Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.69 KB, 131 trang )

LỜI CẢM ƠN

Với tất cả tình cảm và lòng chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới TS. Nguyễn Liên Châu – Thầy đã đã hết lòng chỉ bảo, định
hướng, giúp đỡ và động viên tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Thầy
đã truyền cho tác giả nhiều kiến thức về khoa học quản lý giáo dục và cũng
giúp tác giả rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Học viện Quản lý
Giáo dục, cùng các thầy- cô trong Hội đồng khoa học, các thầy- cô trong
Học viện đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, dành nhiều công sức giảng
dạy, hướng dẫn giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy; ban Giám hiệu; các phòngkhoa chuyên môn cùng Giảng viên và Sinh viên trường Cao đẳng Thương
mại và Du lịch Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả trong quá trình học
tập, nghiên cứu cũng như đã hợp tác, chia sẻ và cung cấp số liệu để tác giả
hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng để thực hiện tốt đề tài, song khó tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý
kiến của Quý thầy- cô, các bạn đồng nghiệp và những người cùng quan tâm tới những
vấn đề được trình bày trong luận văn.

Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Thái Trung Đích


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi,
không trùng lặp với bất kỳ kết quả nghiên cứu nào đã có. Số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là trung thực. Tôi cũng xin cam đoan rằng các kết


quả trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc hoặc chỉ rõ trong tài
liệu tham khảo.
Tác giả

Thái Trung Đích


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BGH
CBQL, GV, NV

CLB
CSVC
ĐH
ĐTB
GD
GD&ĐT
HĐTH
HTTC
NCKH
PPDH
QLGD
SV
TB
X

Ban Giám Hiệu
Cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên
Cao đẳng
Câu lạc bộ

Cở sở vật chất
Đại học
Điểm trung bình
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động tự học
Hệ thống tín chỉ
Nghiên cứu khoa học
Phương pháp dạy học
Quản lý giáo dục
Sinh viên
Thứ bậc
Điểm trung bình


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................1


DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................1

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1.

Các chức năng của quản lý.................................................................

LỜI CẢM ƠN......................................................................................................1



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Nhận thức được tầm
quan trọng trong công tác giáo dục đào tạo, Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tại Đại hội lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định
“Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài; coi trọng cả ba mặt: Mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả”. [6]
Theo quan điểm trên, chất lượng giáo dục hướng tới con người toàn diện
đúng nghĩa trong thời đại khoa học- công nghệ phát triển không ngừng: Đó là
con người năng động, độc lập, sáng tạo, có lòng ham học, ham hiểu biết, có năng
lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Những mẫu người tri thức đó phải được bắt đầu cách học, cách suy nghĩ
độc lập từ những bậc học đầu tiên ; được quyền học và học được những cách học
sáng tạo ; được dẫn dắt bởi những lương sư và được học trong môi trường giáo
dục hướng trung tâm về học sinh, để được phát huy tốt nhất và tự nhiên nhất
những năng lực, phẩm chất cá nhân.
Bác Hồ đã căn dặn: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và nghị quyết TW lần thứ hai khoá
VIII đã chỉ rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực
tự học sáng tạo của học sinh”. [6]
Trong mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 29 Hội nghị TW 8 khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Đối với giáo dục đại học,
tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm
chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học…”.[7]
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong thời kỳ
hội nhập quốc tế, trong đó, vấn đề đổi mới phương thức đào tạo và QL đào tạo

theo hướng hiện đại hoá đã và đang trở thành một yêu cầu cấp bách. Trường Cao
đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội đang trong cơ chế chuyển đổi từ phương


2

thức đào tạo theo niên chế học phần sang phương thức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ, điều này đòi hỏi một sự thay đổi lớn về công tác QL đào tạo của nhà trường.
Đối với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu
của SV được coi là nhân tố quan trọng, quyết định việc nâng cao chất lượng đào
tạo của trường. Tuy nhiên, quá trình QL HĐTH của SV còn nhiều khó khăn, bộc
lộ những hạn chế cũng như chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến hiệu quả
chưa cao. Vì vậy đặt ra cần thiết phải tăng cường QL HĐTH cho SV trường CĐ
Thương mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một nhiệm
vụ cấp thiết hiện nay của nhà trường.
Với những lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý hoạt động
tự học của sinh viên trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội trong
đào tạo theo hệ thống tín chỉ”
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận về dạy học và quản lý dạy học trong hệ
thống tín chỉ ở trường đại học, cao đẳng; đánh giá thực trạng việc tự học và quản
lý HĐTH của SV ở trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội để đề xuất
một số biện pháp quản lý HĐTH của SV nhằm khắc phục những hạn chế trong
việc tự học, quản lý hoạt động dạy học của nhà trường, nâng cao chất lượng tự
học theo đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý HĐTH của SV trong đào tạo theo
hệ thống tín chỉ.
- Đánh giá thực trạng HĐTH và công tác quản lý HĐTH của SV trường
CĐ Thương mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.

