Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận nghiên cứu đặc điểm hứng thú học môn tự nhiên và xã hội của học sinh tiểu học ở trường TH lê văn tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.14 KB, 21 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng
khá phức tạp, như L. X. Vưgôtxki đã khẳng định: “Đối với việc nghiên cứu
hầu như không có vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự
của một con người" [113, tr. 110]. Chính vì thế, lâu nay lĩnh vực hứng thú đã
được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, song vẫn cịn
nhiều vấn đề cần tìm tịi.
Hứng thú là một trong những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách,
nó có vai trị rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt
động nhận thức nói riêng. Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận
thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách say mê,
sáng tạo, làm tăng sức làm việc,...ở mỗi người. Trong họat động học tập,
hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc HS nắm bắt tri thức một cách nhanh
hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học một mơn nào đó, HS sẽ tập trung chú
ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát của các em trở nên nhạy bén và
chính xác, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ dàng và sâu hơn, quá
trình tư duy sẽ tích cực hơn, sự tưởng tượng sẽ phong phú hơn... Các em sẽ
tự giác, sáng tạo, say sưa, không biết mệt mỏi trong quá trình lĩnh hội, và sự
vận dụng những điều lĩnh hội được vào giải các bài tập sẽ linh hoạt, sáng tạo
hơn, nhờ đó kết quả học tập của họ sẽ ngày càng nâng cao, năng lực của HS
từng bước được hình thành, phát triển một cách tích cực. Điều này đã được
đại văn hào Macxim Goocki khái qt: “Tài năng, nói cho cùng là tình u
đối với công việc”.

1


Trong trường phổ thơng nói chung, trường tiểu học nói riêng, mơn Tự
nhiên và xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng, nó có khả năng to lớn trong
việc giúp HS phát triển các năng lực, phẩm chất đồng thời mở mang nhiều


kiến thức mới về cuộc sống và thế giới xung quanh. Thật vậy, do tính chất
đặc trưng của nó đã khiến cho đa số HS Tiểu học cũng có hứng thú với nó
và xem việc tìm hiểu chúng trở thành niềm đam mê của khơng ít bộ phận
các em. Việc làm quen với thế giới xung quanh cũng như thực tế tiếp xúc và
trãi nghiệm đã tạo nên sứ thu húc với các em làm các em sai mê và từ đó đi
sâu vào tìm hiểu .
Vì vậy hứng thú càng trở nên quan trọng trong việc học tập môn Tư
nhiên và xã hội ở trường tiểu học. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc
học tập môn Tự nhiên và xã hội HS mới thấy được sự hấp dẫn của nội dung
mà nó chứa đựng, cũng như những phương pháp khám phá ra nội dung đó.
Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của thế giới xung quanh đối
với con người cũng như chính bản thân các em.
Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội của
HS ở nhiều trường tiểu học nhìn chung vẫn cịn bị hạn chế, khơng ít em sợ
tiếp cận với thiên nhiên, coi việc học môn này là một công việc nặng nhọc,
quá sức,... Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa thật
sự nhận biết tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học Tự nhien xã hội, chưa
được kích thích hành động tích cực, sáng tạo trong q trình tìm hiểu cuộc
sống...; cũng có thể do nội dung môn Tự nhiên xã hội vẫn chưa thu hút được
các em hoặc do phương pháp dạy chưa thật sự có hiệu quả,...
Mặt khác, trên thực tế những nghiên cứu hình thành hứng thú học Tự
nhiên xã hội cho HS tiểu học ở Việt Nam còn chưa được nghiên cứu mang tính
hệ thống, đặc biệt đối với HS tiểu học ở những vùng xa xôi, hẻo lánh như địa
bàn vùng sâu vùng xa, miền núi.
2


Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hứng thú học
môn Tự nhiên và xã hội của học sinh Tiểu học ở Trường TH Lê Văn
Tám” Làm đề tài.


