối, sản phẩm sau thu hoạch. Nhu cầu năng lượng của nhân loại ngày càng
nhiều, trong đó năng lượng hóa thạch chiếm phần lớn. Mặc dù, năng lượng hạt
nhân hoặc một số dạng năng lượng sạch khác có xu hướng tăng lên nhưng vẫn
chỉ chiếm một phần nhỏ so với nhu cầu năng lượng nói chung. Sử dụng năng

7


lượng hóa thạch là nguyên nhân làm tăng đáng kể nồng độ khí CO 2 trong khí
quyển, trong đó các nước phát triển đóng góp phần lớn.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007), hàm lượng khí CO 2
trong khí quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên trong khoảng 650.000 năm
qua (180 – 280 ppm) và đạt 379 ppm (tăng ~ 35%). Lượng phát thải khí CO 2 từ
sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4 tỷ tấn cacbon (23,5 tỷ tấn
CO2) mỗi năm trong những năm 1990 đến 7,2 tỷ tấn cacbon (45,9 tỷ tấn CO 2)
mỗi năm trong thời kỳ 2000 – 2005. Lượng phát thải khí CO 2 từ việc thay đổi sử

dụng đất ước tính bằng 1,6 tỷ tấn cacbon (5,9 tỷ tấn CO 2) trong những năm
1990.
Hàm lượng khí CH4 trong khí quyển đã tăng từ 715 ppb trong thời kỳ tiền
công nghiệp lên 1.732 ppb trong những năm đầu thập kỷ 90 và đạt 1.774 ppb
năm 2005 (tăng ~148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N2O) trong khí quyển đã tăng
từ 270 ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 319 ppb vào năm 2005 (tăng
khoảng 18%). Các khí metan và nito ôxit tăng chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp,
đốt nhiên liệu hóa thạch, chôn lấp rác thải,… (Theo IPCC, 2007).
Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70 - 90% lượng CO 2 vào khí
quyển. Năng lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải, chế tạo các
thiết bị điện: tủ lạnh, hệ thống điều hòa nóng lạnh và các ứng dụng khác. Lượng
CO2 còn do hoạt động trong nông nghiệp và khai thác rừng (kể cả cháy rừng),
khai hoang và công nghiệp. Do đó, việc tiêu thụ năng lượng hóa thạch đóng góp
khoảng một nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng nhiệt đới
đóng góp khoảng 18% và hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các
khí gây ra lượng bức xạ cưỡng bức làm nóng lên toàn cầu. Các sản phẩm hóa
học (CFC, Halocacbon,…) là 24% và các nguồn khác như rác chôn dưới đất,
nhà máy xi măng,…là 3% (Lê Văn Khoa và cộng sự, 2012).
Các thành phần gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu bao gồm hơi nước, khí
đioxit cacbon (CO2), ô-xit Nitơ (N2O ), khí mê-tan (CH4) và ô zôn (O3). Những
8


họat động của con người đã làm sản sinh thêm những chất khí mới vào thành
phần các chất khí gây hiệu ứng nhà kính như fluorure lưu huỳnh SF6, các họ
hàng nhà khí hydroflurocarbone HFC và Hydrocarbures perfluores PFC. Tất cả
các loại khí này đều có đặc tính hấp thụ tia bức xạ hồng ngoại từ bề mặt trái đất
lên không gian.
Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch của loài người đang làm cho
nồng độ khí CO2 của khí quyển tăng lên. Sự gia tăng khí CO 2 và các khí nhà

kính khác trong khí quyển trái đất làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Theo báo cáo
của IPCC(2007) nếu nồng độ CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi thì nhiệt độ bề
mặt trái đất tăng khoảng 30C. Các số liệu nghiên cứu cho thấy nhiệt độ trái đất
đã tăng 0,50C trong khoảng thời gian từ năm 1885 đến năm 1940 do thay đổi của
nồng độ CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến 0,035%. Dự báo nếu không có biện
pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên 1,5 đến 4,5 0C
vào năm 2050.
Hình 2.1: Cơ chế hình thành hiệu ứng nhà kính