- Đề xuất một số biện pháp quản lý HĐTH của SV trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động dạy học ở các
trường ĐH, CĐ.


3

4.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý HĐTH của SV Trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
5. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học theo hệ thống tín chỉ ở trường ĐH- CĐ, tự học là
một khâu rất quan trọng, ảnh hướng lớn đến kết quả đào tạo. Trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội, trong quản lý đào tạo đã chú ý đến quản lý hoạt động tự
học của SV nhưng vẫn còn lúng túng, hạn chế và chưa đạt được kết quả như
mong muốn chưa tạo được sự thống nhất trong đội ngũ và tính tự giác của SV,
phương pháp tự học còn hạn chế. Các biện pháp quản lý HĐTH của SV trường
CĐ Thương mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ được tác
giả đề xuất là cần thiết và có tính khả thi, sẽ khắc phục được những hạn chế đó,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà
trường trong giai đoạn hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu ở
trường CĐ Thương Mại và Du lịch Hà Nội
6.2. Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý HĐTH của SV
theo hệ thống tín chỉ ở trường CĐ Thương Mại và Du lịch Hà Nội
6.3. Phạm vi khách thể khảo sát: Đề tài tiến hành khảo sát 250 SV khóa
học 2013 – 2016 và SV khóa học 2014 - 2017 thuộc 5 khoa cùng 80 CBQL , GV
của trường CĐ Thương Mại và Du lịch Hà Nội.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tra cứu, so sánh, phân tích, tổng hợp hóa, khái quát hóa các tài liệu khoa
học về dạy học, tự học, đào tạo theo hệ thống tín chỉ, quản lý dạy học theo hệ
thông tín chỉ ở trường CĐ để xây dựng khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm những phương
pháp nghiên cứu sau đây:


4

7.2.1. Phương pháp điều tra
Thông qua phiếu điều tra để khảo sát SV, CBQL, GV trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội về thực trạng quản lý HĐTH của SV trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
7.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết những kinh nghiệm trong quản lý SV và quản lý HĐTH của SV
trường CĐ Thương mại và Du lịch Hà Nội.
7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Thu thập ý kiến của chuyên gia về lĩnh vực quản lý và quản lý HĐTH
của SV.
7.2.4. Nhóm phương pháp toán thống kê
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu của
phiếu hỏi.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học của SV ở trường
Cao đẳng trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của SV trường CĐ Thương
mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của SV trường CĐ
Thương mại và Du lịch Hà Nội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.


5

Chương l
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỆ THỐNG TÍN CHI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới nghiên cứu về HĐTH, tác giả có một
số nhận xét sau: Tự học, tổ chức HĐTH không phải là mảnh đất mới chưa được
“cày xới” mà tự học là một vấn đề đã được nhiều nhà giáo dục học trên thế giới
quan tâm đến dưới các góc độ khác nhau: Phát huy tính tích cực, tính độc lập,
tính tự giác, tính sáng tạo của người học.
Ngay từ những năm công nguyên, XôCơRát (469 – 339 TCN) đã đưa ra
quan niệm rất nổi tiếng: “Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính
mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người
học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm của
mình và tự khắc phục những sai lầm đó”. [10, tr.56]
Thời cổ đại, Khổng Tử (551 - 479 TCN), Nhà giáo dục kiệt xuất của Trung
Hoa luôn quan tâm và coi trọng mặt tích cực suy nghĩ của người học. Khi nói về
cách học, ông cho rằng cách học đúng là: “Học và suy nghĩ phải phù hợp với
nhau và coi trọng cả hai”. [4, tr.26]
Thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J. A. Komenxky
(1592 - 1670) đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở

thành tài năng”. Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ
đại” trong đó nêu rõ: “Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc
không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp
với trình độ”. [10, tr.40]
Đến thế kỉ thứ XIX, Conxtantin Đmitrêvic Usinxki (1824-1870) đã nghiên
cứu về tính tích cực, tính độc lập của học sinh. Theo ông “Tính tích cực, tính độc