II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tơi chọn đề tại nghiên cứu này nhằm tìm ra được những nguyên nhân
cũng như cách khắc phục để mang lại kết quả thật tốt để các em học sinh ở
Trường TH Lê Văn Tám có thể học tốt hơn đồng thời đưa ra các kiến nghị
sư phạm phạm góp phần phát triển hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội
cho các em HS tiểu học.

III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đặc điểm hứng thú học môn Tự nhiên xã hội của HS Trường
Tiểu học Lê Văn Tám .
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Các em học sinh ở khối lớp 3 của Trường Tiểu học Lê Văn Tám,
Thành phố Trà Vinh.

IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: Hứng thú, hứng thú học tập,
đặc điểm hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội của HS nói chung, hứng thú
học mơn Tự nhiên và xã hội của HS tiểu học nói riêng; các yếu tố tác động
đến việc hình thành và phát triển hứng thú của HS tiểu học.
4.2. Điều tra, phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng hứng
thú học môn Tự nhiên và xã hội của HS ở một số trường tiểu học Lê Văn
Tám; xác định những đặc điểm của hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội ở
HS tiểu học.

3


4.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp tâm lý sư phạm nhằm

nâng cao hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội cho HS.
4.4. Đề xuất kiến nghị sư phạm nhằm phát triển hứng thú học môn Tự
nhiên và xã hội của HS tiểu học.

V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Đặc điểm hứng thú học môn Tự nhiên và xã hội của HS tiểu học hiện
nay nhìn chung cịn phân tán, chưa bền vững, chưa ổn định, chủ yếu là hứng
thú gián tiếp. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do: việc
giảng dạy chưa làm cho HS nhận thức rõ ý nghĩa của môn Tự nhiên và xã
hội, chưa thật sự tạo ra tính chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình tìm
hiểu về thế giới xung quanh, cũng như chưa tạo ra bầu không khí tích cực
trong q trình học Tự nhiên và xã hội.
Nếu tăng cường một số biện pháp tâm lý sư phạm nhằm thay đổi những
nguyên nhân trên theo hướng tích cực thì hứng thú học mơn Tự nhiên và xã
hội ở HS tiểu học sẽ được nâng cao hơn và từ đó hiệu quả giảng dạy cũng sẽ
nâng cao theo.

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên
cứu mà chúng tơi sẽ trình bày chi tiết ở phần tiếp theo của bài nghiên cứu,
bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp thực nghiệm.

4



- Phương pháp thống kê toán học.

VII. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Quá trình nghiên cứu trãi qua thời gian là 3 tuần từ ngày 06 tháng 02
năm 2012 đến ngày 26 tháng 02 năm 2012. Đề tài nghiên cứu này được tiến
hành qua 3 giai đoạn như sau:
- Tuần 1( từ ngày 06 tháng 02 năm 2012 đến ngày 12 tháng 02 năm
2012): Bắt đầu nhận đề tài và tiến hành làm quen với khách thể nghiên cứu
đồng thời bước đầu tìm hiểu về đề tài mà mình đã chọn.
- Tuần 2( từ ngày 13 thang 02 năm 2012 đến ngày 19 tháng 02 năm
2012): Tiến hành đi vào công việc tìm hiểu học sinh, làm phiếu khảo sát,
tiến hành khảo sát, tổng hợp kết quả.
- Tuần 3( từ ngày 20 tháng 02 năm 2012 đến ngày 26 tháng 02 năm
2012): Viết bài nghiên cứu và hoàn thành.

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
 TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ
1.1. Lịch sử nghiên cứu:
Trong quá khứ cũng như hiện tại cũng đã có rất nhiều những nhà khoa
học và cả những Sinh viên nữa đã nghiên cứu về vấn đề này, nhưng vẫn
chưa có tài liệu nào đi sâu vào chi tiết phân tích những khía cạnh thật của
chúng, đa số vẫn còn mơ hồ. Thật sự bài nghiên cứu này cũng chỉ đi vào một
phần nào đó cũng chưa đi sâu nhưng nó cũng giải đáp được phần nào của
vấn đề được nói đến ở đây.

