Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

TIỂU LUẬN nghiên cứu tái sinh tự nhiên của hệ thực vật bậc cao có mạch ở vùng đệm vườn quốc gia bến en tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.58 MB, 110 trang )

mở đầu

Các nguồn tài nguyên mà trái đất cung cấp có vai trò vô
cùng quan trọng đối với cuộc sống của con ngời, đặc biệt là
nguồn tài nguyên rừng. Rừng đã đem lại cho con ngời những
nguồn lợi vô giá: cung cấp gỗ, vật liệu xây dựng, dợc liệu,
năng lợng, động thực vật hoang dại. Rừng có tác dụng phòng
hộ đảm bảo nguồn nớc, hạn chế lũ lụt, giảm cờng độ xói
mòn, điều hoà khí hậu, giữ vững sự cân bằng sinh thái và
sự phát triển của sự sống trên trái đất [24], [36]. Tuy vậy
diện tích rừng ngày càng giảm sút một cách nhanh chóng,
chỉ tính trong giai đoạn 1990 - 1995 ở các nớc đang phát
triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất đi, đến năm 1995
diện tích rừng trên toàn thế giới chỉ còn 3,454 triệu ha (FAO
1997), tỷ lệ che phủ còn khoảng 35%. Hiện nay mỗi tuần trên
thế giới có khoảng 500.000 ha rừng tự nhiên bị mất hoặc bị
thoái hoá.
ở Việt Nam, trớc đây rừng và đất rừng chiếm 3/4 diện
tích lãnh thổ. Tài nguyên rừng với thành phần động, thực vật
đa dạng, phong phú. Đến năm 1943, diện tích rừng nớc ta còn
14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ là 43%, đến năm 1993 chỉ còn
26% [25], [45]. Năm 1999 con số này đã tăng lên 33,2% [6]
nhng vẫn cha đảm bảo mức an toàn sinh thái cho sự phát
triển bền vững của đất nớc.
Mặc dù, hàng năm chúng ta vẫn bổ sung thêm một diện
tích rừng trồng mới, song hơn nửa thế kỷ qua rừng nớc ta đã

1


giảm đi 5 triệu ha. Những nguyên nhân làm cho rừng nớc ta


bị giảm sút nhanh cả về số lợng cũng nh chất lợng, đó là một
phần do chiến tranh kéo dài, mặt khác do dân số nớc ta gia
tăng nhanh, nhu cầu sử dụng gỗ, củi tăng, trình độ dân trí
thấp, phong tục tập quán canh tác còn lạc hậu, đồng bào dân
tộc miền núi vẫn duy trì cuộc sống du canh, du c đốt nơng
làm rẫy, vấn đề sử dụng đất đai cha hợp lý, hình thức quản
lý, bảo vệ rừng còn hạn chế cha phù hợp với tình hình mới.
Chính vì vậy mất rừng dẫn đến thiên tai (hạn hán, lũ lụt ...)
xảy ra liên tiếp, nạn ô nhiễm môi trờng gia tăng, nguồn gen
quý hiếm dang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trớc tình hình đó Chính phủ đã có nhiều chơng trình
trồng rừng và đặc biệt ngày 29/7/1998 Chính phủ có quyết
định về Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng trong đó diện
tích khoanh nuôi tái sinh rừng là 1 triệu ha [5], điều đó
chứng tỏ khả năng tái sinh tự phục hồi của rừng tự nhiên nhiệt
đới nớc ta là vô cùng to lớn.
Vờn QG Bến En là một trong 104 khu vực bảo tồn thiên
nhiên trong cả nớc, đợc thành lập ngày 27/1/1992 theo quyết
định số 33/CP của Thủ tớng Chính phủ thuộc địa phận hai
huyện Nh Thanh và Nh Xuân tỉnh Thanh Hoá với tổng diện
tích khoảng 29000 ha trong đó có 16.634 ha thuộc khu bảo
vệ nghiêm ngặt, 12000 ha vùng đệm [11]. Trong vùng đệm
có dân tộc Kinh, Thái, Mờng, Thổ sinh sống chủ yếu dựa vào
các hoạt động canh tác nông lâm nghiệp. Các hoạt động

2


canh tác này đã gây ảnh hởng rất lớn đến việc bảo vệ và
phát triển khu bảo tồn.

Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài: Nghiên cứu
tái sinh tự nhiên của hệ thực vật bậc cao có mạch ở
vùng đệm Vờn Quốc gia Bến En - tỉnh Thanh Hoá.
Mục tiêu của đề tài:
Đánh giá tính đa dạng của hệ thực vật bậc cao tại địa điểm
nghiên cứu.
Nhiệm vụ đặt ra:
- Điều tra thành phần loài, lập danh lục thực vật.
- Đánh giá tính đa dạng về phổ dạng sống của hệ thực
vật.
- Đánh giá tính đa dạng về giá trị sử dụng cũng nh mức
độ quý hiếm của các loài thực vật.