Nguồn: Tài liệu internet
9


Nhờ hiệu ứng nhà kính này mà nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất theo
quan trắc là 15oC. Nếu không có hiệu ứng nhà kính này xảy ra thì theo tính toán
nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất sẽ là -18 oC.
Như vậy KNK không phải là khí hoàn toàn có hại cho chúng ta chúng giúp
duy trì sự sống trên trái đất. Vì hoạt động của con người làm phát thải khí nhà
kính tăng, dẫn đến xuất hiện hiệu ứng nhà kính tăng cường. Điều này sẽ gây có
hại cho chúng ta, cụ thể là nhiệt độ bề mặt trái đất tăng, gây nên biến đổi khí
hậu. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra ở đây là với nồng độ KNK bao nhiêu thì sẽ có lợi
cho sự sống của chúng ta? Và nếu nồng độ KNK trong khí quyển tăng lên thì sẽ
gây ra hiên tượng gì?
Như vậy, BĐKH hiện nay có cả nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo, song sự
nóng lên toàn cầu được khẳng định là do hoạt động của con người làm tăng hàm
lượng các khí nhà kính trong khí quyển gây ra một lượng bức xạ cưỡng bức dương.
2.2.

Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam


2.2.1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới
Trong lịch sử địa chất của trái đất chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng
nhiều lần xẩy ra với những thời kỳ lạnh và nóng kéo dài hàng vạn năm mà
chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ gian băng. Thời kỳ băng hà cuối
cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là giai đoạn ấm lên của thời kỳ
gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi khí hậu này, chúng ta có thể
thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng trục quay trái đất, sự thay đổi
quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các lục địa và đại dương và đặc
biệt là sự thay đổi trong thành phần khí quyển.
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, những số liệu có được cho thấy xu thế
chung nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Theo kết quả đo đạc và
nghiên cứu hiện nay cho thấy, nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu trong thế
kỷ XX đã tăng lên 0,740C, đặc biệt là vào thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất
trong thiên niên kỷ vừa qua (IPCC, 2007).
10


Từ những năm đầu thế kỷ XXI, nhiệt độ Trái Đất tiếp tục tăng. Nhiệt độ
trung bình toàn cầu năm 2003 tăng 0,460C so với trung bình thời kỳ 1971 –
2000, là năm ấm thứ ba kể từ năm 1861. Trong đó, nhiệt độ bán cầu Bắc là +
0,590C và bán cầu Nam là + 0,320C. Kể từ năm 1850 – 2006, trong số 12 năm
nóng nhất thì đã có 11 năm nằm trong 12 năm gần đây (1995 – 2006). Hiện tượng
thời tiết ấm lên ở Alaska trong những năm gần đây cũng là một minh chứng rõ rệt
nhất. Tại đây, nhiệt độ đã tăng lên 1,50C so với trung bình nhiều năm, lớp băng
vĩnh cửu giảm 40% và hàng năm lớp băng thường dày 1,2 m chỉ còn khoảng 0,3 m
(mỏng hơn 4 lần so với trung bình nhiều năm) (Theo IPCC, 2007).
Theo đánh giá của WMO: Năm 2010 là một trong ba năm nóng nhất
(2005, 1998, 2010) kể từ khi có số liệu quan trắc bằng máy (1850), trong đó thập
kỉ 2001-2010 là thập kỉ nóng nhất. Có 6 tháng đầu năm 2010 là một chuỗi tháng
liên tục có nhiệt độ trung bình cao nhất chưa từng có( trong đó tháng 6 là tháng

nóng kỷ lục kể từ năm 1880). Năm 2010 đã vượt qua năm 1998 (Elnino) về số
tháng phá kỷ lục nhiệt độ cao nhất theo lịch năm.
Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình
1,8mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 10
năm 1993 - 2003. Tổng cộng, mực nước biển dâng quan trắc được là 0,31m
(0,07)/100 năm gần đây. . Diện tích băng biển trung bình năm ở Bắc cực đã thu
hẹp với tỷ lệ trung bình 2,7%/1 thập kỷ. Riêng trong mùa hè là 7,4%/1 thập kỷ.
Diện tích cực đại của lớp phủ băng theo mùa ở bán cầu Bắc đã giảm 7% kể từ
1990, riêng trong mùa xuân giảm tới 15%. .Ở Bắc cực, khối băng có độ dày
khoảng 3km đang mỏng dần và đã mỏng đi 66cm. Ở Nam cực, băng cũng đang
tan với tốc độ chậm hơn và những núi băng ở Tây Nam cực đổ sụp. Ở
Greenland, những lớp băng vĩnh cửu tan chảy. Ở Alaska (Bắc Mỹ), nhiệt độ
trung bình những năm gần đây đã tăng 1,50C so với trung bình nhiều năm, làm
tan băng và diện tích lớp băng vĩnh cửu giảm 40%, lớp băng hàng năm thường
dày 1,2m nay chỉ còn 0,3m.