5



1.2. Các khái niệm cơ bản:
- Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó,
vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khối cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
- Tự nhiên và xã hội:
+ Tự nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vơ
cùng vơ tận. Theo nghĩa này thì con người vã xã hội loài người cũng là một
bộ phận của tự nhiên.
+ Xã hội: là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình thái này lấy
mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người
làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân với nhau, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người”.
1.3. Các đặc điểm cơ bản của đối tượng và khách thể nghiên cứu:
- Các đặc điểm cơ bản của đối tượng:
Hứng thú học tập là vấn đề rất quan trọng điều đó nó sẽ giúp các em có
thể học một cách tốt hơn mơn học này. vì thế phải làm cho các em có được
hứng thú là điểu rất quan trọng. Dưới đây là một chia sẽ kinh nghiệm để ta
có hứng học tập:
1.3.1. Khơng khí học tập của tập thể:
Các bạn học sinh, sinh viên rất dễ bị cuốn theo tập thể, vì ai cũng muốn hịa
đồng, thể hiện. Do vậy khơng có lý do gì, mà vừa bước vào lớp đã thấy các
bạn lấy sách vở ra học bài, trao đồi bài cũ mà ta lại có thể dửng dưng khơng
đối hoài, cũng như vừa bước vào lớp mà ngày nào cũng chỉ thấy truyện
tranh, nhạc nhẽo lại khiến ta có hứng học. Tơi cịn nhớ hồi học năm lớp
mười. Khơng khí học tập trong lớp đã thực sự hích tơi phấn đấu bằng bạn
bằng bè. Có hai kỷ niệm mà tơi nhớ nhất đó là: bài kiểm tra lý mười lăm
6



phút đầu năm cả lớp được mười điểm, tôi được tám. Tổng kết giữa học kỳ
một, cả lớp đạt học sinh giỏi trên tám phẩy, tôi được bảy phẩy tám.
1.3.2. Thái độ của giáo viên giảng dạy:
Thầy giáo, cô giáo trên lớp luôn là tấm gương cho chúng ta noi theo. Học
sinh như tờ giấy trắng, các thầy cô giáo dạy gì thì nó sẽ được hằn in lên tờ
giấy đó và khó có thể phai nhịa. Một thầy cơ nhiệt tình giảng dạy, tác phong
đúng mực sẽ là tấm gương sáng cũng như khích lệ các em học tập tốt. Dĩ
nhiên ngược lại, một giáo viên dạy úi xùi cho qua thì cũng sinh ra tâm lý
chán nản học cho qua của học sinh. Điều này nếu ai đã từng đi học có lẽ
cũng khơng cần phải nói gì thêm.
1.3.3. Biết mơn học này học để làm gì?
Chúng ta không thể làm tốt cũng như dốc hết tâm sức vào làm một việc mà
chúng ta cịn khơng biết làm để làm gì, được gì cho mai sau. Cũng giống
như hình ảnh những người lính cụ Hồ là những người lính biết được mục
tiêu chiến đấu, chiến đấu là để bảo vệ độc lập tự do cho bản thân và đất
nước. Biết được lý do chiến đấu nên họ không tiếc sinh mạng, tuổi trẻ….
Cịn ngược lại những người khơng tìm ra lý do chiến đấu thì khi vào trận họ
sẽ đầu hàng, đào ngũ, dễ hiểu thôi, tại sao tôi lại phải bán mạng cho một thứ
mà tôi không tin khơng biết nó là gì? Do vậy nếu trước khi học một mơn nào
đó, bạn tìm ra được lý do, tác dụng của việc học mơn đó, và bạn cho đó là
cần thiết với bản thân thì chắc chắn mơn học đó bạn sẽ đạt kết quả cao.
1.3.4. Khơng khí của bản thân:
Biết học để làm gì rồi, tự khắc trong bản thân bạn sẽ có một sự tự giác, một
thái độ thoải mái khi học tập. Sẽ không cịn xuất hiện các câu hỏi học để làm
gì, khó thế không thi đâu bỏ qua thôi, trong lúc bạn học. Mọi vấn đề khơng
hiểu sẽ chỉ có một giải pháp là tìm mọi cách để hiểu. Đây chính là “tự do
trong khuôn khổ”.
7