Chơng I
Tổng quan về tình hình nghiên cứu tái sinh tự
nhiên của thảm thực vật

1.1. Trên thế giới
Diễn thế tái sinh các loài thực vật là một quy luật tự
nhiên gắn liền với điều kiện ngoại cảnh sinh trởng và phát

3


triển của chúng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nếu điều
kiện tự nhiên thuận lợi thì chúng tái sinh rất nhanh, còn ngợc
lại nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi chúng sinh trởng
và phát triển chậm nhng không phải là không có quá trình tái
sinh. Hình thức tái sinh tự nhiên là hình thức đạt kết quả
cao nhất, tái sinh nhân tạo không thể thay thế quá trình

này, vì vậy nghiên cứu tái sinh tự nhiên sau nơng rẫy là việc
làm rất có ý nghĩa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chính vì
thế mà trên thế giới việc nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên đã
trải qua hàng trăm năm với hàng loạt các công trình diễn thế
ở miền ôn đới. Có một số công trình gần đây nh: Stickney
(1984) [39] đã nghiên cứu sau một vụ cháy rừng ở Bắc Ihado
( USA) [39] đã phát hiện rằng trên những khu trớc đây có
rừng thứ sinh phát triển tốt, chủ yếu là các loài cây tiên
phong chiếm u thế, trong khi những khu trớc đó rừng thứ
sinh cha khép tán u thế lại thuộc về các loài sống sót.
Theo Buschel và Huss (1997) [39] nhấn mạnh rằng diễn
thế không phải bao giờ cũng đi theo quy luật mà thờng do
những yếu tố ngẫu nhiên của điều kiện ban đầu quyết
định, còn riêng đối với rừng nhiệt đới vấn đề này chỉ mới
đợc đề cập đến từ những năm 30 của thế lỷ XX trở lại đây.
Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Richard P.W
(1964) [42] đã tổng kết các kết quả nghiên cứu về cây tái
sinh, trong các ô dạng bản cây tái sinh tự nhiên có dạng phân
bố cụm, một số khác có phân bố Poisson. Cũng theo Richard
P.W. thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hoặc khác biệt với

4


lớp cây mẹ. Bava (1954) và Catinot (1956) [8] khi nghiên cứu
tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu á cho thấy dới tán rừng
nhiệt đới nhìn chung có đủ số lợng cây tái sinh có giá trị
kinh tế. Theo Vanstennit (1956) [28] tái sinh phổ biến, dễ
thấy và dễ hiểu của rừng ma nhiệt đới phổ biến là tái sinh
vệt.

Lamprecht H. (1989) [66] căn cứ vào nhu cầu sử dụng
ánh sáng của các loài cây trong đời sống, ông đã phân chia
cây rừng nhiệt đới thành các nhóm cây a sáng, nhóm nửa
chịu bóng và nhóm cây chịu bóng.
Một số tác giả cho rằng, ở rừng nhiệt đới ẩm Châu Phi
có số cây tái sinh thiếu hụt (Barnard, 1955 [10]; Taylor, 1954
[10]) Nhng một số tác giả khác nh Antinot (1965) [10], Bava
(1954), Budowski (1956) lại có ý kiến trái ngợc cho rằng nhìn
chung có đủ số lợng cây tái sinh mục đích có giá trị kinh tế
( Dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995 [10]).
Tác giả Saldarriagia (1991) [72] khi nghiên cứu tại 24 địa
điểm thuộc rừng nhiệt đới ở Colombia và Venezela đã nhận
xét rằng sau quá trình bỏ hoá số lợng loài thực vật tăng dần từ
rừng tái sinh ban đầu đến rừng thành thục.Thành phần các
loài cây rừng trởng thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài nguyên
thủy mà nó đợc sống sót từ giai đoạn đầu của quá trình tái
sinh.Thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ tần
số canh tác của khu vực đó.
Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả Lambert et al,
1989 [65], Warner 1991 [64]; Roww, 1991 [71]; Sayer, 1991

5


[73]; Augucta et al, 1991 [61] cho rằng quá trình diễn thế
sau nơng rẫy nh sau:
Đầu tiên nơng rẫy đợc các loài cỏ xâm chiếm, sau một
năm, các loài cây gỗ tiên phong loại dần chúng qua che bóng,
dần các cây gỗ bị loại và thích hợp phát triển các cây con.
Tác giả Long Chun - Lin và mnk (1993) [67] khi nghiên