11


Các báo cáo tại Hội nghị Quốc tế về BĐKH họp ở Brucxen (Bỉ) vừa qua
cho biết, trung bình mỗi năm, các núi băng trên cao nguyên Thanh Hải (Trung
Quốc) bị giảm 7% khối lượng và 50 - 60m độ cao, uy hiếp nguồn nước của các
sông lớn ở Trung Quốc. Trong 30 năm qua, trung bình mỗi năm diện tích lớp
băng trên cao nguyên Tây Tạng bị tan chảy khoảng 131km 2, chu vi vùng băng
tuyết bên sườn cao nguyên mỗi năm giảm 100 - 150m, có nơi tới 350m. Tất cả
đang làm cạn kiệt hồ nước Thanh Hải – một hồ lớn nhất Trung Quốc - đe dọa sẽ
bị biến mất trong vòng 200 năm tới. Nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng, khối
lượng băng tuyết ở khu vực cao nguyên sẽ giảm 1/3 vào năm 2050 và chỉ còn
một nửa vào năm 2090, đe dọa hệ thống đường sắt trên cao nguyên.
Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy, số lượng các trận

bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã
tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, bắc Đại
Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp đôi,
trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ
Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225.000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão
Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người
và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD. Gần đây nhất “siêu bão” Nargis tại
Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số
lượng người thiệt mạng. Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90% cho thấy sẽ có
ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm
lên của Trái đất.
Như vậy, BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại.
Vấn đề BĐKH đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá trình phát
triển và an ninh toàn cầu như năng lượng, nước, lương thực, xã hội, việc làm,
ngoại giao, văn hóa, kinh tế, thương mại.
2.2.2. Tình hình biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo số liệu quan trắc, biến đổi của các yếu tố khí hậu ở Việt Nam có
những điểm đáng lưu ý sau:
12


Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung bình năm
ở Việt Nam đã tăng lên 0,7o C. Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây
(1961 - 2000) cao hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960). Nhiệt
độ trung bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6o C.
Năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập
kỷ 1931 - 1940 là 0,8 - 1,3o C và cao hơn thập kỷ 1991 - 2000: 0,4 - 0,5o C.
Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung
bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và

trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
Lượng mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu
phía Nam . Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm qua
(1958-2007) đã giảm khoảng 2% (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2008) .
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa
của Việt Nam trong 50 năm qua
Nhiệt độ (t0C)
Số
lượng Tháng Tháng
1
7
trạm

Lượng mưa (%)

Tổng
Tháng Tháng
lượng
Vùng khí hậu
9-11
5-10
năm
Tây Bắc
19
1,4
0,3
0,5
6
-6

-2
Đông Bắc Bộ
33
1,5
0,5
0,6
0
-9
-7
Đồng bằng Bắc Bộ 42
1,4
0,5
0,6
0
-13
-11
Bắc Trung Bộ
26
1,3
0,5
0,5
4
-5
-3
Nam Trung Bộ
11
0,6
0,4
0,3
20

20
20
Tây Nguyên
12
0,9
0,4
0,6
19
9
11
Nam Bộ
18
0,8
0,4
0,6
27
6
9
Trung bình cả nước 161
1,2
0,4
0,56
7
-5
-2
Nguồn: Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, 2011
TB
năm