6

lập là cơ sở duy nhất để cho sự học có hiệu quả. Ông cho rằng cần giáo dục cho
học sinh biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành động một cách
sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân. Trong dạy
học không nên dồn tất cả tính tích cực vào công tác dạy của người giáo viên, còn
học sinh thì lại thụ động mà cần phải làm sao cho học sinh tích cực ở mức độ cao
nhất”. [15, tr.56]
Còn I.F. Kharlamop đã nghiên cứu tự học dưới góc độ tìm ra những biện
pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh bằng cách: “Tăng cường
việc nghiên cứu làm việc với sách giáo khoa, với tài liệu học tập, dạy học nêu
vấn đề, cải tiến công tác tự lực học tập, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh
giá…”.[10, tr.68]
Năm 1986 Sharma và R. Ahmed [4] đã nghiên cứu HĐTH như là một hình
thức tổ chức dạy học bằng cách dạy phương pháp cho người học. Người ta có thể
dạy phương pháp cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều
kiện, hoàn cảnh, tuỳ theo tính chất đặc thù môn học và nội dung yêu cầu của bài
học. Nhưng theo ông dù tuân theo hình thức nào thì cũng phải thực hiện theo các
giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Giáo viên thiết kế bài tập và cung cấp nguồn tài liệu cần
thiết cho bài tập và chỉ dẫn cụ thể những gì học sinh phải làm để hoàn thành
bài tập.

- Giai đoạn 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh tự nghiên cứu, tự làm bài
tập với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn.
- Giai đoạn 3: Giáo viên làm việc với học sinh trên lớp theo hình thức cá
nhân hay tập thể thông qua những hình thức khác nhau: Thảo luận, xêmina, củng
cố ôn tập, xây dựng bài giảng, kiểm tra đánh giá, tự kiểm tra, tự đánh giá.
Đây là lý thuyết mới về tổ chức tự học dưới góc độ nhìn nhận tự học như
là một PPDH.
Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm, về QL HĐTH của các


7

tác giả trên thế giới, tác giả có một số nhận xét sau: Tự học là cần thiết đối với
tất cả mọi người, vấn đề tự học của học sinh được các tác giả trên thế giới quan
tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như phát huy tính tích cực học tập của người
học, tối ưu hoá việc học bằng dạy học chương trình hoá, áp dụng công nghệ dạy
học, tổ chức dạy học phân hoá, dạy học theo nhịp độ cá nhân, dạy phương
pháp học cho người học để đạt được hiệu quả cao nhất ở người học. Tuy
nhiên, những nghiên cứu về QL HĐTH một cách toàn diện hệ thống vẫn còn
là vấn đề mới mẻ.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, QL HĐTH chỉ thực sự được chú ý và quan tâm dưới nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc
Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học. Tư tưởng của Người về
giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ II - BCH TW Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới
phương pháp dạy học… nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người
học”. [6]
Đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
các nhà giáo dục học Việt Nam quan tâm đến vấn đề tự học, tổ chức HĐTH và

đã đi sâu nghiên cứu tự học dưới nhiều góc độ. Tự học là một hoạt động độc lập
diễn ra không hoặc ít có sự điều khiển của thầy của Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn
[17]. Tự học là hoạt động tích cực, chủ động, tự giác của người học dưới vai trò
chủ đạo (tổ chức, hướng dẫn, điều khiển) của thầy (Các tác giả: Nguyễn Ngọc
Quang, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Trịnh Quang Từ,…).
Từ quan điểm chỉ đạo trên, để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục,
nhiều công trình NCKH về tự học đã hoàn thành như: “Quá trình dạy - Tự học”
do Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên và các tác giả, “Phát triển tính tích cực, tính tự
lực của học sinh trong quá trình dạy học” của tác giả Nguyễn Ngọc Bảo.
Gần đây, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có đề cập đến vấn đề tự học


