Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho học sinh nữ khối 11 trường THPT hàn thuyên bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LÊ THỊ TRANG

LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP NHẰM
KHẮC PHỤC NHỮNG SAI LẦM THƢỜNG
MẮC TRONG KỸ THUẬT NHẢY XA KIỂU
ƢỠN THÂN CHO HỌC SINH NỮ KHỐI 11
TRƢỜNG THPT HÀN THUYÊN - BẮC NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

HÀ NỘI - 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LÊ THỊ TRANG

LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP NHẰM
KHẮC PHỤC NHỮNG SAI LẦM THƢỜNG
MẮC TRONG KỸ THUẬT NHẢY XA KIỂU
ƢỠN THÂN CHO HỌC SINH NỮ KHỐI 11
TRƢỜNG THPT HÀN THUYÊN - BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học



ThS. TẠ HỮU MINH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là Lê Thị Trang
Sinh viên lớp K36 GDTC - GDQP, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, chưa được bảo vệ trước
một Hội đồng khoa học nào. Toàn bộ những vấn đề đưa ra bàn luận, nghiên
cứu đều mang tính cấp thiết và đúng với thực tế khách quan của trường THPT
Hàn Thuyên - Bắc Ninh.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2014
Sinh viên

Lê Thị Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. ĐC

: Đối chứng

2. GDTC

: Giáo dục thể chất

3. TDTT


: Thể dục thể thao

4. THPT

: Trung học phổ thông

5. TN

: Thực nghiệm

6. TT

: Thứ tự

7. VĐV

: Vận động viên

8. ’

: Phút

9. (s)

: Giây


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT


Nội dung

Trang

Bảng 1.1

Đánh giá trình độ kỹ thuật

8

Bảng 3.1

Kết quả phỏng vấn những sai lầm thường mắc

26

Bảng 3.2

Kết quả quan sát sư phạm những sai lầm thường mắc

27

của 30 học sinh nữ lớp 11 khi học kỹ thuật nhảy xa
kiểu “ưỡn thân”
Bảng 3.3

Kết quả phỏng vấn những nguyên nhân dẫn đến sai

29


lầm
Bảng 3.4

Kết quả kiểm tra test tại chỗ bật nhảy bằng 2 chân

31

thực hiện ưỡn thân và gập thân rơi xuống đất trước
thực nghiệm
Bảng 3.5

Kiểm tra thành tích nhảy xa kiểu “ưỡn thân” trước

32

thực nghiệm
Bảng 3.6

Kết quả điểm kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” trước

32

thực nghiệm
Bảng 3.7

Kết quả phỏng vấn lựa chọn sử dụng bài tập nhằm

34


khắc phục những sai lầm thường mắc cho học sinh nữ
khối 11 trường THPT Hàn Thuyên - Bắc Ninh (n=20)
Bảng 3.8

Kết quả phỏng vấn lựa chọn sử dụng thời gian cho

36

một buổi tập luyện nhảy xa cho học sinh nữ khối 11
trường THPT Hàn Thuyên (n=20)
Bảng 3.9

Kết quả phỏng vấn lựa chọn sử dụng số buổi tập trong

36

một tuần học kỹ thuật nhảy xa cho học sinh nữ khối 11
trường THPT Hàn Thuyên (n= 20)
Bảng 3.10 Tiến trình giảng dạy

38

Bảng 3.11 Kết quả kiểm tra test tại chỗ bật nhảy bằng 2 chân

39

thực hiện động tác ưỡn thân và gập thân rơi xuống hố


cát sau thực nghiệm

Bảng 3.12 Kết quả kiểm tra thành tích nhảy xa kiểu “ưỡn thân”

39

sau thực nghiệm
Bảng 3.13 Kết quả kiểm tra kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” sau

40

thực nghiệm
Bảng 3.14 So sánh số học sinh của 2 nhóm còn mắc phải những

41

sai lầm trong kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” sau
thực nghiệm
Bảng 3.15 So sánh kết quả học sinh thực hiện kỹ thuật của test