Ở nước ta, hạn hán xảy ra trong tất cả các mùa vụ, tùy từng vùng và từng

năm mức độ nặng nhẹ khác nhau nhưng hạn hán ở Trung Bộ, nhất là Nam Trung
13


Bộ và Tây Nguyên thường nặng nề nhất. Các kịch bản về biến đổi lượng mưa
trong thế kỷ XXI cho thấy, lượng mưa mùa mưa ở phần lớn các vùng, nhất là
Trung Bộ sẽ tăng 5 – 10%, trong khi lượng mưa mùa khô giảm 0 – 5%. Như
vậy, hạn hán trong mùa khô có thể nghiêm trọng hơn (Bộ TN&MT, 2012).
Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các
trạm Cửa Ông và Hòn Dấu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20
cm, phù hợp với xu thế chung của toàn cầu.
Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai
thập kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ
có 15-16 đợt không khí lạnh bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường hợp có
số đợt không khí lạnh trong mỗi tháng mùa đông (XI - III) thấp dị thường (0-1
đợt) cũng rơi vào 2 thập kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 12/1994, 2/1997,
11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh
BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong
tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp.
Số giờ nắng: Trong thời gian 1961-1990, số giờ nắng trung bình hàng năm
ở Việt Nam biến đổi nhiều. Số giờ nắng trung bình hàng năm giảm 20 giờ ở Bắc
Giang, Hà Nội, Hải Dương; giảm 10 giờ ở Nam Định. Ở miền Nam gia tăng 20
giờ nắng ở Nha Trang; tăng 18 số giờ nắng ở Pleiku; tăng 10 giờ nắng ở Ban Mê
Thuột; giảm 20 giờ nắng ở Cần Thơ và Bạc Liêu.
Bão: Vào những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn,
quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn
hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981
- 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.
Như vậy, biến đổi khí hậu đã gây nên những hiện tượng thời tiết khắc

nghiêt, cự đoan các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt, xảy
ra bất thường với sự gia tăng tần suất xuất hiện và cường độ.
14


Kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam:
Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam được Phó
Thủ tướng Hoàng Trung Hải đồng ý để Bộ Tài nguyên và Môi trường dùng làm
cơ sở ban đầu để xây dựng các giải pháp ứng phó với BĐKH tại Việt Nam. Theo
các chuyên gia, kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng được xây dựng,
tính toán dựa trên kịch bản phát thải khí nhà kính. Theo đó, có ba kịch bản biến
đổi khí hậu tại Việt Nam được xây dựng dựa trên ba kịch bản phát thải, đó là
phát thải thấp, phát thải trung bình và phát thải cao.
Tuy nhiên, theo phân tích của các nhà khoa học, do tính phức tạp của biến
đổi khí hậu và những hiểu biết chưa thật đầy đủ về biến đổi khí hậu của Việt
Nam cũng như trên thế giới, cùng với yếu tố tâm lý, kinh tế, xã hội, tính chưa
chắc chắn về các kịch bản phát thải khí nhà kính, tính chưa chắc chắn của kết
quả mô hình tính toán xây dựng kịch bản nên kịch bản hài hòa nhất là kịch bản
Trung bình. Kịch bản này được khuyến nghị cho các Bộ, ngành và địa phương
làm định hướng ban đầu để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng và xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.Theo đó có
thể tóm tắt như sau:
Về nhiệt độ :Vào cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình năm có thể tăng lên
2,6oC ở Tây Bắc, 2,5o C ở Đông Bắc, 2,4o C ở đồng bằng Bắc Bộ, 2,8o C ở Bắc
Trung Bộ, 1,9o C ở Nam Trung Bộ, 1,6o C ở Tây Nguyên và 2,0o C ở Nam Bộ
so với trung bình thời kỳ 1980-1999.

15



Bảng 2.2: Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ1980 – 1999
theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
Vùng
Tây Bắc
Đông Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Nam Bộ

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
0,5
0,7
1,0
1,3
1,6
1,9
2,1
2,4
2,6
0,5
0,7
1,0
1,2
1,6
1,8
2,1
2,3

2,5
0,5
0,7
0,9
1,2
1,5
1,8
2,0
2,2
2,4
0,5
0,8
1,1
1,5
1,8
2,1
2,4
2,6
2,8
0,4
0,5
0,7
0,9
1,2
1,4
1,6
1,8
1,9
0,3
0,5

0,6
0,8
1,0
1,2
1,4
1,5
1,6
0,4
0,6
0,8
1,0
1,3
1,6
1,8
1,9
2,0
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009)

Về lượng mưa: Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể tăng khoảng 7
- 8% ở Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và từ 2 - 3% ở
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999.
Lượng mưa thời kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 4 - 7% ở Tây Bắc, Đông
Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ, khoảng 10% ở Bắc Trung Bộ, lượng mưa vào giữa
mùa khô ở các vùng khí hậu phía Nam có thể giảm tới 10-15% so với thời kỳ
1980 - 1999. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 10 đến
15% ở cả bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên và
Nam Bộ chỉ tăng trên dưới 1%.

