Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất lúa tại đồng bằng sông cửu long theo kịch bản biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.75 KB, 10 trang )

i

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Chúng ta đang sống ở một giai đoạn lịch sử mà cả thế giới đều đang nỗ lực
tìm hiểu những tác động và các giải pháp hạn chế tác động của Biến đổi khí hậu tới
cuộc sống con người. Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về phát triển bền vững tại
Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã nhận định rằng những hậu quả của
biến đổi khí hậu toàn cầu trực tiếp tác động đến sự sinh tồn của loài người, cụ thể
đến: tài nguyên nước, năng lượng, sức khỏe con người, nông nghiệp - an ninh lương
thực và đa dạng sinh học ... Không một quốc gia nào trên thế giới có thể né tránh
được hậu quả của BĐKH, trong đó có Việt Nam.
Nhận thức rõ ảnh hưởng của BĐKH, ngày 03 tháng 12 năm 2007, Chính phủ
đã có Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì,
phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu. Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình là
xây dựng và cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu. Mục tiêu của việc xây dựng các
kịch bản này là đưa ra những thông tin cơ bản về xu thế BĐKH, nước biển dâng
tương lai cho Việt Nam tương ứng với các kịch bản phát thải thấp, trung bình và
cao. Mục tiêu của việc xây dựng các kịch bản trên là đưa ra những thông tin cơ bản
về xu thế BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam trong tương lai tương ứng với các
kịch bản khác nhau về phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu. Dựa trên cơ sở đó; các
Bộ, ngành, địa phương đánh giá các tác động có thể có của BĐKH đối với các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, xây dựng và triển khai kế hoạch hành động nhằm thích ứng và
giảm thiểu tác động tiềm tàng của BĐKH trong tương lai.
Với mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé cùng các nhà khoa học,
các nhà quản lý về BĐKH thực hiện các mục tiêu trên, tác giả của Luận văn đã lựa
chọn Đề tài “Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến tình hình sản xuất lúa
tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long theo các kịch bản biến đổi khí hậu” làm
công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ



ii

Mục đích nghiên cứu của Đề tài là vận dụng những cơ sở lý luận và thực tiễn
về Biến đổi khí hậu và đánh giá tác động môi trường vào việc Đánh giá thực trạng
sản xuất lúa gạo tại vùng ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên cơ sở các kịch
bản nước biển dâng, đánh giá tác động của nó tới tình hình sản xuất lúa gạo tại vùng
ĐBSCL trong tương lai. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm thích ứng
và hạn chế những tác động của BĐKH theo các kịch bản nước biển dâng đến cuộc
sống nói chung và tình hình sản xuất lúa gạo tại vùng ĐBSCL nói riêng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những ảnh hưởng của BĐKH đến sản
xuất lúa tại vùng ĐBSCL thông qua các kịch bản BĐKH
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào một trong những biểu hiện
rõ ràng nhất của BĐKH là nước biển dâng, từ đó đánh giá tác động của nó tới một
lĩnh vực sản xuất cụ thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất là sản xuất lúa theo các kịch bản
nước biển dâng. Vùng được chọn nghiên cứu là vùng ĐBSCL
Phương pháp nghiên cứu của đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng một
số phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp thu thập, xử lý và tích hợp các số liệu,
tài liệu đã có tại các cơ quan ban ngành và địa phương liên quan, phương pháp phân
tích trong phòng, phương pháp Viễn thám và GIS, phương pháp chuyển giao giá trị,
phương pháp phân tích chi phí – lợi ích.
Kết cấu của luận văn gồm ba chương (không kể Phần mở đầu, Các bảng
biểu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục). Trong đó:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Biến đổi khí hậu và nước biển dâng
Chương 2: Hiện trạng sản xuất lúa tại vùng ĐBSCL
Chương 3: Đánh giá tác động của nước biển dâng tới sản xuất lúa tại vùng
ĐBSCL theo các kịch bản nước biển dâng.
Trong chương 1, tác giả trình bày những vấn đề sau:
Một là: Tổng quan về Biến đổi khí hậu và nước biển dâng. BĐKH được hiểu