42

kiểm tra tại chỗ bật nhảy bằng 2 chân thực hiện ưỡn
thân và gập thân rơi xuống hố cát trước và sau thực
nghiệm
Bảng 3.16 So sánh, đánh giá thành tích nhảy xa kiểu “ưỡn thân”

42

của 2 nhóm trước và sau thực nghiệm
Bảng 3.17 So sánh điểm kỹ thuật nhảy xa kiểu ”ưỡn thân” trước


43

và sau thực nghiệm
Bảng 3.18 So sánh tỷ lệ học sinh còn mắc phải những sai lầm

45

trong kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” trước và sau
thực nghiệm
Biểu đồ
3.1
Biểu đồ
3.2
Biểu đồ

So sánh đặc điểm kỹ thuật nhảy xa ưỡn thân trước

44

thực nghiệm
So sánh đặc điểm kỹ thuật nhảy xa ưỡn thân của 2

44

nhóm sau thực nghiệm
So sánh số học sinh mắc sai lầm trước thực nghiệm

46

So sánh số học sinh mắc sai lầm sau thực nghiệm


47

3.3
Biểu đồ
3.4


MỤC LỤC
Đặt vấn đề ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu..................................................... 4
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. ........................................................ 4
1.2. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến .................................................................... 7
1.3. Nguyên lý kỹ thuật của môn nhảy xa ....................................................... 12
1.4. Cơ sở lý luận của giảng dạy động tác ...................................................... 14
1.5. Các phương pháp giảng dạy ..................................................................... 16
1.6. Cơ sở lý luận để đề phòng và loại trừ những sai lầm thường mắc trong kỹ
thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân”......................................................................... 17
1.7. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT ......................................... 18
Chƣơng 2: Nhiệm vụ, phƣơng pháp và tổ chức nghiên cứu ..................... 21
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 21
2.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 21
2.3. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 23
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu .................................................................... 24
3.1. Thực trạng những sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa kiểu
“ưỡn thân” của các em học sinh nữ khối 11 trường THPT Hàn Thuyên........ 24
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập nhằm khắc phục
những sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho các
em học sinh nữ lớp 11 trường THPT Hàn Thuyên - Bắc Ninh....................... 33
Kết luận và kiến nghị .................................................................................... 49

1. Kết luận ....................................................................................................... 49
2. Kiến nghị .................................................................................................... 50
Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 51
Phụ lục


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại ngày nay khoa học phát triển như vũ bão, công cuộc xây
dựng quê hương đất nước đổi mới hằng ngày, vì vậy tri thức giảng dạy trong
nhà trường là những kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn, dùng làm chìa
khóa để mở cánh cửa khoa học, là cái vốn mà thế hệ trẻ có thể vận dụng vào
cuộc sống, tiếp tục học và tự bồi dưỡng trong suốt cuộc đời. Vậy trang bị kiến
thức phổ thông cho học sinh phổ thông là một việc làm vô cùng quan trọng
nhằm góp phần xây dựn g đất nước phồn vinh. GDTC là một trong những nội
dung giáo dục quan trọng của nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và
trong sáng về đạo đức theo tinh thần về nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ
VIII. Mục tiêu của GDTC là phát triển toàn diện tố chất thể lực, hình thể,
nâng cao sức khỏe, phát triển các thành tích thể thao đồng thời góp phần phát
triển nhân cách con người học sinh.
GDTC đem lại cho học sinh một sức khỏe tốt, một cơ thể phát triển hài
hòa để tạo tiền đề góp phần thúc đẩy học tốt các môn học khác. Ngày nay
trong hệ thống GDTC nước ta, điền kinh là một môn thể thao có một vị trí rất
quan trọng nó là một trong những nội dung thi đấu tại các kỳ Đại hội quốc
gia, khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, điền kinh được phổ biến giảng dạy
trong các trường phổ thông, là nội dung chính nhằm phát triển tố chất thể lực
chung. Việc nâng cao thành tích môn học điền kinh trong các trường THPT là
yếu tố cần thiết, nhưng để đạt được thành tích cao đòi hỏi kỹ thuật càng phải

được hoàn thiện.
Môn nhảy xa là một trong những hoạt động cơ bản nhằm phát triển các
tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe cho học sinh. Là môn học chính khóa