8

ở những khía cạnh khác nhau thuộc lĩnh vực giáo dục như: "Một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng tự học của sinh viên Học viện Quân Y" của tác giả
Quản Thành Minh - Luận văn Thạc sĩ trường ĐH sư phạm Hà Nội; “Một số biện
pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh THPT nội trú Đồ Sơn” của tác giả
Trịnh Khắc Hậu – Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Học viện quản lý giáo dục;
“Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường cao đẳng nghề
Đường sắt trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Ngô Thị Lan Phương – Luận
văn thạc sĩ quản lý giáo dục Học viện quản lý giáo dục …
Như vậy, vấn đề tự học của học sinh- sinh viên đã được nhiều nhà khoa
học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Trong các
công trình nghiên cứu, các tác giả đã chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của HĐTH,
biện pháp sư phạm của người thầy nhằm hướng dẫn cho người học phương pháp
tự học, hình thành ở người học kỹ năng tự học. Đồng thời cũng đề ra một số biện
pháp tổ chức, QL HĐTH của người học.
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định tự học có một ý nghĩa và
vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi

người, là nhân tố trọng yếu nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để
người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hình thành thái độ mới.
Đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện và sâu sắc về QL HĐTH cho SV theo phương thức đào tạo tín chỉ. Vì
vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập và có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn đối với việc nâng cao hiệu quả QL HĐTH cho
SV trường CĐ, ĐH nói chung và trường CĐ Thương mại và Du lịch Hà Nội
nói riêng.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phức tạp và phong phú.
Chính vì sự phong phú đó nên khi nói đến QL đã có rất nhiều khái niệm khác
nhau và tư tưởng QL cũng khác nhau.


9

* QL theo quan niệm của tác giả nước ngoài:
Theo Harold Koontz (nhà QL người Mỹ) cho rằng: “Quản lý là một
yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân”. Do vậy, QL với
tư cách thực hành thì nó là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức làm cơ sở
cho nó có thể coi như là một khoa học. [8, tr.26]
Nói đến hoạt động QL, người ta không thể không nhắc tới C.Mác.
C.Mác quan niệm quản lý là điều khiển: “Một nghệ sĩ vĩ cầm tự điều khiển
mình, còn giàn nhạc thì cần có nhạc trưởng”. [3, tr.45]
* QL theo quan niệm của các tác giả trong nước:
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm đạt được những mục tiêu dự kiến”. [16, tr.35]
Theo tác giả Nguyễn Hữu Long - 2009: “Quản lý là một phạm trù của

khoa học quản lý, có sự tác động qua lại của chủ thể quản lý và khách thể quản
lý, trong đó chủ thể quản lý đóng vai trò chủ đạo". Đây là một định nghĩa làm
cho hoạt động QL vừa mang tính khoa học, vừa mang tính công nghệ, đặc biệt là
đảm bảo nguyên tắc tập chung dân chủ.
Ngoài ra, theo từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [12, tr.542]. Thuật ngữ “Quản lý”
(tiếng Việt gốc Hán) đã lột tả được bản chất hoạt động QL trong thực tiễn. Nó
gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn,
duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “Lý” gồm sự tự sửa sang, sắp xếp, đổi
mới, đưa vào hệ thống phát triển. Nếu người đứng đầu chỉ chăm lo đến
việc“Quản”tức là chăm lo đến việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức ấy sẽ trì trệ,
không phát triển. Tuy nhiên, nếu chỉ chăm lo đến việc “Lý” tức là chỉ lo đến việc
sửa sang, sắp xếp, đổi mới, mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định thì sự
phát triển của tổ chức sẽ không bền vững. Vậy, để hoạt động QL có hiệu quả thì
nên cân bằng giữa hai quá trình “Quản” và “Lý”.


10

Có thể khái quát: QL là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể
QL lên đối tượng QL nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng của hệ thống để
đạt được mục tiêu định ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Ngày nay, QL được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế xã hội:
Vốn, nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và QL. Trong đó, QL có
vai trò mang tính chất quyết định thành công.
* Chức năng quản lý:
Chức năng QL có thể hiểu một cách khái quát là một dạng hoạt động QL
chuyên biệt mà thông qua đó chủ thể QL tác động lên đối tượng QL nhằm đạt
mục tiêu đề ra. Đó là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể QL phải
tiến hành trong quá trình QL. Thực chất của các chức năng QL chính là sự tồn tại

của các hoạt động QL bao gồm các chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra.
Chức năng lập kế hoạch: Là công tác xác định trước mục tiêu của tổ chức
đồng thời chỉ ra các phương pháp, biện pháp để thực hiện mục tiêu, trong điều
kiện biến động của môi trường.
Chức năng tổ chức: Là việc sắp xếp, phân công các nhiệm vụ, các nguồn
lực “con người, các nguồn lực khác” một cách tối ưu, nhằm làm cho tô chức vận
hành theo kế hoạch, đạt được mục tiêu đặt ra.
Chức năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể QL nhằm điều
hành tổ chức vận hành đúng theo kế hoạch, thực hiện được mục tiêu QL.
Chức năng kiểm tra: Là phương thức hoạt động của chủ thể QL lên đối
tượng QL nhằm thu thập thông tin phản hồi, đánh giá và xử lý các kết quả vận
hành của tổ chức, từ đó ra các quyết định QL điều chỉnh nhằm thực hiện được
mục tiêu đề ra. Bốn chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành
một chu trình QL.