iii

như là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển,
thạch quyển ở hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo
mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự phát thải quá mức vào khí quyển các chất có
hiệu ứng nhà kính do hoạt động kinh tế và xã hội trên trái đất. Còn nước biển dâng
là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm triều,
nước dâng do bão.
Hai là: Giới thiệu các kịch bản nước biển dâng tại Việt Nam: Theo Ban liên
Chính phủ về BĐKH (IPCC), Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng là bức
tranh toàn cảnh của khí hậu trong tương lai dựa trên một tập hợp các mối quan hệ
khí hậu, được xây dựng để sử dụng trong nghiên cứu những hậu quả của BĐKH do
con người gây ra và thường được dùng như là đầu vào cho các mô hình đánh giá tác
động. Các kịch bản nước biển dâng tại Việt Nam được xây dựng cho khoảng thời
gian từ năm 2020 đến năm 2100, ứng với thời điểm 10 năm một sẽ có những mức
thay đổi khác nhau của mực nước biển lần lượt theo 3 kịch bản phát thải thấp, trung
bình và cao. Trong luận văn, tác giả sử dụng mức thay đổi tại thời điểm năm 2100
để đánh giá tác động, đó là: mức nước biển dâng cao 65cm với kịch bản phát thải
thấp, mức nước biển dâng cao 75 cm với kịch bản phát thải trung bình và mức nướ
biển dâng cao 100cm với kịch bản phát thải cao.
Ba là: Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để đánh giá tác động của nước
biển dâng tới sản xuất lúa. Cơ sở lý luận ở đây là một chuỗi các phương pháp đánh
giá tác động môi trường như: Phương pháp Viễn thám và GIS, phương pháp chuyển
giao giá trị, phương pháp phân tích lợi ích – chi phí… Cơ sở thực tế của việc đánh
giá là vai trò của cây lúa đối với đời sống xã hội và những tác động của biến đổi khí
hậu đến sản xuất lúa. Các nhà khoa học, chuyên gia cho biết, sau năm 2020 biến đổi
khí hậu sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến diện tích trồng lúa. Vào mùa mưa lũ;
BĐKH, nước biển dâng sẽ làm cho nhiều ha đất nông nghiệp bị ngập và bị nhiễm
mặn không sản xuất được, trong đó phần lớn là đất trồng lúa. Mưa nhiều gây hiện
tượng lũ lụt, ngập úng ảnh hưởng nghiêm trọng tới diện tích canh tác nông nghiệp.



iv

Diện tích đất trồng lúa bị giảm sút sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất cây trồng.
Vào mùa hanh khô, BĐKH cũng gây ra hiện tượng nắng nóng kéo dài, khô hạn
thiếu nước, tác động mạnh tới sản lượng và năng suất cây lúa.
Bốn là: Trình bày các biện pháp về mặt lý thuyết và thực tế để giảm thiểu tác
động của BĐKH và nước biển dâng tới sản xuất lúa. Về mặt lý thuyết,chúng ta

phải ngăn chặn các nguyên nhân gây ra BĐKH, nước biển dâng (như phần trên
đã nói) – tức là ngăn chặn các hoạt động phát thải quá mức gây nên hiệu ứng nhà
kính như: sử dụng nhiên liệu hoá thạch một cách hợp lý; nghiên cứu khai thác và
sử dụng các loại nhiên liệu sạch thay thế như năng lượng mặt trời, sức gió; xây
dựng những thành phố ít Cacbon; sử dụng phân bón hữu cơ trong nông nghiệp
và lâm nghiệp; đắp đê biển, trồng rừng ngập mặn; thực hiện sản xuất sạch hơn;
bảo vệ gìn giữ môi trường ..v..v. Một sô biện pháp khác nhằm giảm thiêu tác
động của BĐKH, nước biển dâng cũng rất quan trọng đó là: giáo dục nâng cao ý
thức cộng đồng người dân để mọi người dân đều có nhận thức đầy đủ về tính tất
yếu phải ứng phó với BĐKH, nước biển dâng; nâng cao vai trò quản lý nhà nước
trong lĩnh vực sử dụng, khai thác và gìn giữ tài nguyên môi trường quốc gia; đào
tạo nguồn nhân lực đủ trình độ khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác và kêu
gọi sự chia sẻ quốc tế về mặt tài chính, công nghệ kỹ thuật dể thực hiện các giải
pháp ứng phó với BĐKH một cách hiệu quả nhất.
Trên cơ sỏ lý luận và thực tiễn đã trình bày trong chương 1, chương 2 tác giả
đã đi sâu vào phân tích hiện trạng sản xuất lúa tại ĐBSCL với các vấn đề sau:
Một là: Giới thiệu chung về vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Đồng bằng
Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất màu mỡ ở phía Tây Nam Việt Nam, do phù
sa sông Cửu Long bồi đắp; bao gồm 13 đơn vị hành chính trực thuộc trung ương
Với diện tích khoảng 40.604,7 km2, ĐBSCL chiếm khoảng 12,3% diện tích cả