16



Bảng I.11: Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980÷1999
theo kịch bản phát thải trung bình (B2)

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
1 Tây Bắc
1,4 2,1 3,0 3,8 4,6 5,4 6,1 6,7 7,4
2 Đông Bắc
1,4 2,1 3,0 3,8 4,7 5,4 6,1 6,8 7,3
3 Đồng bằng Bắc Bộ 1,6 2,3 3,2 4,1 5,0 5,9 6,6 7,3 7,9
4 Bắc Trung Bộ
1,5 2,2 3,1 4,0 4,9 5,7 6,4 7,1 7,7
5 Nam Trung Bộ
0,7 1,0 1,3 1,7 2,1 2,4 2,7 3,0 3,2
6 Tây Nguyên
0,3 0,4 0,5 0,7 0,9 1,0 1,2 1,3 1,4
7 Nam Bộ
0,3 0,4 0,6 0,8 1,0 1,1 1,2 1,4 1,5
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng - Viện Khoa học khí tượng
TT Vùng

Thủy văn và Môi trường
Mực nước biển dâng: Báo cáo lần thứ tư của IPCC ước tính mực nước
biển dâng khoảng 26-59 cm vào năm 2100, tuy nhiên không loại trừ khả năng
tốc độ cao hơn.
Nhiều nhà khoa học đã đánh giá rằng các tính toán của IPCC về thay đổi
nhiệt độ toàn cầu là tương đối phù hợp với số liệu nhiệt độ thực đo. Tuy nhiên,
tính toán của IPCC về NBD là thiên thấp so với số liệu thực đo tại các trạm và
bằng vệ tinh. Nguyên nhân chính dẫn đến sự thiên thấp này là do các mô hình

tính toán mà IPCC sử dụng để phân tích đã chưa đánh giá đầy đủ các quá trình
tan băng.
Một số nghiên cứu gần đây cho rằng mực nước biển toàn cầu có thể tăng
50 - 140cm vào năm 2100.
Các kịch bản NBD cho Việt Nam được tính toán theo kịch bản phát thải
thấp nhất (B1), kịch bản phát thải trung bình (B2) và kịch bản phát thải cao nhất
(A1FI).
Kết quả tính toán theo các kịch bản phát thải thấp, trung bình và cao cho
thấy vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 28 đến 33cm và đến
cuối thế kỷ 21 mực NBD thêm từ 65 đến 100cm so với thời kỳ 1980 - 1999.

17


Bảng I.13: Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980 - 1999
TT Kịch bản
1
2
3

Thấp (B1)
Trung
bình

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
11
17
23
28

35
42
50
57
65

12
17
23
30
37
46
54
64
74
(B2)
Cao (A1FI)
12
17
24
33
44
57
71
86
100
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng - Viện Khoa học khí

tượng Thủy văn và Môi trường
Theo kịch bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì vào giữa thế kỷ XXI,

mực nước biển có thể dâng khoảng 28cm đến 33cm và đến cuối thế kỷ XXI có
thể dâng thêm 65cm đến 100cm so với thời kỳ 1980 - 1999. Vùng duyên hải
Việt Nam có độ cao 1m trên mặt nước biển, chiếm một diện tích rất lớn theo hơn
3.000 km bờ biển sẽ bị đe dọa trầm trọng. Nhiều nơi trong số đó có thành phố
Sài Gòn chỉ cao hơn mặt biển 3m, nếu mực nước biển dâng cao hơn hiện nay
100cm, sẽ khoảng 40.000 km² đất trên lãnh thổ Việt Nam, chiếm 21,1% diện
tích toàn quốc bị nhấn chìm trong biển nước.
2.3. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp trên thế giới
và Việt Nam
2.3.1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp trên thế giới
Trong tất cả các lĩnh vực, nông nghiệp nói chung và hoạt động sản xuất
lúa nói riêng là đối tượng phải chịu tác động trực tiếp của BĐKH. Bởi đối với
sản xuất nông nghiệp, khí hậu là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, trong đó
năng lượng bức xạ, nhiệt độ và nước là những yếu tố không thể thiếu trong việc
tạo thành năng suất, sản lượng cây trồng. Thông qua quá trình quang hợp, bức
xạ mặt trời quyết định đến quá trình sinh trưởng, phát triển cũng như năng suất
của cây trồng. Năng suất tiềm năng của cây trồng là hàm đồng biến với bức xạ
mặt trời. Trong sản xuất nông nghiệp, trên từng đối tượng khác nhau, các giai
đoạn khác nhau thì chịu những tác động của BĐKH ở các mức ảnh hưởng khác