11

Thông tin liên lạc là công cụ không thể thiếu trong hoạt động QL, nó được
coi là “ mạch máu” của hoạt động QL. Trong QL, để có thể ra các quyết định
chính xác và kịp thời đòi hỏi phải thu thập thông tin chuẩn xác.
Quan hệ giữa các chức năng của hoạt động QL thể hiện trong sơ đồ sau:

Kế hoạch
Kiểm tra

Thông tin

Tổ chức


Chỉ đạo
Sơ đồ 1.1: Các chức năng của quản lý
1.2.2. Quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước - xã hội, là
nơi trực tiếp làm công tác GD&ĐT và giáo dục thế hệ trẻ. Nó nằm trong môi
trường xã hội và có tác động qua lại với môi trường đó. Theo Nguyễn Ngọc
Quang “Trường học là thành tố khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý
giáo dục, vừa là hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Do đó quản lý nhà trường
nhất thiết phải vừa có tính nhà nước vừa có tính xã hội”. [16, tr.33]
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo
dục, đối với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [10, tr17]
Hoạt động QL nhà trường xét ở tầm vĩ mô là chịu tác động của những chủ
thể QL bên trên nhà trường (các cơ quan QLGD cấp trên) nhằm định hướng,
hướng dẫn cho nhà trường phát triển.
Xét ở tầm vi mô, QL nhà trường là tác động của đội ngũ CBQL nhà
trường tới quá trình lao động sư phạm của GV, hoạt động học tập nhất là tự


12

học của học trò và CSVC- thiết bị phục vụ dạy học nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục.
Tóm lại, từ các định nghĩa trên về QL nhà trường mà các nhà nghiên cứu
giáo dục đã nêu, ta có thể thấy rằng: QL nhà trường thực chất là hoạt động có
định hướng, có kế hoạch của các chủ thể QL nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt
động của thầy- trò và các lực lượng giáo dục khác cũng như huy động tối đa các
nguồn lực giáo dục, để nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường.

1.2.3. Sinh viên
Theo Quy chế công tác Học sinh Sinh viên trong các trường đào tạo của
Bộ Giáo dục và Đào tạo thì: "Sinh viên" là người đang theo học hệ ĐH và CĐ.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "Sinh viên" được dùng để chỉ người
học ở bậc ĐH [20, tr.568]
Như vậy, SV là những người đang học tập trong các trường ĐH và CĐ
chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp trong
tương lai.
SV là lứa tuổi mà thế giới quan của họ đang phát triển mạnh và dần dần
ổn định. Quan điểm sống, những định hướng giá trị về đạo đức, tình cảm lẽ
sống... là những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới HĐTH. Ngoài ra, với khả năng
đánh giá người khác và tự đánh giá khá tốt, SV thường mong muốn được tìm
hiểu sâu sắc cuộc sống xã hội để qua đó khẳng định mình.
SV là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp
người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển
không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức
giáo dục khác nhau, không phải bất cứ SV nào cũng được phát triển tối ưu, độ
chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất
nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi SV. Vì vậy, giáo dục đạo đức
trong thời kỳ này rất quan trọng, giúp SV định hướng đến giá trị cốt lõi, góp
phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV.