nước. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, dân số vùng ĐBSCL là
17.524.000 người, chiếm khoảng 20,5% dân số cả nước.Diện tích toàn châu thổ là


v

40.604,7 km2 với bờ biển dài trên 700 km. Đất đai chủ yếu ở ĐBSCL là do đất phù
sa, ngoài ra còn có vùng đất mặn do ảnh hưởng của biển và thuỷ triều, đất phèn
chua … ĐBSCL nằm trong vùng khí hậu cận xích đạo, ít có bão lớn xảy ra,. Mùa vụ
gieo trồng chỉ phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và lượng mưa. Mùa lũ sông Cửu
Long bắt đầu vào tháng 6, cao vào trung tuần tháng 7, sau đó giảm xuống rồi lại lên
vào tháng 9 -10. Mùa khô thường khô hơn vì không có thời kỳ mưa phùn ẩm ướt
vào tháng 2 -3 như ở miền Bắc. Độ ẩm tương đối bình quân 81.8%, so với Huế là
89.1% và Hà Nội 84.5%. Gió mùa Đông Nam hoặc Tây Nam, hầu như không chịu
ảnh hưởng của bão.
Hai là: Tầm quan trọng của sản xuất lúa gạo tại vùng ĐBSCL đối với vấn đề
an ninh lương thực trong nước và quốc tế. Từ lâu vùng ĐBSCL đã trở thành vựa lúa
lớn nhất trong cả nước và là nơi cung cấp nguồn gạo chính cho xuất khẩu của Việt
Nam. Thực tế cho thấy, cây lúa có vị trí quan trọng đặc biệt ở ĐBSCL, đóng góp
50% sản lượng lúa cả nưóc và 80% gạo xuất khẩu. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh
An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tiền Giang. Lúa gắn liền
với đời sống kinh tế và tinh thần của bà con vùng ĐBSCL, trở thành một biểu tượng
sống động cho sự phồn thịnh ở nơi đây.
Ba là: Thực trạng tình hình sản xuất lúa gạo tại vùng ĐBSCL. Ỏ vùng
ĐBSCL có 3 vụ lúa chính là: vụ mùa, vụ Đông xuân và vụ Thu phân. Trong đó vụ
mùa là vụ lúa cổ truyền, vụ Đông xuân và vụ Thu phân là hai vụ lúa mới, ngắn
ngày. Tuy mới chính thức hình thành và phát triển mạnh sau ngày giải phóng miền
nam nhưng về cơ cấu mùa vụ, vụ Đông xuân và vụ Thu phân đã đóng góp hầu hết
cho sản lượng gạo tại vùng ĐBSCL. Về diện tích đất trồng lúa, ĐBSCL hiện có
khoảng 7.41 triệu ha, chiếm từ 47 đến 51% trong cả nước. Hàng năm, vùng ĐBSCL

đóng góp hơn 50% sản lượng lúa gạo trong cả nước và hơn 80% sản lượng lúa gạo
xuất khẩu. Năng suất trung bình đạt 50.4 tạ/ha, cao hơn so với năng suất trung bình
trên cả nước
Bốn là: Thực trạng hệ thống đê điều tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ở