18


nhau. Những thiên tai như bão, lốc, tố, mưa lớn gây ngập úng, hạn hán,rét đậm
rét hại…chỉ tồn tại trong thời gian ngắn nhưng gây ra thảm họa đối với sản xuất
nông nghiệp, không chỉ là quá trình sinh trưởng, năng suất mà cả sản phẩm sau
thu hoạch.
Ngoài các biểu hiện của BĐKH gây ra ảnh hưởng xấu đến các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao,…thì các
nhân tố sơ cấp gây biến đổi khí hậu như nhiệt độ trái đất, lượng mưa, nồng độ

CO2,..lại tác động trên năng suất, sự sinh sản,..của các loại cây trồng, vật nuôi.
Ngoài ra, ngành nông nghiệp mà cụ thể là hiện diện của cây trồng hay các thảm
thực vật đều có đóng góp vào việc phát tán hay hấp thụ CO 2 và các khí thải nhà
kính khác.
Nhiệt độ trên mặt đất và trong không khí tăng dần dưới ảnh hưởng của các
chất khí thải nhà kính. Trong trường hợp xuất hiện các hiện tượng cực đoan như
nóng và lạnh quá mức thì nông nghiệp là lĩnh vực kinh tế bị tác động nhiều nhất.
Thực vật và động vật đều rất nhạy cảm với những thay đổi, dù rất nhỏ, của nhiệt
độ trung bình trong môi trường sống. Quá một mức nhiệt độ nào đó, tốc độ phát
triển của chúng sẽ trở nên suy tính, rồi đến một mức khác cao hơn, sự phát triển
sẽ giảm đi trông thấy. Khi có đủ nước trong đất thì hạt lúa giống chỉ nảy mầm
nếu nhiệt độ đất ở một ngưỡng thích hợp. Cây mạ non cũng phát triển nhanh hay
chậm tùy theo nhiệt độ. Nếu bất ngờ bị rét đậm thì cây mạ có thể bị thối rễ. Ở
các nước nhiệt đới mà phần lớn thuộc thành phần các quốc gia đang phát triển,
nhiệt độ không khí đã ở mức ngưỡng của sinh trưởng cao nên khi nhiệt độ tăng
lên thì năng suất cây trồng sẽ không tăng mà còn giảm đi. Phần lớn các nước
này đều nghèo, ít có khả năng ứng phó, hơn nữa nông nghiệp lại thường là hoạt
động kinh tế chính, cho nên việc giảm năng suất cây trồng sẽ gây tác hại lớn cho
nền kinh tế quốc dân. Người ta tính rằng, với việc trái đất ấm dần lên, năng suất
nông nghiệp ở các nước đang phát triển sẽ giảm đi từ 9% đến 21%, trong khi ở
các nước công nghiệp phát triển năng suất này còn giảm ít hơn 6%. Theo báo
19


cáo Stern năm 2009, các ảnh hưởng trên nông nghiệp của hiện tượng trái đất ấm
dần lên sẽ như sau:
Bảng 2.2. Trái đất ấm lên ảnh hưởng đến nông nghiệp

Nếu trái đất ấm lên
10C

20C

30C

Ảnh hưởng trên sản xuất lương thực thế giới
Năng suất ngũ cốc ở các vùng ôn đới có thể tăng ít
nhiều
Năng suất cây lương thực ở vùng nhiệt đới bị giảm đi
(giảm 5% - 10% ở châu Phi)
Năng suất cây lương thực ở các vĩ độ cao đạt đến đỉnh
cao nhất, 100 triệu – 550 triệu người có thể bị thiếu đói
ở các vùng năng suất thấp
Năng suất nông nghiệp ở châu Phi giảm đi từ 15% đến