1.3.5. Luôn nắm chắc kiến thức:
Nắm chắc kiến thức đương nhiên là tốt rồi. Và có lẽ ai cũng hiểu. Nhưng tác
dụng của nó thì ở khía cạnh này khía cạnh khác chưa chắc mọi người đã
hiểu hết. Nắm vững kiến thức đương nhiên kết quả học tập sẽ tốt. Khơng chỉ
vậy nắm vững kiến thức bạn sẽ cịn có thể giúp đỡ người khác. Mỗi lần
người khác hỏi bài bạn, bạn chỉ cho họ là một lần bạn tự ôn lại kiến thức
vậy. Do vậy, đã chắc lại càng chắc. Hơn thế nữa, đã được một môn như vậy
rồi, thì các mơn khác mọi người cũng sẽ chung suy nghĩ là bạn học cũng tốt
và lại tiếp tục hỏi bài bạn, nó tạo ra một động lực khơng nhỏ để bạn học tốt
các bộ môn tiếp theo đấy!
Khách thể nghiên cứu:
Ở đây chính là các em học sinh tiểu học mà đúng hơn đó chính la các
em hoc sinh ở khối lớp 3 của Trường TH Lê Văn Tám. Các em có những
đặc điểm về tâm sinh lí khơng giống với người lớn nên cần có những biện
pháp thích hợp. Dưới đây là một số đặc trưng ta phải chú ý:
Học sinh tiểu học thường là những trẻ có tuổi từ 6 – 11, 12 tuổi. Đây là
lứa tuổi đầu tiên đến trường- trở thành học sinh và có hoạt động chủ đạo. Trẻ
em lứa tuổi học sinh tiểu học thực hiện bước chuyển từ hoạt động vui chơi là
hoạt động chủ đạo sang học tập là hoạt động chủ đạo. Là hoạt động lần đầu
tiên xuất hiện với tư cách là chính nó, hoạt động học tập có vai trò và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học.
Cùng với cuộc sống nhà trường, hoạt động học tập đem đén cho trẻ nhiều
điều mà trước đây trẻ chưa bao giờ có được hoặc khơng thể tiếp cận được.
Từ đó, cùng với sự phát triển về thể chất và dựa trên những thành tựu phát
triển tâm lí đã đạt được của giai đoạn trước, trẻ sẽ tạo lập nên những cái mới
trong đời sống tâm lí của mình, mà trước hết là tính chủ định, kĩ năng làm
việc trí óc, sự phản tỉnh- những cấu tạo tâm lí mới đặc trưng cho lứa tuổi
8



này. Ngoài ra, nhà trường và hoạt động học tập cũng đặt ra cho trẻ những
đòi hỏi mới của cuộc sống. Trẻ khơng chỉ phải tự lập lấy vị trí của mình
trong mơi trường “ trung lập về tình cảm”, mà cịn phải thích ứng với những
bó buộc khơng tránh khỏi và chấp nhận việc một người lớn ngoài gia đình
(thầy, cơ giáo) sẽ đóng vai trị hàng đầu trong cuộc sống của trẻ. Trẻ chẳng
những phải ý thức và có thái độ trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm
vụ của mình, đặc biệt là nhiệm vụ học tập và biết điều khiển hành vi của
mình một cách có chủ định, đồng thời phải có khả năng thiết lập, vận hành
cùng một lúc các mối quan hệ với các đối tượng khác nhau và mang các tính
chất khác nhau. Trước những thách thức này, trẻ dù muốn hay không cũng
phải lĩnh hội các cách thức, phương thức phức tạp hơn của hành vi và hoạt
động để thỏa mãn những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống nhà trường và
nhờ vậy “đẩy” được sự phát triển của mình lên một mức cao hơn.
Tuổi tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh
hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn học,
trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường trường học và môi
trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia
đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh tiểu học
lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra
những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học.
Chúng khơng chỉ đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống nhà trường
và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước ngoặt quan trọng
trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên- lứa tuổi có xu thế vươn lên làm người lớn.
Về việc này, N.X.Leytex đã khắc họa: “ Tuổi tiểu học là thời kì của sự nhập
tâm và tích lũy tri thức, thời kì mà sự lĩnh hội chiếm ưu thế. Chức năng trên
được thực hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này – sự
tuân thủ tuyệt đối vào những người có uy tín với các em (đặc biệt là thầy, cô
9



giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ vui chơi ngây thơ đối với
các đối tượng mà các em được tiếp xúc.
Học sinh tiểu học là lứa tuổi sống và phát triển trong nền văn minh nhà
trường theo hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất gồm lớp 1, lớp 2 và lớp 3, trong cấp
độ này thì lớp 1 là đặc biệt – lớp đầu của Cấp tiểu học, được nhiều người
cho là “Cửa ải lớp 1”. Cấp độ thứ hai gồm lớp 4 và lớp 5 – Lớp đầu ra của
Cấp tiểu học. Hai cấp độ này tuy có sự khác nhau về mức độ phát triển tâm
lí và trình dộ thực hiện hoạt động học tập, nhưng khơng có sự thay đổi đột
biến, khơng có sự phát triển theo chiều hướng mới. Dù ở cấp độ nào thì học
sinh tiểu học cũng là nhân vật trung tâm, là linh hồn của trường tiểu học. Ở
đấy, trẻ đang từng ngày, từng giờ tự hình thành cho mình những năng lực
của người ở trình độ sơ đẳng nhưng cơ bản, như sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng
lực tính tốn, đặc biệt là năng lực làm việc trí óc – năng lực tạo ra các năng
lực khác. Cùng với các năng lực trên là sự hình thành tình cảm, thái độ và
cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại hiện đại. Học sinh
tiểu học ngày nay là những chủ thể đang trở thành chính mình bằng hoạt
động của mình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn theo phương pháp
nhà trường hiện đại.

10


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Khảo sát mức độ u thích mơn Tự nhiên và xã hội của các em
HS khối 3 trường TH Lê Văn Tám:

17%

thích

khơng thích
83%

Biểu đồ thể hiện tỉ lệ u thích mơn học Tự nhiên và xã hội khối 3 của
Trường TH Lê Văn Tám.
Qua biểu đồ trên ta có thể nhận thấy tỉ lệ HS u thích mơn Tự nhiên
và xã hội khá cao đạt khoảng 83% và tỉ lệ HS khơng u thích mơn này chỉ
khoảng 17%, cho thấy phần lớn các em điều có hứng thú đối với môn này .

11


2.2 Các tác nhân gây hứng thú cho HS khi học môn Tự nhiên và xã hội:
%

80
70
60
50
40
30
20
10
0

tranh ảnh minh
họa

nội dung bài


phương pháp dạy các tác nhân khác
của GV

Biểu đồ thể hiện các tác nhân tạo nên sự hứng thú học tập của học sinh
lớp 3 của Trường TH Lê Văn Tám.
Qua biểu đồ ta có thể thấy được các tác nhân chính tạo nên sự hứng thú
học tập của HS đó là: tranh ảnh minh họa, nội dung của bài học và bên cạnh
đó phương pháp dạy của GV cũng góp phần tạo nên hứng thú cho HS học
mơn Tự nhiên và xã hội. Cịn phần nhỏ đó là do một số yếu tố khác.