13

Do vậy, dù ở phương thức đào tạo nào, người SV cũng cần phải có năng
lực tự học, hay nói cách khác: “tự học là cách học ở bậc ĐH”. Trong những năm
gần đây, thực hiện chủ trương của đổi mới giáo dục ĐH, nhiều trường ĐH và CĐ
đã và đang triển khai mô hình đào tạo theo HTTC. Phương thức đào tạo này coi
trọng vai trò trung tâm của SV, tạo cho SV năng lực chủ động, sáng tạo trong

phương pháp học của mình. Như vậy, một vấn đề đặt ra là HĐTH của SV trong
phương thức đào tạo theo tín chỉ có những đặc điểm gì? Làm thế nào để QL
HĐTH của SV trong phương thức đào tạo này?
1.2.4. Hoạt động tự học
Trong thực tế, người ta có thể có nhiều cách học khác nhau: Học một cách
ngẫu nhiên. Qua kiểu học này, nó đưa lại cho người học những tri thức tiền khoa
học, những năng lực thực tiễn trực tiếp, do kinh nghiệm hàng ngày mang lại.
Một cách học khác là học có chủ định, là việc học diễn ra theo phương
thức đặc thù ở nhà trường, qua đó hình thành ở người học những tri thức khoa
học, những năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nghĩa là nhằm lĩnh
hội các tri thức mới, kỹ năng, kỹ xảo mới trong nhà trường.
Như vậy, hoạt động học là hoạt động của người học nhằm tổ chức các
điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo có hiệu quả.
Nghiên cứu HĐTH với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở bậc
CĐ và ĐH dựa trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học và tiếp cận hoạt động,
theo Nguyễn Ngọc Bảo: “Học - về bản chất là quá trình tiếp thu và xử lý thông
tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được
của cá nhân, từ đó mà có được tri thức, kỹ năng, thái độ mới” [1, tr8].
Từ quan niệm trên tác giả có thể đi đến khái niệm về học tập như sau:
Học là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh
nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm
hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày


14

càng hoàn thiện, và dù trong tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng hàm
chứa sự tự học.
Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Khi quan niệm về

tự học, có rất nhiều quan niệm khác nhau. Đứng dưới góc độ nghiên cứu HĐTH
như là hoạt động nghiên cứu, với sự giúp đỡ gián tiếp của giáo viên, tác giả
Nguyễn Văn Đạo cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp
(khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí
tiến thủ không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó”. [9, tr.66]
Nghiên cứu HĐTH như là một hình thức tổ chức hoạt động dạy học ở ĐH,
tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của
cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính SV tiến hành ở
trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã
được quy định. Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở ĐH có tính
độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá
trình dạy học”. [9, tr276]
Theo Nguyễn Ngọc Bảo, “Tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò
chủ đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán
đoán…) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng
học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để
vượt qua chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích luỹ kiến thức cho
bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm
này thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học”[1, tr.45]
Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng tự học là học với sự độc lập
và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó, chủ thể người


15

học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ

hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tự học có
thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, chẳng hạn như giải bài tập trên lớp,
nảy sinh những thắc mắc khi nghe thầy giảng bài, tự sắp xếp những lời giảng
của thầy để ghi vào vở, tự phân tích, nhận xét câu trả lời của bạn trong quá
trình thảo luận…
Giữa học và tự học có mối quan hệ với nhau, học chỉ có hiệu quả khi có
sự tự học, tự học là kết quả cuối cùng của học.
Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên và ngay cả
khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự học được thực hiện qua
nhiều bước khác nhau: Tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau,
xử lý thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra, tự đánh
giá những thông tin đã thu được, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề do
nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đặt ra…
Tự học có thể hiểu là quá trình người học tự tìm ra ý nghĩa của việc học,
làm chủ các hành động học tập của mình, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình
huống học.
Bản chất của tự học là quá trình chủ thể người học cá nhân hoá việc học
nhằm thoả mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập
(nhận thức, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, các hoạt động giao tiếp,
các hoạt động thực hành, các hoạt động kiểm tra, đánh giá...) để thực hiện có
hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Hay nói một cách khác là tự học là
học với sự tự giác cao và tích cực ở mức độ cao.
Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi:
+ Người học phải thực sự có nhu cầu muốn học.
+ Tự học chỉ diễn ra khi người học tiến hành giải quyết vấn đề, giải quyết
tình huống, giải quyết các nhiệm vụ học tập.