cứu Đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nơng rẫy tại
Xishuangbanna (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) đã cho biết sự
thay đổi thành phần loài thực vật qua quá trình diễn thế từ
1 năm đến 19 năm và sự thay đổi các loài u thế qua từng
năm bỏ hoá. Thời gian bỏ hóa càng dài thì thành phần loài
thực vật ngày càng đa dạng hơn. Khi so sánh quá trình tái
sinh tự nhiên của thảm thực vật sau khi nơng rẫy bỏ hoá tại
Baka và Yanuo, các tác giả cũng cho thấy chu kỳ canh tác và
bỏ hoá có ảnh hởng trực tiếp đến khả năng tái sinh của thảm
thực vật.
Theo Ramaksishman (198, 1982) [68], [69] khi nghiên cứu
khả năng tái sinh của thảm thực vật sau canh tác nơng rẫy từ 1
đến 20 năm ở Tây bắc ấn Độ đã cho biết, chỉ số đa dạng
loài diễn ra rất thấp, đầu tiên là ở rừng tái sinh 5 năm đến 10
năm, nhng sự tăng của 10 năm sau đó sẽ ít hơn. Chỉ số loài u
thế lại trái ngợc lại là đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình
diễn thế và giảm xuống rõ ràng với thời kỳ bỏ hoá. Sự liên hệ
của những loài khác nhau và sự tái sinh của chúng có thể thay
đổi phụ thuộc vào độ dài của chu kỳ canh tác nơng rẫy,

6


thành phần loài và cấu trúc của thực vật trớc khi chặt cho canh
tác.
1.2. ở Việt Nam
Nớc ta nằm ở vị trí địa lý thuộc vành đai khí hậu
nhiệt đới gió mùa rất thích hợp cho sự sinh trởng và phát triển
của các loài thực vật vì vậy thành phần loài thực vật của nớc
ta rất đa dạng phong phú và đặc biệt điều kiện khí hậu

nh thế rất có lợi cho khả năng tái sinh tự nhiên cả thực vật,
mặc dù tái sinh tự nhiên là một quá trình phức tạp. Theo
Phùng Ngọc Lan (1986) [28] tái sinh là một quá trình sinh học
mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng - Biểu hiện đặc trng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây con cả
những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng.
Vì vậy vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới ở nớc ta đã đợc
nghiên cứu từ đầu những năm 60 của thế kỷ trớc. Trong công
trình nghiên cứu tái sinh tự nhiên vùng sông Hiếu do Viện
điều tra quy hoạch rừng và các chuyên gia Trung Quốc thực
hiện (1962 - 1963) [39] bằng phơng pháp đo đếm điển
hình, dựa vào số lợng cây tái sinh trên ha, các tác giả đã
phân chia khả năng tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới thành 5
cấp. Năm 1962 - 1969, viện điều tra quy hoạch rừng ở các
vùng khác nhau trên miền Bắc nớc ta, đã điều tra tình hình
tái sinh tự nhiên theo các loại hình thực vật u thế rừng thứ
sinh Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969),
Lạng Sơn (1969). Kết quả điều tra đã đợc Vũ Đình Huề
(1975) [23] tổng kết trong báo cáo khoa học Khái quát về

7


tình hình tái sinh tự nhiên rừng Miền Bắc Việt Nam cũng
mang những đặc điểm của tái sinh rừng nhiệt đới.
Nguyễn Vạn Thờng (1991) [53] đa ra kết luận rằng hiện
tợng tái sinh dới tán rừng của những loài cây gỗ đã tiếp diễn
liên tục không mang tính chu kỳ. Bất kỳ ở đâu có hiện tợng
tái sinh tự nhiên thì ở đó có sự sống chung của những các
thể khác loài, khác chi, thậm chí khác cả họ. Đặc điểm này
xuất hiện cả ở loại hình thứ sinh và loại hình nguyên sinh ít

bị tác động. Những loài cây gỗ mềm và a sáng mọc nhanh
có khuynh hớng lan tràn và chiếm u thế trong lớp tái sinh,
trong khi đó các loài cây gỗ cứng sinh trởng chậm chỉ
chiếm một tỷ lệ rất thấp và phân bố tản mạn, thậm chí một
số loài hoàn toàn vắng bóng ở thế hệ sau trong những trạng
thái tự nhiên (Lê Ngọc Công) [9].
Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái
Văn Trừng (1978) [56] đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của các
yếu tố ngoại cảnh đối với các giai đoạn phát triển của cây
con, theo tác giả thì ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế
và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên
sinh lẫn rừng thứ sinh.
Đinh Quang Diệp (1993) [18] cho biết tiến trình tái sinh
tự nhiên ở rừng Khộp vùng Easup - Đắklắk chịu ảnh hởng
tổng hợp của nhiều nhân tố. Tái sinh hạt hàng năm của các
loài cây họ dầu phụ thuộc vào năm sai quả, chất lợng hạt
giống, thời tiết khô nóng, ma sớm hay muộn, khả năng giữ ấm
của đất và đặc biệt là vai trò của thảm tơi, cành khô lá