2

trong chương trình GDTC, là nội dung thi đấu trong Hội khỏe các cấp từ địa
phương đến cấp trung ương.
Nhảy xa “ưỡn thân” có kỹ thuật tiên tiến thường được sử dụng nhiều
trong thi đấu, tuy nhiên thành tích đạt được chưa cao nguyên nhân còn nhiều
sai lầm trong khi thực hiện kỹ thuật. Ở nước ta việc nghiên cứu áp dụng các
phương tiện, phương pháp tập luyện tiên tiến vào giảng dạy, đặc biệt trong
các trường phổ thông vấn đề nghiên cứu và áp dụng các bài tập nhằm khắc
phục những sai lầm trong giảng dạy kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
Trong giảng dạy việc nắm bắt kỹ thuật là quan trọng mà trong khi tập
luyện người tập rất hay mắc phải những sai lầm khi học kỹ thuật, vì vậy trong
giảng dạy nhanh chóng tìm ra những sai lầm thường mắc cũng như nguyên
nhân của nó là việc rất khó, nhưng việc xác định vận dụng các biện pháp và
bài tập để sửa chữa những sai lầm đó lại quan trọng hơn. Vấn đề nghiên cứu
các biện pháp tập luyện nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc trong kỹ
thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” được rất nhiều giáo viên môn thể dục quan
tâm, chú ý song đều đề cập đến các giai đoạn kỹ thuật quan trọng, thiếu đánh
giá một cách hệ thống và toàn diện. Một số giáo viên giảng dạy thể dục trong
chương trình ít áp dụng đến bài tập sửa chữa những sai lầm mà học sinh
thường mắc, do vậy ảnh hưởng chung đến kết quả học tập và thành tích thi
đấu.
Trong các năm học gần đây thông qua quá trình giảng dạy, trao đổi giáo
viên trong trường và một số trường khác trong huyện học sinh thường mắc
những sai lầm rất cơ bản trong học kỹ thuật. Như chạy đà không ổn định, tốc

độ chưa cao, góc độ giậm nhảy thấp, bước bộ, miết chân, và đẩy hông nhiều
em làm chưa tốt. Chính các yếu tố này đã ảnh hưởng rất nhiều đến thành tích
học tập và thi đấu. Các yếu tố đó lại chính là kết quả giai đoạn chạy đà, giậm
nhảy tạo ra. Hiện nay, thành tích môn nhảy xa của học sinh trường THPT Hàn


3

Thuyên - Bắc Ninh còn thấp so với thành tích môn nhảy xa của các trường
trong khu vực đặc biệt là với các em học sinh nữ. Xuất phát từ những lý do
trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc
phục những sai lầm thường mắc trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho
học sinh nữ khối 11 trường THPT Hàn Thuyên - Bắc Ninh”.
* Mục đích nghiên cứu
Thông qua kết quả nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục
những sai lầm thường mắc trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân với yêu cầu
cụ thể nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giảng dạy TDTT trong trường THPT
hiện nay. Nhằm giúp học sinh thực hiện được kỹ thuật một cách chính xác
nhất đó là yếu tố xác định thành tích của người tập.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vị trí, vai trò của công tác GDTC trong việc phát triển con người
toàn diện
Lênin cho rằng “Con người toàn diện là con người phát triển về mọi mặt,
được chuẩn bị về mọi mặt, biết làm mọi việc, đảm nhiệm được nhiều chức

năng trong xã hội”. Con người phát triển toàn diện phải có sự phát triển hài
hoà giữa thể chất và tinh thần.
GDTC kết hợp các mặt giáo dục trở thành phương tiện gián tiếp nâng
cao hiệu quả sản xuất. Còn là phương thức duy nhất để đào tạo ra con người
phát triển toàn diện. Trong hướng dẫn thực hiện chương trình GDTC trường
học của Bộ Giáo dục đào tạo có đề cập tới “GDTC được thực hiện trong hệ
thống nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo những công dân
phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục đào
tạo, nhằm giúp con người phát triển cả về trí tuệ, cường tráng về thể lực,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. GDTC trong các nhà trường
nhằm từng bước nâng cao trình độ văn hoá thể chất của học sinh, sinh
viên”.[12]
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục nói chung và
GDTC nói riêng
Công tác GDTC trong các trường học ở nước ta là bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục đào tạo. Là một mặt cơ bản của quá trình giáo dục toàn
diện. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định “Cùng với
khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là chìa khoá mở cửa để đất nước bước
vào tương lai với đội ngũ khoa học vững vàng”[11]. Nghị quyết TW2 khoá