12


2.3 Một số hình thức tự học mà HS đã sữ dụng khi học mơn Tự nhiên và xã
hội:

Cách thức tự học
Xem SGK trước ở nhà
Làm bài tập trong vở bài

Mức độ
Thỉnh

Chưa

xuyên
80.9%
63.9%

thoảng

17.6%
34.4%

bao giờ
1.5%
1.7%

61.7%
32.9%

27.5%
61.7%

10.7%
5.4%

Thường

tập
Nghe giảng bài
Học- thảo luận nhóm

Bảng thống kê các hình thức chủ yếu của HS khối lớp 3 Trường Tiểu
học Lê Văn Tám.
Thông qua bảng số liệu ta có thể nhận thấy được các hình thức học chủ
yếu của các em là: xem SGK, làm bài tập ở nhà và nghe GV giảng bài trên
lớp là chủ yếu cịn việc tự học theo nhóm thì chỉ thỉnh thoảng được áp dụng.

2.4 Thời gian dành cho học môn Tự nhiên và xã hội:


13


họ c lú c chuẩ n bị thi
họ c vào buổi tố i
họ c theo thời gian biể u

chưa bao giờ
thỉnh thoảng

họ c lú c rã nh

thường xuyê n
%

0

10

20

30

40

50

60

70


80

90

Biểu đồ thể hiện thời gian dành cho việc học môn Tự nhiên và xã hội của
HS khối 3 Trường TH Lê Văn Tám.
Kết quả khảo sát cho thấy có 32.9% học sinh tranh thủ thời gian
rảnh để học bài, còn lại hơn 67.0% học sinh chỉ thỉnh thoảng học bài vào
thời gian rảnh hoặc chưa từng giành thời gian cho việc học bài. Có đến
87.2% học sinh chỉ học khi chuẩn bị thi, có 58.0% học sinh học theo lịch
sắp của thời gian biểu đặt ra, 75.0% học sinh thường xuyên học bài vào
buổi tối.

Nguyên

nhân thực trạng
14

100


Trong thực tế dạy học hiện nay việc áp dung phương pháp dạy
học hướng dẫn học sinh tự học của giáo viên ở tất cả các môn học nói
chung và môn Tự nhiên và xã hội nói riêng còn gặp nhiều lúng túng, khó
khăn. Cách học của học sinh vẫn đơn giản là cố gắn hoàn thành hết số
bài tập giáo viên giao về nhà (bằng mọi cách có thể). Đối với giáo viên
thì chỉ quen thuộc với cách kiểm tra bài cũ đầu giờ cốt sao cho đúng quy
trình. Việc kiểm tra định kỳ chỉ đơn giản là thực hiện theo phân phối
chương trình, trước khi kiểm tra sẽ giới hạn cho học sinh một phần kích

thước.
Một số giáo viên áp dụng một cách gập khuôn, máy móc lối dạy
“truyền thống”, chủ yếu giải thích, minh họa tái hiện ít sử dụng câu hỏi
tìm tòi, tình huống có vấn đề… coi nhẹ rèn luyện thao tác tư duy, năng lực
thực hành, ít sử dụng các phương tiện dạy học nhất là phương tiện trực
quan để dạy học và tổ chức cho học sinh thảo luận trên cơ sở đó cho học
sinh tìm ra kiến thức và con đường để chiếm lónh kiến thức của học sinh.
Thực tế, giáo viên thường soạn bài bằng cách sao chép lại sách
giáo khoa hay thiết bài giảng, chưa sát nội dung chương trình. Khi dạy
thường nặng về thông báo, không tổ chức hoạt động học tập cho các em,
không dự kiến được các biện pháp hoạt động, không hướng dẫn được
phương pháp tự học.
Do việc truyền đạt kiến thức của giáo viên theo lối thụ động nên
rèn luyện kỹ năng tự học cũng như việc hướng dẫn tữ học của giáo viên
cho học sinh không được chú ý làm cho chất lượng giờ dạy không cao.