16


+ Tự học chỉ được thực hiện thông qua làm việc nghĩa là người học phải
có được những cơ hội để thể nghiệm những gì mà họ đã tiếp thu được trước đó.
+ Muốn tự học có kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và
thái độ học tập đúng đắn, phải có nhu cầu và hứng thú học tập, phải có sự say mê
khoa học, phải nhận thức rõ được mục đích của hoạt động học tập và ý thức một
cách đầy đủ về việc học của mình. Để hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ
thể tự học phải có ý chí vượt khó để vượt qua vật cản hay chướng ngại vật trong
quá trình tự học nhằm đạt được các mục tiêu học tập đã đề ra.
+ Bên cạnh đó, HĐTH của SV được thực hiện bởi hệ thống kỹ năng, kỹ
xảo nhất định vì vậy muốn HĐTH đạt hiệu quả cao đòi hỏi SV phải có hệ thống
kỹ năng tự học, cụ thể: Kỹ năng sắp xếp thời gian tự học, kỹ năng đọc sách, kỹ
năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kỹ năng NCKH... và kỹ năng tự đánh giá kết
quả học tập.
+ Tự học của SV là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học nó không
thể tách rời với hoạt động dạy của GV, vì vậy tự học chỉ có thể đạt hiệu quả cao
khi nó được diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy
của thầy. Nghĩa là, tự học có hiệu quả cao khi có sự hướng dẫn tổ chức của thầy.
Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả HĐTH của SV đòi hỏi người thầy ngoài chức
năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt... cần phải dạy cách thao tác với đối tượng,
cách chiếm lĩnh đối tượng cho SV, hay nói cách khác là hướng dẫn phương pháp
học, cách học cho SV.
+ Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương tiện
hỗ trợ cho HĐTH, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu giáo trình, các tài
liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngoài ra còn các phương
tiện hỗ trợ như đèn chiếu, băng hình, máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn
khác...
+ Tự học có hiệu quả cao khi nhà QL tạo được môi trường học tập cho
người học; có sự tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, động viên và kiểm tra của nhà QL.



17

1.2.5. Hệ thống tín chỉ
HTTC cho phép SV đạt được văn bằng qua việc tích luỹ các kiến thức, kỹ
năng khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định căn cứ trên khối lượng
lao động học tập trung bình của một SV, gọi là tín chỉ (credit).
Trong các từ điển bách khoa, các tài liệu về giáo dục ĐH có nhiều định
nghĩa khác nhau về tín chỉ. Theo định nghĩa của James Quann (ĐH Quốc gia
Washington): Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của
một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: 1. thời gian
lên lớp; 2. thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác
đã được quy định ở thời khoá biểu; 3. thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài,...; đối với các môn học lý thuyết 1 tín
chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn bị ở nhà) trong 1 tuần và kéo dài
trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm - ít
nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà); đối với việc tự nghiên cứu ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần [12].
Theo văn bản hợp nhất số: 17/VBHN-BGDĐT ngày ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Quy chế đào tạo ĐH và
CĐ hệ chính quy theo HTTC xác định: “Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng
học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khóa luận tốt nghiệp. Đối với
những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín
chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”. [2]
1.2.6. Quản lý hoạt động tự học của SV
QL HĐTH của SV là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ
thể QL đến SV được tiến hành theo chương trình kế hoạch đã đề ra nhằm đạt
mục tiêu đào tạo SV một cách toàn diện. Như vậy, QL HĐTH của SV là một hệ
thống các tác động sư phạm có mục đích, phương pháp, kế hoạch của chủ thể QL


18


đến toàn bộ quá trình tự học của SV nhằm thúc đẩy SV tự giác, tích cực, chủ
động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân.
1.3. Hoạt động tự học của SV trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
1.3.1. Đặc điểm của đào tạo theo HTTC
Đào tạo theo hình thức tín chỉ là một hình thức đào tạo tiên tiến, mang lại
hiệu quả cao đối với cả người học lẫn người dạy và đang được nhiều trường ĐH
ở Việt Nam áp dụng. Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đào tạo
theo HTTC là là một trong những tiêu chí được thực hiện nhằm đổi mới căn bản,
toàn diện trong giáo dục và đào tạo.
Học theo HTTC, SV tự quyết định và đăng kí môn học, tự hoạch định kế
hoạch học tập cho riêng bản thân, có thể linh động chương trình đào tạo theo
đúng khả năng, sở thích và thời khóa biểu riêng. HTTC có thể giúp SV có cơ hội
học thêm văn bằng hai song song trong quá trình học tập ở bậc ĐH, CĐ. Cùng
với việc trao quyền chủ động cho SV, HTTC cũng đòi hỏi SV chủ động trong
việc học, tránh tâm lý ỷ lại, thầy ghi trò chép như học theo hình thức niên chế.
Những đặc tính quan trọng nhất của đào tạo theo HTTC là:
- Tính liên thông: Đảm bảo kết nối các môn học theo các phương pháp
được thừa nhận trong phạm vi một hệ thống giáo dục.
- Tính chủ động: Qua việc chọn lựa từng loại môn học và bố trí môn học,
SV chủ động xây dựng chương trình và kế hoạch học tập phù hợp với những
điều kiện cá nhân của mình.
- Tính khoa học: HTTC gắn liền việc phân chia các loại môn học theo
logic khoa học.