5

VII năm 1996 cũng khẳng định “Giáo dục đào tạo cùng với khoa học kỹ thuật
phải trở thành quốc sách hàng đầu”

. Muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì con người luôn là
nhân tố cơ bản, là động lực quan trọng quyết định sự thành công, sự phát triển

của xã hội. Chính vì vậy, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã
xác định cụ thể vấn đề đầu tiên để phát triển xã hội chính là phải quan tâm,
coi trọng đến việc thực hiện “chiến lược con người” trong mọi lĩnh vực hoạt
động, vấn đề con người ở đây chính là con người có sự phát triển toàn diện,
tức là không chỉ phát triển về trí tuệ, đạo đức mà còn phải cường tráng về thể
chất. Chăm lo cho mọi người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của
mọi ngành trong đó có Giáo dục. Cụ thể là GDTC trong nhà trường.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1991 về công tác GDTC
khẳng định “Về công tác TDTT cần coi trọng nâng cao chất lượng GDTC
trong trường học...tổ chức và hướng dẫn, vận động nhân dân tham gia rèn
luyện thân thể hàng ngày ”[5]. Chỉ thị 112 CT ngày 09 tháng 05 năm 1989
của Hội đồng Bộ trưởng về công tác TDTT trong những năm trước mắt có
viết “Đối với học sinh, sinh viên trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm
túc việc dạy và học môn TDTT theo chương trình quy định”[1]. Chỉ thị 36
CT-TW của Ban bí thư trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn
mới nêu rõ “Cải tiến chương trình giảng dạy đào tạo giáo viên TDTT tạo
điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC ở tất cả các
trường học”[2]. Ngày 7/3/1995 Thủ tướng chính phủ cũng ra chỉ thị 113/TTG
về xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về GDTC trong trường
học. Trong hội nghị GDTC trong trường phổ thông toàn quốc (Hải Phòng
08/1996), Phó thủ tướng Nguyễn Khánh đã nói “Ước vọng của chúng ta là
mỗi thanh niên cả nam và nữ đều có thể lực cường tráng, cùng với tâm hồn
trong sáng và trí tuệ phát triển”[4].


6

Nhìn chung các chỉ thị, văn bản, nghị quyết của Đảng và Nhà nước liên
quan đến công tác TDTT và GDTC trong nhà trường đều có chung quan điểm
nhằm lãnh đạo, chỉ đạo để TDTT nước nhà ngày càng phát triển, phong trào

luyện tập TDTT phát triển rộng khắp, để mỗi người dân Việt Nam đều có sức
khoẻ tốt phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc. Đối với GDTC
trong chương trình cải cách giáo dục số 134 có viết “Mục đích của GDTC
nước ta là: bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển toàn
diện có sức khoẻ dồi dào, thể chất cường tráng, dũng khí kiên cường để kế tục
sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng”[3].
1.1.3. Các khái niệm liên quan đến đề tài
GDTC trong trường học được đánh giá là một bộ phận quan trọng không
thể thiếu của nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa. Hoạt động GDTC trong các
trường được tiến hành với mục đích tăng cường thể chất học sinh, nâng cao
trình độ thể thao của các em, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá và
giáo dục học sinh phát triển toàn diện, có khả năng phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước nhà.
GDTC là một mặt, một bộ phận của quá trình giáo dục. Do đó, khái niệm
GDTC nằm trong khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng. GDTC là một hình
thức giáo dục nhằm trang bị cho học sinh vốn kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ
bản, cần thiết trong cuộc sống và những tri thức chuyên môn, phát triển các tố
chất thể lực và tăng cường sức khoẻ. GDTC trong trường học là một hoạt
động giáo dục, vì nó được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch và có
hệ thống nhằm truyền thụ tri thức văn hoá thể chất từ người thầy sang học trò.
GDTC mang đầy đủ các đặc điểm của quá trình sư phạm. Đó là vai trò chủ
đạo điều khiển của giáo viên trong giảng dạy, tính chủ động tích cực của học
sinh trong học tập. Nội dung đặc trưng của GDTC là dạy học động tác và giáo