15


CHƯƠNG III : CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO
HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH ĐỐI VỚI GIỜ HỌC MÔN TỰ
NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC LÊ VĂN TÁM
3.1. Taêng cường các hình thức kiểm tra đánh giá
3.1.1. Vấn đáp:
- Kiểm tra bài cũ là một khâu không thể thiếu trong dạy học vì
nếu không kiểm tra giáo viên sẽ không nắm được tình hình học bài và
chuẩn bị bài của học sinh, và nếu không đánh giá cho điểm, nhận xét
khuyến khích thì không có động lực cho việc học bài đều đặn ở nhà.
- Kiểm tra vấn đáp trong môn toán có điểm khác với các môn xã
hội là không kiểm tra học thuộc lòng, nghóa là nếu một học sinh học

thuộc và trả lời trôi chảy lý thuyết thì không có nghóa học sinh đó sẽ làm
được bài tập (mà làm được bài tập thì mới có điểm trong kiểm tra định
kỳ). Như vậy quá trình kiểm tra vấn đáp phải thúc đẩy được học sinh học
tập kiến thức để làm được bài tập (chứ không phải là lý thuyết suông),
ngược lại nếu học sinh làm được bài tập thì sẽ trả lời tốt các câu hỏi vấn
đáp của giáo viên.
- Ngoài nội dung câu hỏi thì hình thức kiểm tra cũng là vấn đề đáng
quan tâm, vì một số học sinh khi có điểm miệng sẽ an tâm với việc không
bị gọi tên nữa dẫn đến chểnh mảng việc học kiến thức lí thuyết. Hoặc
việc gọi học sinh lên bảng theo thứ tự trong sổ điểm cũng làm cho học

16


sinh biết được để đối phó. Như vậy, cách gọi phải ngẫu nhiên nhưng học
sinh không biết trước.
- Sau khi kiểm tra đầu giờ giáo viên vẫn nên tiếp tục vấn đáp cho
điểm học sinh ngay trong giờ học để tăng sự tập trung của học sinh, tạo
thêm cơ hội cho học sinh mắc điểm yếu có thể gỡ điểm.
3.1.2. Kiểm tra định kỳ:
Trước khi kiểm tra giáo viên phải xác định rõ cho học sinh đâu là
kiến thức trọng tâm, đâu là kiến thức mở rộng để học sinh biết cách học,
tránh giới hạn quá dài làm cho học sinh không biết học phần nào, dẫn tới
lan man.Tốt nhất là hướng dẫn làm đề cương cho học sinh.
Cách ra đề phải phân loại được học sinh đảm bảo có câu dễ cho
học sinh trung bình yếu và câu khó cho học sinh giỏi, việc ra đề quá khó
hay quá dễ đều không có tác dụng thúc đẩy việc tự học của học sinh.

3.2. Hướng dẫn học sinh tự học
3.2.1. Tự học qua sách giáo khoa:

- Sách giáo khoa là nguồn tri thức quan trọng cho học sinh, nó là
một hướng dẫn cụ thể để đạt lượng liều lượng kiến thức cần thiêt của
môn học, là phương tiện phục vụ đắc lực cho giáo viên và học sinh. Do
đó tự học qua sách giáo khoa là vô cùng quan trọng để học sinh tham gia
vào quá trình nhận thức trước lớp và củng cố khắc sâu ở nhà.
- Để học sinh tự nghiên cứu trước sách giáo khoa ở nhà thì giáo
viên không chỉ đơn giản là nhắc các em đọc trước bài mới mà cần nêu cụ
thể câu hỏi mà khi đọc xong bài mới các em có thể trả lời được. Đó là