8


rụng làm quả không tiếp đất. Sự khô hạn và lửa rừng là hai
nhân tố tạo nên hiện tợng cây đòi chồi đặc biệt ở rừng
Khộp.
Vũ Biệt Linh và các cộng sự khi Nghiên cứu các cơ sở
khoa học kỹ thuật để kinh doanh tổng hợp rừng Khộp Tây
Nguyên [59], các nhà khoa học đã đa ra kết quả về nhân tố
sinh thái ảnh hởng đến quá trình tái sinh tự nhiên của rừng
Khộp cũng chịu phụ thuộc rõ rệt vào lập địa, tình trạng

thảm tơi và độ chặt của đất.
Viện điều tra quy hoạch rừng [7] đánh giá khả năng
phục hồi rừng sau 10 năm thực hiện dự án đầu t xây dựng
rừng phòng hộ xung yếu ven hồ Hoà Bình đã có kết luận
rằng có hai phơng thức tái sinh, tái sinh dới tán rừng của các
loài cây a bóng mọc chậm và tái sinh lỗ trống của các loài
cây a sáng mọc nhanh. Có nhiều yếu tố ảnh hởng tới quá
trình tái sinh tự nhiên, trong đó đối với quá trình tái sinh dới
tán rừng thì yếu tố chủ đạo là ánh sáng, còn tái sinh lỗ trống
thì yếu tố chủ đạo chị phối là độ mầu mỡ của đất.
Phó Đức Đinh [19] cho biết tái sinh tự nhiên có thể xúc
tiến nơi hoàn cảnh sinh thái còn dới tán rừng có thể còn hay
không còn tầng cây u thế, còn hay không còn tầng cây gỗ
nhỏ lá rộng, thảm cỏ xen cây bụi hay thảm cỏ dày rậm
hoặc thảm cỏ xen cây bụi tha, đất hạng còn tốt (I, II), còn
tầng thảm mục hay không còn. Nơi sinh thái không còn tán
rừng lá trảng cỏ lá thấp, là ô trống giữa rừng thông hay cỏ

9


xen thông, đờng kính lớn mọc rải rác, đất hạng III, độ dày
lớn hơn 50 cm.
Vũ Tiến Hinh (1991) [22] nghiên cứu đặc điểm tái
sinh của rừng tự nhiên cho thấy nhìn chung toàn lâm phần
tự nhiên cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi nhỏ số cây
càng tăng.
Nguyễn Ngọc Lung và Đỗ Đình Sâm [59] khi nghiên cứu
về cơ sở bớc đầu để xây dựng quy phạm khai thác gỗ đã
đề cập đến quan hệ giữa điều chế và khai thác với tái sinh

tự nhiên và tác động của con ngời đã nêu Quy luật thay đổi
và phân hoá của cây tái sinh rất mạnh. Trong điều chế và
khai thác rừng cho phép lấy tái sinh tự nhiên, con ngời chỉ hỗ
trợ hoặc làm lấy khi nào khả năng tái sinh tự nhiên kém hoặc
cần đa những loài cây mới vào
Mối quan hệ giữa cấu trúc rừng với lớp cây tái sinh trong
rừng hỗn loài đợc đề cập trong công trình nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chơng (1983) [55].
Trần Xuân Thiệp [54] đã kết luận Rừng tự nhiên miền
bắc có khả năng đảm bảo cho phục hồi rừng tự nhiên.
Trần Đình Lý và các cộng tác viên [37] đã kết luận:
Khoanh nuôi phục hồi rừng là quá trình lợi dụng triệt để quy
luật tái sinh và diễn thế tự nhiên với sự can thiệp hợp lý của
con ngời. Mặt khác, thời gian khoanh nuôi phục hồi rừng phụ
thuộc vào đối tợng rừng và mục đích kinh doanh.

10


Nguyễn Ngọc Lung và Lâm Phúc Cố [33] đã kết luận:
Chỉ có bằng con đờng khoanh nuôi phục hồi rừng, con ngời
mới lợi dụng đợc khả năng to lớn về tái sinh tự nhiên của rừng
và mới tạo đợc các khu rừng hỗn loài bền vững theo hớng rừng
cao đỉnh mà ngời ta gọi là rừng đại ngàn, rừng ba tầng
điển hình của hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam.
Trần Ngũ Phơng (1970) [40] nghiên cứu rừng miền Bắc
Việt Nam đã có ý kiến rằng, cần phải nhận định rõ về tình
hình tái sinh nên phân phiệt hai trờng hợp lớn: Trờng hợp các
loại rừng khí hậu và trờng hợp các loại rừng thứ sinh nhân tác.
Trong trờng hợp rừng khí hậu, rừng có thể đợc tái sinh ở dạng

căn bản giống rừng cũ. Ví dụ: Rừng Nghiến tái sinh rừng
Nghiến, rừng Dẻ tái sinh rừng Dẻv..v Nhng rừng cũng có thể
tái sinh dới một dạng rừng thứ sinh tự nhiên không giống dạng
cũ. Ví dụ: Rừng Huỳnh không tái sinh rừng Huỳnh mà tái sinh
dới dạng một loại rừng thứ sinh phức tạp và dới bóng che của
dạng rừng thứ sinh này rừng Huỳnh sẽ xuất hiện lại. Trong trờng hợp là rừng thứ sinh nhân tác, thành phần thực vật có
thể đơn giản (sau nơng rẫy) và cũng có thể phức tạp (sau
khi rừng khí hậu bị chặt tỉa).
Nguyễn Duy Chuyên (1991) [16] nhận thấy rừng lá rộng
hỗn loài trung bình và nghèo cũng nh ở rừng tre nứa có số
cây tái sinh tự nhiên không hợp lý. Tác giả còn nghiên cứu tơng quan số lợng cây quan sát đợc trên ô đo đếm và số lợng
ô đo đếm ở rừng trung bình quan hệ này đợc thể hiện