7

dục tố chất vận động. Hai mặt này không đồng nhất song lại liên quan mật
thiết với nhau.
- Thể chất chỉ chất lượng thân thể con người. Thể chất con người bao

gồm thể hình, khả năng chức năng và khả năng thích ứng. Phát triển thể chất
là một quá trình hình thành và biến đổi có quy luật các thuộc tính về hình thái,
chức năng tự nhiên của cơ thể dưới ảnh hưởng của điều kiện sống trong đó có
GDTC. Vì thế, phát triển thể chất là sự thay đổi về hình thái, kích thước và
chức năng của cơ thể trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân. Phát triển thể chất vừa
là quá trình tự nhiên (nó tuân thủ cả quy luật tự nhiên và sinh học) vừa là quá
trình xã hội. Vì nó phụ thuộc vào hai yếu tố: Môi trường tự nhiên và môi
trường giáo dục. Trong đó yếu tố môi trường giáo dục có tác động một cách
tích cực, chủ động.
- Chất lượng GDTC: Là hiệu quả quá trình phát triển thể chất của học
sinh - cụ thể là tăng sức khỏe, tăng khả năng hoạt động thể lực và khả năng
thích nghi với điều kiện sống thay đổi. GDTC là một mặt vừa riêng lẻ, vừa
không thể tách khỏi quá trình giáo dục. Trên thực tế nhiệm vụ giáo dục đạo
đức, ý chí, thẩm mĩ, trí t u ệ ; giáo dưỡng thể chất và giáo dục các tố chất thể
lực bao giờ cũng được giải quyết đồng thời trong một quá trình thống nhất.
Đó là quá trình giáo dục toàn diện.
1.2. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến
1.2.1. Khái niệm, vai trò, tác dụng của bài tập bổ trợ chuyên môn
- Khái niệm kỹ thuật:
Kỹ thuật của các bài tập thể chất là những cách thức thực hiện các hành
động vận động và nhờ các cách thức đó mà nhiệm vụ vận động được giải
quyết một cách hợp lý và có hiệu quả cao hơn.
Để đạt được thành tích tốt nhất trong điền kinh nói chung và nhảy xa
kiểu “ưỡn thân” nói riêng. VĐV phải có kỹ thuật thực hiện động tác hợp lý


8

và hiệu quả nhất. Kỹ thuật phải phù hợp với đặc điểm cá nhân của VĐV và
điều kiện thực hiện động tác.

Kỹ thuật động tác tốt phải dựa trên nền tảng của thể lực tốt bởi có sức
nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo được phát triển ở mức độ
cao. Cũng chỉ có nắm kỹ thuật hợp lý mới phát huy được trình độ thể lực. Do
đó, muốn thành tích tốt, điều quan trọng là phải tính đến mối quan hệ giữa
việc phát triển các tố chất thể lực với việc tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật. Công
trình nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ hoàn thiện kỹ thuật của VĐV nhảy xa
tác giả VB.Pôpop đưa ra công thức sau:
K=
Trong đó:
P: Thành tích nhảy xa
: Tốc độ chạy đà tối đa trước khi giậm nhảy
K: Hệ số kỹ thuật.
Nếu K càng lớn thì trình độ kỹ thuật của VĐV càng cao. Để xác định
được mức độ chuẩn bị kỹ thuật của VĐV trong huấn luyện (thông qua hệ số
kỹ thuật) có thể dựa trên kết quả phân loại sau:
Bảng 1.1: Đánh giá trình độ kỹ thuật:
Mức độ chuẩn bị kỹ thuật