40C

50C

35%. Nhiều vùng khô cằn như ở châu Úc sẽ không còn
khả năng sản xuất nông nghiệp
Độ axit của nước biển lên cao, tác động đến hệ sinh thái
biển. Nhiều loại cá không sinh trưởng được nữa.
Nguồn: Stephen N.Ngigi, 2009
Ngoài ra, độ ẩm của không khí cũng là một yếu tố quan trọng trong nông

nghiệp. Nếu độ ẩm này giảm đi thì hiện tượng bốc hơi và thoát hơi nước tăng
lên, do đó, muốn duy trì sự tăng trưởng tối ưu của thực vật, người ta cần phải bổ
sung nước tưới. Trong mùa thu hoạch, độ ẩm không khí cũng có tác động không
nhỏ đến hiện tượng chín của hạt. Độ ẩm cao còn làm tăng khả năng mắc bệnh
của cây trồng. Nhiệt độ không khí lên cao cũng như việc kéo dài chu kỳ sinh

trưởng trong trồng trọt có thể đẩy mạnh việc phát triển của sâu bệnh. Ở các xứ
lạnh, nếu mùa đông có nhiệt độ cao thì các ấu trùng sâu bệnh có thể tồn tại đến
mùa gieo trồng sau khi nhiệt độ lên cao hơn.
Theo báo cáo AR4 của IPCC, một số các tác hại của biến đổi khí hậu đến
nông nghiệp sẽ tăng dần trong thế kỷ 21. Mặc dù, trên các vĩ độ cao và trung
bình, hiện tượng ấm dần lên của trái đất (từ 1 đến 3 0C) đi đôi với sự gia tăng
nồng độ CO2 trong khí quyển có thể ít nhiều tăng năng suất cây trồng, nhưng ở
20


các vĩ độ thấp vùng nhiệt đới, chỉ cần một sự gia tăng nhỏ của nhiệt độ (từ 1đến
20C) cũng đủ làm giảm năng suất các cây lương thực chính. Ở châu Á, năng suất
cây lương thực sẽ bị giảm đi từ 2,5 đến 10% vào năm 2020 và sẽ giảm từ 5 –
30% vào năm 2050 so với năm 1990. Lúa, ngô, lúa mì đã bị giảm năng suất từ
nhiều thập kỷ nay ở những vùng bị hạn hán đe dọa. Theo nghiên cứu của Viện
Lúa Quốc Tế (IRRI), năng suất lúa sẽ giảm đi 10% nếu nhiệt độ tối thiểu trong
mùa gieo trồng tăng thêm 10C. Trong thế kỷ 20, sản lượng lúa ở châu Á đã giảm
đi 3,8% do nhiều lý do, trong đó có biến đổi khí hậu. Khi nhiệt độ tăng lên 2 0C,
năng suất lúa nước ở Trung Quốc giảm từ 5 đến 12%, còn năng suất lúa mì ở Ấn
Độ giảm đi 0,45 tấn một hecta nếu nhiệt độ mùa đông tăng 0,5 0C. Các hiện
tương thời tiết cực đoan có khả năng tăng cường và tần suất cũng gây nguy hại
cho nông, lâm, ngư nghiệp. Hạn hán, lũ lụt, nắng nóng cũng như dịch bệnh, côn
trùng, cháy rừng có nguy cơ tăng lên sẽ làm cho sản lượng lương thực, cây có
sợi,..bị hao hụt đi rất nhiều. Trong đợt nắng nóng vào mùa hè 2003 (nhiệt độ cao
hơn bình thường đến 60C), sản lượng ngô ở Pháp giảm đi 20% so với năm 2002,
sản lượng hoa quả giảm 25%, sản lượng rượu nho thấp nhất trong một thập kỷ
và thiệt hại tổng cộng của nước Pháp lên đến 4 tỷ euro (Nguyễn Thọ Nhân,
2009).
2.3.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 73% dân số sống bằng nghề

nông và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc sống người dân còn phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất nông
nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên các hộ cá thể, quy mô nhỏ, trình độ
khoa học kỹ thuật chưa cao, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Đây là một
thách thức lớn dưới tác động của BĐKH. Nhiệt độ, tính biến động và dị
thường của thời tiết và khí hậu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông
nghiệp, nhất là trồng trọt. Sự gia tăng của thiên tai và các hiện tượng thời
tiết, khí hậu cực đoan như bão, lũ lụt, hạn hán, giá rét sẽ ảnh hưởng trực tiếp
21


×