11


bằng phân bố Poisson, các loại rừng khác nhau đợc thể hiện
bằng phân bố nhị thức.
Lê Đồng Tấn (2000) [45] nghiên cứu quá trình phục hồi
tự nhiên một số quần xã thực vật sau nơng rẫy ở Sơn La có
kết luận: Mật độ cây tái sinh giảm dần từ chân đồi lên
đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây u thế trên ba vị trí địa hình và
ba cấp độ dốc là giống nhau. Sự khác nhau chính là tỷ lệ tổ
thành của các loài trong tổ hợp đó.
Đỗ Hữu Th, Trần Đình Lý và cộng sự (1995) [46] khi
nghiên cứu năng lực tái sinh tự nhiên thảm thực vật rừng trong
các trạng thái thực bì ở Việt Nam đã nhận xét: Về số lợng và
chất lợng của lớp tái sinh tự nhiên trong giai đoạn đầu của quá
trình phục hồi thảm thực vật rừng thì các dạng thực bì ở ba
trạng thái IB, IC, IIA, IIB đều có thể xếp vào đối tợng có khả

năng khoanh nuôi phục hồi rừng.
Ân Văn Thanh (2000) [52] đã góp phần làm sáng tỏ thêm
cơ sở lý luận của phơng pháp định lợng bằng toán sinh học
trong nghiên cứu cấu trúc tái sinh rừng tự nhiên
Nghiên cứu về diễn thế phải kể đến các tác giả sau:
Trần Đình Lý, Đỗ Hữu Th, Lê Đồng Tấn (1997) [37]. Nghiên cứu
diễn thế thảm thực vật sau cháy rừng ở Fanxipan. Các tác giả
cho rằng quá trình diễn thế ở đây là rất chậm, có thể kéo
dài tới 200 đến 300 năm.
Nguyễn Văn Bái (1994) [1] khi nghiên cứu ở Mai Sơn, Hà
Bắc, cho biết

12


việc lợi dụng khả năng tái sinh từ chồi gốc, chồi rễ của cây dẻ
có thể trên nhiều dạng lập địa khác nhau. Ban đầu là Sim,
Mua, Ràng Ràng, Ngành Ngạnh và các cây gỗ dạng bụi, sau
đó là Dẻ, Lim xanh, Trám, Bứarừng chỉ có một tầng. Đây là
dạng phục hồi không chỉ cho cây dẻ để lấy quả mà cả các
cây gỗ khác có nhiều triển vọng tạo rừng hỗn loại thờng xanh.
Nguyễn Ngọc Lung (1994, 1994a) [32] [33] quá trình tái
sinh sau nơng rẫy có năm cấp tuổi: Cấp 1 (sau nơng rẫy từ 1
đến 5 năm); Cấp 2 (sau nơng rẫy 6 đến 10 năm); Cấp 3
(sau nơng rẫy 11 đến 15 năm); Cấp 4 (sau nơng rẫy 16 đến
20 năm); Cấp 5 (sau nơng rẫy sau 21 năm). Quá trình thay
thế các loài cây từ trảng cỏ, cây tiên phong a sáng chịu
hạn, chịu lửa, sang cây gỗ mềm mọc nhanh, a sáng, sau đó
xuất hiện các loại gỗ cứng, gỗ quý rồi dần dần tiếp cận với tổ
thành của rừng cao đỉnh.

Trần Xuân Thiệp (1995) [54] khi nghiên cứu tái sinh tự
nhiên ở Hơng Sơn (Hà Tĩnh và ở Kon Nà Nừng, Lê Sáu (1995))
[43] cho biết hớng tái sinh phát triển theo xu hớng diễn thế
rừng ở từng vùng. Nhóm cây tái sinh chỉ thị môi trờng khô
hạn xuất hiện nhiều ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc nh Sau Sau,
Lành ngạnh, Trâm, Thầu Tấu, Vối thuốc, Đỏ lòng, Ba chạc.
Trờng Đại học Vinh một số tác giả nghiên cứu về tái sinh
nơng rẫy nh Nguyễn Văn Luyện Thực trạng thảm thực vật
trong phơng thức canh tác của ngời ĐanLai vùng đệm Pù Mát Nghệ An đã công bố 251 loài thực vật bậc cao có mạch
thuộc 178 chi, 77 họ ở vùng đệm Pù Mát [35].