Giới
tính

Tốt

Khá

Trung bình

Không đạt yêu cầu

Nam


> 0, 81

0,79 - 0,81

0,77 - 0,79

< 0,77

Nữ

> 0,76

0,74 - 0,76

0,72 - 0,74

< 0,72

Hoàn thiện kỹ thuật luôn gắn liền với quá trình đào tạo. Nội dung chủ
yếu trong việc hoàn thiện kỹ thuật các môn điền kinh - cụ thể là nhảy xa kiểu
“ưỡn thân” là các phương pháp và phương tiện tạo nên khái niệm đúng về kỹ


9

thuật động tác, nắm vững các động tác thực hành, đánh giá được động tác khi
thực hiện, xác định những sai lầm và tìm cách sửa chữa. Tất cả đều được giải
quyết phần lớn nhờ các bài tập bổ trợ chuyên môn trong quá trình huấn luyện.
- Khái niệm bài tập bổ trợ chuyên môn:

Cho đến nay khái niệm về bài tập bổ trợ và bài tập bổ trợ chuyên môn
có những cách trình bày sau:
Theo PGS Nguyễn Toán và TS Phạm Danh Tốn thì cho rằng: “Bài tập
bổ trợ chuyên môn là các bài tập phù hợp với các yếu tố của đối tượng thi
đấu cùng các biến dạng của chúng, cũng như các bài tập dẫn dắt tác động có
chủ đích và có hiệu quả đến sự phát triển của tố chất và các kỹ xảo của vận
động ở chính ngay môn thể thao đó"[4]. Còn một số các nhà khoa học nước
ngoài thì cho rằng: Bài tập tập bổ trợ còn là một trong những biện pháp giảng
dạy bao gồm các bài tập mang tính chuyển đổi và bài tập tăng cường các tố
chất thể lực. Quan điểm của các học giả Trung Quốc về bài tập bổ trợ chuyên
môn là những bài tập mang tính chuyên biệt cho từng kỹ thuật và từng môn
thể thao khác nhau.
Những khái niệm này, tuy có khác về cách trình bày nhưng luôn có sự
thống nhất về ý nghĩa. Vậy ta có thể hiểu về khái niệm bài tập bổ trợ chuyên
môn là các bài tập mang tính chất chuẩn bị, tính dẫn dắt, tính chuyển đổi và
tính thể lực mang tính chuyên biệt cho từng kỹ thuật và từng môn thể thao
khác nhau.
- Vai trò, tác dụng của bài tập bổ trợ chuyên môn:
Theo các nhà khoa học, các nhà chuyên gia thể thao thì các bài
tập bổ trợ chuyên môn là một biện pháp quan trọng trong giảng dạy và huấn
luyện kỹ thuật.
Như đã biết một số kỹ thuật thường cấu trúc các chuỗi động tác gắn kết
có trình tự, có sự phối hợp có liên quan, có tác động lẫn nhau, thúc đẩy hoặc


10

hạn chế nhau để cùng thực hiện một yếu lĩnh kỹ thuật động tác nào đó. Một
kỹ thuật khó thường gồm nhiều khâu, nhiều giai đoạn, nhiều cử động nên
cùng một lúc người học không thể hình thành ngay các kỹ năng cũng như các