vi

Việt Nam, xây dựng đê điều từ lâu đâ trở thành một cách phòng và chống bão, lũ lụt
tương đối hiệu quả. Tuy nhiên, hệ thống đê điều ở vùng ĐBSCL tuy có nhưng hầu
hết đã bị hư hỏng và không đảm bảo chất lượng. Trước thách thức biến đổi khí hậu
và nước biển dâng, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt chương trình xây dựng và
củng cố tuyến đê từ Quảng Ngãi vào đến Kiên Giang. Nó dự kiến sẽ hợp nhất 618
km đê biển và 741 km đê sông để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
Tổng kinh phí đầu tư là khoảng 11.074 tỷ VN, tiến độ giải ngân dự kiến theo các
năm là: Năm 2009: 550 tỷ VND, từ năm 2010 – 2012: 3.600 tỷ VND, từ năm 2013
– 2015: 4.100 tỷ VND, từ năm 2016 – 2020: 3.374 tỷ VND.
Trên cơ sở đánh giá thực tế đúng tình hình hiện trạng sản xuất lúa hiện có tại
vùng ĐBSC, trong chương 3, tác giả tiến hành đánh giá tiềm năng sản xuất lúa
trong tương lai tại thời điểm năm 2100 trong bối cảnh nước biển dâng theo các kịch
bản phát thải khác nhau. Một số kết quả đánh giá đã đạt được như sau:
Thứ nhất: Theo bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2005 của vùng ĐBSCL,
toàn tỉnh có 19,984.95 km2 đất canh tác lúa. Nếu các kịch bản nước biển dâng xảy
ra đúng trên thực tế, thì vùng ĐBSCL sẽ có 4,985.43 km2 đất canh tác lúa bị ngập
theo kịch bản ngập 65cm,; 1,018.15 km2 đất lúa ngập theo kịch bản ngập 75cm; và
có 12,040,99 km2 đất lúa ngập theo kịch bản ngập 100cm.
Thứ hai: Với năng suất lúa trung bình không đổi qua các năm theo giả định
là 5,04 tấn/ha, lấy năng suất lúa trung bình nhân với diện tích đất bị ngập, ta thu
được kết quả sản lượng lúa bị giảm trên 2.5 triệu tấn lúa với kịch bản ngập 65cm,
giảm 3.5 triệu tấn lúa với kịch bản ngập 75cm và giảm 6.0 triệu tấn lúa với kịch bản

ngập 100cm, .
Thứ ba : Với hiệu suất xay xát từ lúa chuyển sang gạo thành phẩm 15% tấm
là 0,65 theo quy ước, thì sản lượng gạo thành phẩm 15% tấm bị giảm do sản lượng
lúa bị giảm theo tính toán là trên 1.6 triệu tấn gạo với kịch bản ngập 65cm, giảm
trên 2.3 triệu tấn gạo với kịch bản ngập 75cm, giảm trên 3.9 triệu tấn gạo với kịch
bản ngập 100cm


vii

Thứ tư: Giá trị thiệt hại trong nước do giảm sản lượng lúa là trên 5.84 nghìn
tỷ VND ứng với kịch bản ngập 65cm, trên 8.22 nghìn tỷ VND ứng với kịch bản
ngập 75cm, trên 14.109 nghìn tỷ VND ứng với kịch bản ngập 100cm.
Thứ năm: Giá trị thiệt hại trong nước do giảm sản lượng gạo là trên 5.72
nghìn tỷ VND với kịch bản ngập 65cm, trên 8.04 nghìn tỷ VND với kịch bản ngập
75cm, trên 13.81 nghìn tỷ VND với kịch bản ngập 100cm. Kết quả thu được từ việc
lấy sản lượng gạo bị giảm nhân với đơn giá trung bình một tấn gạo thành phẩm 15%
tấm tại mạn
Thứ sáu: Nếu coi sản lượng gạo bị giảm là hoàn toàn dùng để xuất khẩu, thì
giá trị thiệt hại về xuất khẩu gạo là xấp xỉ 432.8 triệu USD ứng với kịch bản ngập
65cm, 609.2 triệu USD ứng với kịch bản ngập 75cm, 1,075 triệu USD ứng với kịch
bản ngập 100 cm. Kết quả thu được từ việc lấy sản lượng gạo bị giảm nhân với đơn
giá xuất khẩu trung bình một tấn gạo thành phẩm 15% tấm
Thứ bảy: Với nhu cầu trung bình gạo một người một năm là 130 kg thì số
người bị thiếu lương thực do sản lượng gạo bị giảm là xấp xỉ 12.784 nghìn người.
ứng với kịch bản ngập 65cm, 17,997 nghìn người. ứng với kịch bản ngập
75cm,30,877 nghìn người. ứng với kịch bản ngập 100cm.
Thứ tám: So sánh giá trị thiệt hại kinh tế của việc giảm sản lượng lúa do tác
động của nước biển dâng với chi phí đầu tư xây đê biển ở Đồng bằng Sông Cửu
Long, kết quả thu được là chúng ta chỉ nên đắp đê trong trường hợp kịch bản ngập