17


cách giao nhiệm vụ cụ thể giúp học sinh đọc sách giao khoa có mục tiêu
cụ thể rõ ràng.
3.2.2. Tự học qua sách bài tập, sách tham khảo:
- Đối với học sinh trong trường sách bài tập đều có nên giáo viên
phải tận dụng tài liệu này để giúp học sinh tự học hiệu quả. Khi cho bài
tập nên cho các ví dụ trong sách bài tập, các ví dụ này đều có hướng dẫn
giải và phân dạng, như vậy học sinh sẽ tự học một cách hệ thống ngay từ
đầu .
- Việc cho bài tập về nhà cũng cho theo thứ tự dạng bài tập của
sách giao khoa và sách bài tập để học sinh có một lượng bài tập tương tự
đủ lớn . Khi cho bài theo cách này sẽ giúp học sinh có một cách học mới
là khi gặp khó khăn sẽ tự tìm kiếm một phương án tương tự để giải quyết
chứ không thụ động chờ đợi giáo viên hướng dẫn.
3.2.3.Tự nghiên cứu:
GV nên hướng dẫn học sinh làm các bài tập lớn, có kiểm tra
đánh giá để học sinh có khả năng tự phân tích tổng hợp, tự tìm ra cái cốt
lõi của bài mà GV muốn truyền đạt từ đó HS sẽ khắc sâu hơn những điều
được học và sẽ áp dụng chúng vào thực tiễn cuộc sống đó là yêu cầu cao

nhất của môn Tự nhiên và xã hội.

PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
18


- Về bản chất mà nói học sinh không phải không có hứng thú
trong việc học mơn Tự nhiên và xã hội mà vấn đề là ở chỗ phương pháp
dạy học chưa tạo đủ điều kiện để học sinh phát triển năng lực tự học của
mình. Kết quả nghiên cứu thực hiện tại trường Tiểu học Lê Văn Tám
chứng minh rằng năng lực có thể được phát triển thông qua ứng dụng
học tập tự điều chỉnh và nếu học sinh càng có khả năng gây hứng thú cho
các em và từ đó kết quả học tập sẽ càng cao.
- Phương pháp gây hứng thú này có ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả học tập của học sinh
- Việc gây hứng thú cho HS cần đòi hỏi cần có sự kết hợp nhiều
yếu tố và áp dụng chúng vào học tập một cách linh hoạt và có kế hoạch
cụ thể.
- Cần giúp các em biết xác định kế hoạch học tập cho riêng
mình, có thời gian biểu học tập cụ thể.
- Giáo dục nhận thức như thay đổi phương pháp học tập: học để
hiểu, học để áp dụng, hình thành thói quen.
- Tuy nói thế nhưng việc áp dụng chúng vẫn gặp khơng ít những
khó khăn địi hỏi rất cao ở người GV phải biết cách vận dụng và điều quan
trọng nhất đó chinh là tự bản thân của các em có chịu làm hay khơng đó
chinh là nhân tố quyết định.

II. KIẾN NGHỊ
- Đối với BGH trường thực tập: Cần đầu tư trang thiết bị hơn

nữa, đẩy mạnh việc thực hiện phương pháp dạy học tích cực, “học đi đôi
19


với hành” cho các em được tiếp cận với thực tế nhiều hơn để cho các em
có thể vận dụng kiến thức một cchs thành thạo.
- Đối với BGH Trường ĐH Trà Vinh và Khoa Sư phạm nên cho
thời gian thực tập ở trường phổ thông nhiều hơn nữa để sinh viên có thể
vận dụng phương pháp dạy học vào thực tiễn nhiều hơn, cho các em va
chạm nhiều từ đó chính bản thân các em sẽ đúc kết được nhiều kinh nghiệm
để sau này có thể vận dụng khi ra trường .
- Đối với Ban Giám đốc sở GD- ÑT: Cần tạo điều kiện nhiều hơn
để gợi lên hứng thú của các em không chỉ riêng môn Tự nhiên và xã hội mà
cịn ở tất cả các mơn khác bằng cách tổ chức nhiều cuộc thi hơn nữa đễ các
em có thể tham gia vào, bên cạnh đó cũng có những hình thứ khuyến khích
động viên các em để từ đó sẽ giúp cho các em có được hứng thú.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20



×