13


Hoàng Văn Sơn (1998) [44] cho biết sự biến động về
thành phần thảm thực vật ảnh hởng rất rõ đến chế độ dinh
dỡng của đất. Hàm lợng một số yếu tố dinh dỡng đất suy
giảm dần từ rẫy bỏ hoá 1 năm đến 2, 3, 6 năm.
Phạm Hồng Ban (2000) [3] cho biết, hớng diễn thế của
thảm thực vật sau nơng rẫy tại vùng đệm Pù Mát đi theo hai
hớng nhng cũng dẫn đến rừng kín thờng xanh nhiệt đới ma
mùa. Quá trình diễn thế của các quần xã thực vật sau nơng
rẫy theo xu hớng số lợng loài thực vật tăng dần theo thời gian
bỏ hoá từ quần xã sau nơng rẫy 1 năm đến quần xã thực vật
diễn ra cao nhất ở chân đồi, lên sờn đồi, đến đỉnh đồi.
1.3. ở Thanh Hoá
Các chơng trình nghiên cứu khoa học ở Vờn Quốc Gia
Bến En từ khi thành lập vờn đến nay còn ít, mới tập trung
vào chơng trình điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học,
thông qua việc hợp tác với các tổ chức khoa học trong và

ngoài nớc và thêm một số nội dung khác nh: Điều tra cơ bản
khu hệ động thực vật Bến En, xây dựng bộ danh lục
Lê Mộng Chân (1993) [10] và một số cộng sự đã nghiên
cứu hệ thực vật Bến En trên diện tích 16.634 ha và đã phát
hiện 462 loài thuộc 4 ngành thực vật bậc cao.
Nguyễn Hữu Hiến (1995) [26] và một số tác giả Viện
điều tra quy hoạch rừng, bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn đã tiến hành nghiên cứu bổ sung hệ thực vật Bến En
làm cơ sở lập dự án xây dựng Vờn Quốc gia Bến En mở rộng
trên diện tích 38.153 ha. Kết quả của đợt nghiên cứu này là
14


bảng danh lục thực vật Bến En gồm 134 họ, 412 chi, 597 loài
và dới loài thuộc 4 ngành thực vật bậc cao là ngành Dơng xỉ
(Polipodiophyta), ngành Thông đất (Lycopodiophyta), ngành
Hạt trần (Pinophyta), ngành Hạt kín (Magnoliophyta). So với
lần nghiên cứu trớc, Nguyễn Hữu Hiến đã phát hiện thêm 155
loài 9 họ cả hai lần nghiên cứu, các tác giả đều chỉ ra một số
cây gỗ quý hiếm làm thuốc, cây cảnh
Lê Vũ Khôi, Nguyễn Hữu Hiến (1996) [26] đã tiến hành
nghiên cứu đặc tính đa dạng sinh học hệ sinh thái Vờn Quốc
gia Bến En. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu
Hiến (1995), kết hợp khảo sát bổ sung, các tác giả đẫ đi
sâu phân tích đặc điểm đa dạng sinh học của hệ thực
vật Bến En về cấu trúc tổ thành loài, về quan hệ địa lý, về
tài nguyên thực vật và các quần xã thực vật.
Tổ chức Frontier - Viet nam (1997), [63] đã tiến hành
điều tra đa dạng sinh vật tại Vờn Quốc gia Bến En cũng trên
cơ sở bảng danh lục thực vật Bến En (1995), các tác giả đã

điều tra bổ sung và đa ra bảng danh lục mới gồm 748 loài,
bổ sung thêm 151 loài thực vật bậc cao có mạch so với lần
điều tra trớc (1995).
Nguyễn Minh Đức (1998) [20] đã công bố đặc điểm
một số nhân tố sinh thái dới tán rừng và ảnh hởng của nó
đến tái sinh loài Lim xanh.
Phan Kế Lộc và các đồng sự (2005) [30] đã công bố
1.109 loài, 477 chi, 152 họ.

15


Viện điều tra quy hoạch rừng, phân viện Bắc Trung Bộ
(2000) [57] đã công bố 1.357 loài thực vật bậc cao (trừ ngành
Rêu cha nghiên cứu), 902 chi, 196 họ.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã có rất nhiều đóng
góp nhng nghiên cứu về tái sinh tự nhiên còn tản mạn cha
mang tính hệ thống vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài này.

16


Chơng 2
điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
tại Vờn Quốc gia bến en

2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Vờn Quốc gia Bến En nằm ở phía tây bắc hyện Nh

Thanh, cách thành phố Thanh Hoá 46km về phía Tây Nam,
cách biển đông 60km và có toạ độ địa lý:
190 28 -19 041 vĩ độ bắc.
105020 105035 kinh độ đông.
Tổng diện tích tự nhiên là 16.634 ha, thuộc khu bảo vệ
nghiêm ngặt, 12.000 ha vùng đệm, thuộc địa bàn hai
huyện Nh Thanh và Nh Xuân - tỉnh Thanh Hoá.
Phía Bắc giáp các xã Hải Long, Xuân Khang (huyện Nh
Thanh)
Phía Nam giáp các xã Xuân Thái (huyện Nh Thanh),
Xuâ
n
Bình
(huy
ện
17