75cm và 100 cm xẩy ra. Còn nếu trường hợp nước biển dâng lên 65 cm tại thời
điểm năm 2100, thì chi phí đắp đê tốn kém hơn cả phần mất đi do sản lượng lúa bị
giảm, lúc đó phương án đắp đê không đạt được hiệu quả
Với những kết quả đánh giá thu được như trên, luận văn của tác giả đã đạt
được một số ưu điểm và hạn chế sau:
Về Ưu điểm;
Thứ nhất: Với phương pháp Viễn thám và GIS, tác giả đã bóc tách các lớp


viii

thông tin dữ liệu trên bản đồ và tính toán cụ thể một cách tương đối chính xác diện
tích ngập của từng đối tượng trên một phạm vi rất rộng. Ở trong luận văn này, đối
tượng đó là lúa và phạm vi đánh giá bao gồm 13 tỉnh thành của vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long
Thứ hai: Đánh giá được một cách định lượng giá trị thiệt hại kinh tế về sản
xuất lúa. So sánh chi phí – lợi ích giữa giá trị thiệt hại ấy với phương án đắp đê (là
một trong những giải pháp nhằm thích ứng và giảm thiểu tác động của nước biển
dâng) để lựa chọn và ra quyết định..
Thứ ba: Kết quả đánh giá cho thấy tiềm năng phát triển của công nghệ Viễn
thám và GIS trong việc điều tra, đánh giá, giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi
trường phục vụ công tác quản lý nhà nước, phục vụ các ngành kinh tế quốc dân.
Về mặt hạn chế
Thứ nhất: Trong luận văn này, tác giả mới chỉ tính được phần thiệt hại kinh
tế do giảm sản lượng lúa ở những vùng đất bị ngập khi nước biển dâng lên (Có
thông tin biểu hiện trên bản đồ). Trên thực tế, sẽ có những vùng không bị ngập khi
nước biển dâng nhưng sản lượng và năng suất lúa trồng tại đó vẫn bị giảm do vùng
đó bị ảnh hưởng mặn và thay đổi chất đất với những vùng lân cận bị ngập, những
thiệt hại đó luận văn chưa đề cập đến
Thứ 2: Luận văn cũng chưa chỉ ra được mối liên hệ giữa năng suất, sản

lượng lúa với sự thay đổi các yếu tố khí hậu, môi trường như nhiệt độ, ánh sáng,
lượng mưa do BĐKH mang lại. Muốn thực hiện được điều đó đòi hỏi phải có bộ
nguồn số liệu đủ lớn và chính xác cũng như các mô hình đánh giá cụ thể. Do năng
lực và thời gian còn hạn chế nên tác giả chưa nghiên cứu được vấn đề này.
Thứ ba: Nguồn dữ liệu đầu vào dùng để đánh giá tác động chưa đủ lớn nên
trong quá trình đánh giá còn sử dụng nhiều giả định. Điều này sẽ làm giảm mức độ
tin cậy của kết quả đánh giá đưa ra
Trên cơ sở thực trạng về tình hình sản xuất và những kết quả đánh giá tác