đường mòn liên hệ trên vỏ não các cử động đó. Do vậy, người ta phân nhỏ kỹ
thuật nhất là kỹ thuật phức tạp thành các giai đoạn động tác khác nhau.
Ví dụ: Trong nhảy xa người ta phân kỹ thuật ra thành bốn giai đoạn:
Chạy đà, giậm nhảy, trên không, rơi xuống và kết thúc.
Trên cơ sở đó người học nắm bắt từng phần sau đó liên kết lại thành kỹ
thuật hoàn chỉnh. Ở mỗi giai đoạn kỹ thuật để giúp người học hình thành các
kỹ thuật người ta sử dụng các bài tập:
- Mang tính chuẩn bị, nhằm đưa người tập vào trạng thái sinh lý thích
hợp với việc tiếp thu kỹ thuật.
- Mang tính dẫn dắt nhằm làm cho người tập nắm được các yếu lĩnh từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến liên hoàn của một
số kỹ thuật cần học.
- Mang tính chuyển đổi từ động tác này sang động tác khác với không
gian và thời gian khác nhau, nhằm tạo ra sự lợi dụng các khả năng đã có, hình
thành ra các khả năng mới và có thể để đáp ứng cho người học thực hiện
thuận lợi các kỹ năng đang học, người ta còn cần tập các bài tập bổ trợ thể lực
chuyên môn cho người tập.
Ví dụ: Muốn thực hiện được động tác giậm nhảy tốt, người tập phải có
cảm giác đà chính xác, điểm giậm nhảy và góc độ đặt chân hợp lý, đồng thời
cần phải có sức bật của đôi chân thì động tác giậm nhảy mới có hiệu quả tốt.
Vì vậy, đi đôi với các bài tập bổ trợ chuyên môn nói ở trên, người ta
cũng rất chú trọng đưa vào trong chương trình giảng dạy các bài tập để tăng
cường một số tố chất thể lực chuyên môn cần thiết. Có thể nói các bài tập bổ
trợ chuyên môn vừa là biện pháp nắm kỹ thuật, vừa là khâu quan trọng


11

để hoàn thiện và nâng cao kỹ thuật, nhất là kỹ thuật phức tạp và khó. Vừa là
một khâu quan trọng để thúc đẩy nhanh quá trình hình thành kỹ năng vận

động.
1.2.2. Xu thế nghiên cứu sử dụng bài tập bổ trợ chuyên môn trong thể thao
nói chung và giảng dạy môn nhảy xa nói riêng
Do vai trò tác dụng to lớn của các bài tập bổ trợ chuyên môn đối với quá
trình giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật nên nhiều nước có nền thể thao phát
triển, đặc biệt là các nước có nền công nghệ phát triển đã đầu tư cải tiến vận
dụng thành quả của các ngành khoa học khác để tạo ra nhiều các bài tập bố
trợ chuyên môn.
- Việc tập luyện môn nhảy xa trên thế giới vào các thập kỷ 60 của thể kỷ
XX về trước chủ yếu diễn ra trên các hố cát và các đường chạy bằng đất nện
hoặc xỉ than. Do vậy các hình thức của các bài tập bổ trợ chuyên môn cũng
đơn điệu, nghèo nàn. Từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX nhờ có khoa học phát triển
nên có sự ra đời của các máy móc tập luyện, đường chạy nhựa tổng hợp đã
làm phong phú hơn, đa dạng hơn các bài tập bổ trợ, càng đáp ứng có chủ đích
các yêu cầu chuyên biệt của các môn thể thao hơn.
- Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện mối liên hệ giữa ngũ quan (xúc
giác, thính giác, khứu giác, vị giác, thị giác) đều có tác động quan trọng với
việc nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo và phát triển các tố chất vận động. Vì vậy ngoài
việc dùng giáo cụ trực quan hoặc ngôn ngữ, nhiều chuyên gia thể thao đã
dùng ánh sáng, âm thanh tiếng động như tiếng trống, kèn trong tập luyện để
tác động vào tâm lý cũng như quá trình hưng phấn của người tập giúp cho
việc tập luyện bổ trợ đạt hiệu quả cao.
- Nhịp sinh học được các nhà khoa học Fuse và Swaplôta (Mỹ) đề xuất
vào thế kỷ XIX . Theo 2 ông: Nếu tính từ ngày sinh thì cứ 23 ngày là một chu
kỳ thể lực, 28 ngày là một chu kỳ tình cảm, 33 ngày là một chu kỳ trí lực. Nếu