Nh
Xuâ
n)
Phía Đông giáp các xã Xuân Phúc, Hải Vân (huyện Nh
Thanh).
Phía Tây giáp các xã Hoá Quỳ, Xuân Quỳ, Bình Lơng
(huyện Nh Xuân).
2.1.2. Địa hình
Vờn Quốc gia Bến En bao gồm các kiểu địa hình đồi,
núi, sông, hồ xen kẽ nhau. Trung tâm vờn là hồ Sông Mực với
hệ thống đảo nổi còn rừng tự nhiên che phủ phía Đông Bắc
là dãy núi đá chạy theo hớng Tây Bắc- Đông Nam từ Đồng Hơn

đến Đồng Mời, phía Đông là dãy núi Đầu Lớn chạy từ Đông Kinh
đến Làng Quảng, phía Nam là dãy núi Bao Cù và phía Tây là
dãy núi Đàm, Đồi Chu.

18


19


Nhìn chung Bến En thuộc địa hình đai thấp, trong
đó đồi núi đất chiếm tới 80%, còn lại địa hình núi đá vôi
chiếm 20%.
2.1.3. Thổ nhỡng
Khu vực này hình thành 4 loại đất chính nh sau:
- Đất phù sa sông suối (đất vàng, nâu) có diện tích
khoảng 310 ha, đất có tầng loang lỗ do quá trình ngập nớc
không thờng xuyên trong năm nên bị biến chất do glây hoá.
Đất thờng có mầu nâu xám, tơi xốp, tầng dày, thành phần
cơ giới các cát pH hay thịt nhẹ, có kết cấu tốt phân bố rải rác
theo các thung lũng Đồng Thô, Điện Ngọc, Xuân Lý.
- Đất Feralit mầu nâu vàng phát triển trên nhóm đất sét
có diện tích khoảng 11.136 ha, đây là loại đất tốt tầng dày,
thành phần cơ giới thịt nặng và sét phù hợp với nhiều loại cây
trồng. Khả năng giữ ẩm tốt nhng thoát nớc kém, phân bố chủ
yếu vùng trung tâm và phía Bắc của vờn.
- Đất Feralit vàng nhạt phát triển trên nhóm đá cát có
diện tích khoảng 1.200 ha, có tầng mỏng, thành phần cơ giới
cát pha đất thịt nhẹ và trung bình, đất tơi xốp, kết cấu rời
rạc, khả năng giữ nớc kém, chua, nghèo dinh dỡng, khả năng

phân giải chất hữu cơ mạnh, dễ bị xói mòn rửa trôi.
- Đất phong hoá trên núi đá vôi có diện tích khoảng
1.077 ha, chủ yếu thuộc loại Macgalit, tầng dày, nông. Do
địa hình dốc nên dễ bị rửa trôi bào mòn, đất thờng khô,

20


thiếu nớc, phù hợp với những loại thực vật a kiềm nh: Trai lý, Lát
hoa, Thị rừng
Nhìn chung đất khu vực Bến En có độ màu mỡ tơng
đối cao, tầng đất mặt từ trung bình đến dày, đây là
điều kiện thuận lợi cho các loài thực vật sinh trởng và phát
triển.
2.1.4. Khí hậu, thuỷ văn
- Khí hậu: Vờn Quốc gia Bến En không xa biển nên khí
hậu ở đây ít nhiều chịu ảnh hởng khí hậu của biển và đai
khí hậu lục địa. Theo số liệu của trạm khí tợng Nh Thanh
(nằm ở sát vờn) cho thấy:
Nhiệt độ:

+ Nhiệt độ trung bình hàng năm: ( 0C ):

23,3
+ Nhiệt độ cực tiểu ( 0C ): 3 (Tháng 1)
+ Nhiệt độ cực đại ( 0C ): 41 (Tháng 5)
+ Các tháng có nhiệt độ dới 200C: Tháng 12, 1,
2, 3.
Lợng ma:
+ Tổng lợng ma cả năm (mm): 1.790.

+ Số ngày ma hàng năm: 124.
+ Lợng ma ngày lớn nhất (mm): 397 (tháng 9).
+ Số ngày ma phùn hàng năm: 35.
+ Lợng nớc bốc hơi hàng năm (mm): 925.