19


- Tính thực tiễn, linh hoạt: Định kỳ nhà trường có kế hoạch xem xét lại
chương trình học theo hoàn cảnh thực tế - môn học nào cần thiết, hữu dụng thì
giữ lại, môn học nào lạc hậu, không còn phù hợp thì sửa đổi hoặc loại bỏ.
Với những đặc tính tích cực như đã nêu, phù hợp với xu hướng dạy học
với người học là trung tâm, việc đào tạo theo HTTC đã phát triển một cách
nhanh chóng trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
1.3.2. Hoạt động tự học của SV trong đào tạo theo HTTC
Trước hết, trong phương thức đào tạo theo niên chế, SV tuân thủ theo một
chương trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm học, từng khóa
học căn cứ vào thời khóa biểu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín
chỉ, kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. SV có
nhiệm vụ và quyền được lựa chọn môn học trong chương trình đào tạo theo
HTTC, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với điều kiện của
mình. Phương thức này tạo cho SV năng lực chủ động trong việc lập kế hoạch
học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện, biện pháp để thực hiện các
mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi đó SV phải ý thức xây dựng kế
hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ qui định
HĐTH của SV như là một thành phần bắt buộc trong cơ cấu giờ học và là một
nội dung quan trọng để đánh giá kết quả học tập của SV. Hoạt động dạy - học
theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: Lên lớp, thực hành và tự học. Trong
ba hình thức tổ chức dạy học này, hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc
trực tiếp giữa GV và SV (GV giảng bài, hướng dẫn; SV nghe giảng, thực hành,
thực tập dưới sự hướng dẫn của GV,..), hình thức thứ ba có thể không có sự tiếp
xúc trực tiếp giữa GV và SV (GV giao nội dung để SV tự học, tự nghiên cứu, tự
thực hành và sẵn sàng tư vấn khi được yêu cầu). Ba hình thức tổ chức dạy học
tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ
tín chỉ tự học.



20

Như vậy, có thể thấy HĐTH của SV theo HTTC là quá trình học tập của
SV mang tính chất tự nhận thức có tính chất nghiên cứu. Mỗi SV tự mình chiếm
lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, SV
không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động
nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng
tạo phát triển ở mức độ cao. Có nghĩa là, dưới vai trò chủ đạo của thầy, SV
không nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở
rộng kiến thức. Để có được những năng lực, khả năng này thì SV phải có cách
học chủ động, khả năng tự lực tìm kiếm và xử lý thông tin, năng lực tự học và
khao khát sáng tạo.
1.3.3. Yêu cầu tự học đối với SV trong đào tạo theo tín chỉ ở trường
cao đẳng
Đối với phương thức đào tạo theo niên chế học phần, chương trình học tập
của SV sẽ căn cứ vào thời khóa biểu của từng học kỳ, năm học và do Nhà trường
xây dựng và tổ chức thực hiện. SV chỉ tuân thủ theo mà không có sự lựa chọn.
Tuy nhiên, khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo HTTC, kế hoạch học
tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học lựa chọn và tự học. Để đáp
ứng yêu cầu tự học theo HTTC yêu cầu SV cần:
- Phát huy tính chủ động sáng tạo của mình: SV cần phải rèn luyện tính tự
học. Đây là yêu cầu cơ bản và quan trọng đối với SV khi học theo HTTC. Tự
học là tự học hỏi ở chính bản thân mình, tự hỏi để ôn luyện và tự hỏi để biết
mình hiểu và không hiểu vấn đề gì để tiếp tục nghiên cứu, tham khảo. Tự học là
tìm tài liệu đọc, hỏi han, lắng nghe và đào sâu để hiểu vấn đề. SV cần trau dồi kỹ
năng lựa chọn tài liệu để đọc, kỹ năng xử lý thông tin và kỹ năng tự xác định vấn
đề cần học. SV có thể tự học ở nhà, thư viện, trau dồi, bổ sung kiến thức cho các
môn học. Trước mỗi giờ học lên lớp, SV cần phải dành nhiều thời gian cho việc
nghiên cứu tài liệu để những giờ lên lớp cùng với sự hỗ trợ của GV, SV có thể



×