ix

động của nước biển dâng tới sản xuất lúa gạo ở vùng ĐBSCL, tác giả mạnh dạn đề
nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa. Bộ giải pháp tác giả đưa ra
được tiếp cận theo hai hướng: Giảm thiểu và Thích ứng đối với những tác động của
nước biển dâng tới sản xuất lúa tại vùng ĐBSCL
Thứ nhất: Cải thiện công tác giống lúa
Công tác giống lúa cần được nghiên cứu theo hướng tạo ra những giống lúa
có khả năng chịu mặn cao để dần thích ứng với việc xâm nhập mặn do nước biển
dâng. Ngoài tính chịu mặn, cũng nên lai tạo các giống lúa mới có thời gian sinh
trưởng ngắn, cho năng suất cao.
Thứ hai: Điều chỉnh cơ cấu mùa vụ
Từ thập niên 60 của thế kỷ 20 trở về trước, ở ĐBSCL mỗi năm chỉ trồng
được một vụ lúa mùa hoặc lúa mùa nổi, năng suất thấp. Đến nay số vụ lúa ở
ĐBSCL đã lên tới 3 vụ, trong đó vụ Thu phân và vụ Đông Xuân mang lại sản lượng
lúa lớn, chiếm đa số tổng sản lượng lúa trong năm. Trong tương lai, khi công tác cải
thiện giống lúa đem lại những bước đột phá mới thì cơ cấu mùa vụ ở ĐBSCL cũng
cần được điều chỉnh để diện tích gieo trồng lúa càng ngày càng tăng trong bối cảnh
diện tích canh tác bị giảm. Bên cạnh đó, cũng cần thay đổi phương thức sản xuất
lúa, thử nghiệm những hệ thống sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao và

bền vững, phù hợp với bối cảnh mới trong từng tiểu vùng
Thứ ba. Tăng cường hiệu quả của khâu bảo quản sau thu hoạch
Theo Tổ chức Hợp phần xử lý sau thu hoạch (thuộc dự án chương trình hỗ
trợ ngành nông nghiệp), tổn thất sau thu hoạch lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long
chiếm 13,7% tổng sản lượng; khu vực Đồng bằng sông Hồng và các khu vực khác
là 11,6%. Không chỉ tổn thất về sản lượng, những cây lương thực chủ lực còn tổn
thất về chất lượng do bị nấm mốc, mối mọt. do hiện tượng biến chất protein làm
thay đổi màu sắc, mùi vị, giảm giá trị dinh dưỡng.. Do đó, cần tăng cường hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đảm bảo chất lượng của lúa sau thu hoạch. Trước hết,


x

cần xây dựng hệ thống sấy lúa và kho dự trữ hiện đại, đủ lớn, bảo đảm tiêu chuẩn
quốc tế để có chất lượng lúa tốt nhất, giảm tổn thất sau thu hoạch. Không những
thế, hệ thống cơ sở vật chất hiện đại này sẽ đảm bảo sự an toàn tương đối về mặt an
ninh lương thực khi bão, lũ và nước biển dâng cao.
Thứ tư: Một số biện pháp khác
- Duy trì và phát triển rừng ngập mặn: Rừng ngập mặn là hệ sinh thái đa
dạng, có vai trò rất quan trọng, được ví như lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa
biển để chống xói lở, hạn chế tác hại của gió bão, mở rộng đất liền Trước thách thức
của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, việc duy trì và phát triển rừng ngập mặn có
tác động rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của sản xuất lúa gạo
- Củng cố và xây dựng hệ thống đê điều : Như đã phân tích ở trên, đê điều
được xem như là một phương thức hạn chế tác động của lũ lụt, nước biển dâng tốt
nhất đối với sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc củng cố và xây dựng hệ thống đê
điều cũng là một biện pháp tốt để nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo.
- Hạn chế tối đa những hoạt động kinh tế ở các khu vực cửa sông, ven biển
làm tăng sự xâm nhập mặn vào đất liền. Ví dụ như không được đào sâu thêm hải
cảng ở các khu vực cửa sông cửa biển; hạn chế các hoạt động khai thác lòng sông,

hút cát sỏi - những hoạt động có thể làm tăng sự sụt lở vùng bờ, do đó làm tăng
nguy cơ của nước biển dâng
Đề tài luận văn “Đánh giá tác động của BĐKH đến sản xuất lúa tại vùng
ĐBSCL theo các kịch bản nước biển dâng” đã được thực hiện như một nghiên cứu
thí điểm ban đầu áp dụng phương pháp Viễn thám và GIS cho 01 lĩnh vực cụ thể là
sản xuất lúa trên 01 địa điểm cụ thể là khu vực ĐBSCL. Mặc dù đã rất cố gắng
trong quá trình làm luận văn, song do thời gian và năng lực có hạn nên luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm và
góp ý của Thầy cô và các chuyên gia để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!



×