21


Độ ẩm:
+ Độ ẩm trung bình hàng năm (%): 85
+ Độ ẩm cực tiểu trung bình (%): 65
+ Độ ẩm cực tiểu tuyệt đối (%): 16 (tháng 11).
+ Sơng mù bình lu: 22
Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm (0C):

- Tổng nhiệt cả năm: 8500 0C
- Nhiệt độ đất trung bình: 24,9
- Tổng năng lợng bức xạ 120 Kcal / cm2 / năm.
- Tổng số giờ nắng hàng năm 1600 - 1800 giờ.
- Gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Gió Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 10. Đôi khi có đợt gió Lào
khô nóng vào tháng 6 hoặc tháng 7, khoảng 19-22 ngày. Biên
độ dao động nhiệt là 12,3 0C, Nóng nhất là tháng 7, trung
bình là 28,9 0C, đôi khi lên đến 41,7 0C. Lạnh nhất vào tháng
giêng, trung bình 16,9 0C, đôi khi xuống tới 3,1 0C, ở vùng núi
thờng xuyên xuất hiện sơng giá.
Lợng ma trung bình hàng tháng và năm:

22



Lợng ma trong vùng khá cao và phân làm hai mùa rõ rệt:
Mùa ma vào tháng 5 tới tháng 11, chiếm 90% tổng lợng ma
trong năm, thờng gây nên những trận lũ lớn. Mùa khô từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 10% tổng lợng ma hàng
năm, nhng thờng có ma phùn và bốc hơi từ hồ Bến En nên giữ
đợc độ ẩm cho cây cối trong vùng.
- Thuỷ văn.
Khu vực có hệ thống sông chính là sông Mực nằm trọn
trong địa giới vờn Quốc gia Bến En quản lý, toàn bộ thuỷ vực
gồm 4 suối lớn:
Nhìn chung hệ thống sông suối trong vùng tơng đối
đều khắp và có nớc quanh năm, lòng suối hẹp, khá sâu, tốc
độ dòng chảy mạnh về mùa lũ nhng giảm nhiều về mùa khô.
Hồ Bến En có dung tích nớc biến động từ 250-400 triệu
m3, là thuỷ vực của 4 con suối nói trên. Hồ có nớc quanh năm,
diện tích mặt hồ trung bình 2.281 ha, có khả năng tới tiêu
cho 12.000 ha đất nông nghiệp của 3 huyện Nh Thanh, Nông
Cống và Quảng Xơng. Ngoài ra hồ Bến En còn là nơi lu giữ
nguồn gen nuôi trồng thuỷ sản và phát triển du lịch sinh thái.
2.1.5. Tài nguyên rừng
Tổng diện tích rừng tự nhiên là 16.634 ha trong đó:
Diện tích đất lâm nghiệp là 13.755 ha, chiếm
82,7%.
- Diện tích đất có rừng là 8.544 ha.

23


- Diện tích đất trống, đồi trọc là 5.211 ha, trong đó

đất sau nơng rẫy là 920 ha( chiếm 6,7% đất lâm
nghiệp ).
Diện tích đất ngoài lâm nghiệp:
- Diện tích đất nông nghiệp là 310 ha
- Diện tích hồ ngập nớc là 2.281 ha
- Diện tích đất khác: 288 ha.
2.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Trong khu vực Vờn Quốc gia Bến En có 41.000 dân của
11 xã liên quan tới vờn. Với thành phần dân tộc sống trong vờn
và vùng đệm gồm dân tộc Kinh (54,2%), Thái (28,1%), Mờng
(11,8%), Thổ (8,9%). Hầu hết số dân nói trên sống ở vùng
đệm, số dân nằm trong quy hoạch Vờn Quốc gia Bến En của
3 xã Xuân Thái (huyện Nh Thanh), Bình Lơng, Tân Bình
(huyện Nh Xuân), có 656 hộ và 3.246 nhân khẩu.
+ Mật độ dân số bình quân vùng đệm là 80 ngời/km2.
+ Sản xuất nông nghiệp.
Việc đầu t cho trồng trọt ít, năng suất thập, diện tích
trồng trọt bình quân 340m2/ngời. Tập quán canh tác lạc hậu,
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đời sống ngời dân còn
nhiều khó khăn, đa số đồng bào dân tộc vùng sâu xa thờng
thiếu ăn từ 1 - 3 tháng trong năm.

24


+ Chăn nuôi: Cha có quy hoạch, số lợng gia súc bình
quân mỗi hộ có từ 1-2 con, nhiều gia đình có hàng chục
con thả rông trong rừng.
Do những khó khăn về điều kiện kinh tế cùng với trình
độ dân trí còn thấp, ngời dân phải vào rừng khai thác lâm

sản, săn bắn động vật, đốt nơng làm rẫy đã gây nên nhiều
khó khăn cho công việc bảo vệ tài nguyên rừng.
Tóm lại: Đời sống của ngời dân vùng đệm có mối quan
hệ chặt chẽ với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở đây,
một khi đời sống ngời dân còn thấp thì việc bảo vệ tài
nguyên rừng còn gặp nhiều khó khăn, để giải quyết đợc vấn
đề này cần song song tiến hành nâng cao đời sốn cho ngời
dân cả về mặt vật chất lẫn văn hóa, tinh thần.

Chơng 3
đối tợng và phơng pháp nghiên cứu

3.1. Đối tợng nghiên cứu
Bao gồm toàn bộ hệ thực vật bậc cao có mạch.
3.2. Địa điểm nghiên cứu
Vùng đệm Vờn Quốc gia Bến En - Thanh Hoá.
3.3. Thời gian nghiên cứu

25


×