12

tập luyện vào nhịp sinh học cao nhất của thể lực, trí lực hoặc tình cảm thì hiệu

quả sẽ cao hơn, còn các ngày khác cần có sự điều chỉnh thích hợp. Khi mở
rộng kỹ năng cơ thể, nếu tập luyện vào thời điểm nhịp sinh học cao sẽ có hiệu
quả cao nhất (sinh lý học TDTT).
- Đặc biệt trong hình thành nhịp điệu động tác. Ví dụ: Trong nhảy xa
muốn thực hiện tốt giai đoạn giậm nhảy thì VĐV phải dùng lực bao nhiêu
kg/1kg trọng lượng cơ thể, nhịp điệu chạy đà ra sao để đặt đúng chân vào
điểm giậm nhảy, các góc độ của giậm nhảy đã hợp lý chưa, tư thế của tay đã
đúng chưa v.v... tất cả những vấn đề đó đều phải được mô hình hoá và chương
trình hoá. Người tập sẽ bám vào mô hình và chương trình hoá mà dùng các
bài tập để hoàn thiện và nâng cao kỹ thuật, nâng cao thể lực và thành tích thể
thao.
Tóm lại: Từ những xu thế trên, để nâng cao hiệu quả bài tập bổ trợ
chuyên môn đang ngày được các nước có nền thể thao tiên tiến sử dụng rộng rãi
trong giảng dạy và huấn luyện thể thao. Họ coi đó là những biện pháp để nâng
cao chất lượng giảng dạy và huấn luyện các môn thể thao nói chung và môn
nhảy xa nói riêng.
1.3. Nguyên lý kỹ thuật của môn nhảy xa
Nhảy xa là một hoạt động không có chu kỳ bao gồm nhiều động tác liên
kết với nhau một cách chặt chẽ từ chạy đà - giậm nhảy - trên không - rơi
xuống đất. Kỹ thuật nhảy xa “ưỡn thân” là kỹ thuật khó và phức tạp, phù hợp
với những người nhảy có trình độ tập luyện cao.
Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện nhảy xa “ưỡn thân” được chia
làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn chạy đà.
- Giai đoạn giậm nhảy.
- Giai đoạn trên không.


13


- Giai đoạn rơi xuống và kết thúc.
Để có thành tích nhảy xa tốt thì người tập phải biết phối hợp chặt chẽ các
giai đoạn với nhau. Tốc độ chạy đà là tiền đề cho cơ sở giậm nhảy, chạy đà
phải đảm bảo tốc độ chính xác, tính ổn định và phải tạo được tốc độ nằm
ngang lớn nhất và tạo được điều kiện thuận lợi nhất cho giai đoạn giậm nhảy
(ở 6-8 bước cuối).
Ở giai đoạn giậm nhảy, chạy đà ở bước cuối cùng phải thay đổi hướng
của trọng tâm cơ thể từ tư thế chạy sang tư thế bay. Ý nghĩa của giai đoạn
giậm nhảy là tạo ra tốc độ bay ban đầu lớn nhất và có góc độ bay hợp lý, vì
giai đoạn giậm nhảy quyết định đến thành tích nên để giậm nhảy tốt người
nhảy phải biết phối hợp kỹ thuật và có sự chuẩn bị về sức mạnh tốc độ. Yêu
cầu của nhảy xa là phải kéo dài thời gian bay trên không của trọng tâm cơ thể
nhờ sự nỗ lực của người nhảy trong chạy đà và giậm nhảy. Như vậy, để có
thành tích tốt thì khi kết thúc giậm nhảy phải tạo được tốc độ bay ban đầu và
góc độ bay ban đầu hợp lý tối đa. Trong khi bay do không có điểm tựa nên
mọi hoạt động của người nhảy không làm thay đổi quỹ đạo bay nhờ hoạt động
bồi thường:
X=
Trong đó

X: là hoạt động bồi thường
P: là trọng lượng cơ thể hoạt động (kg)
L: là quãng đường di chuyển của bộ phận cơ thể (cm)
B: là trọng lượng cơ thể (kg)

Và nó có tác dụng giữ thăng bằng tốt. Kết thúc giai đoạn bay người nhảy
phải tận dụng điểm chạm đất xa nhất so với trọng lượng cơ thể thì thành tích
sẽ tốt hơn. Muốn vậy người nhảy phải cố gắng với chân ra xa, về trước đồng
thời đánh tay và thân trên gập nhiều về phía trước để giúp không bị đổ người
ra phía sau làm ảnh hưởng đến thành tích.



14

Tóm lại: Nhảy xa ưỡn thân là một kỹ thuật phức tạp, là sự liên kết chặt
chẽ các giai đoạn. Vì vậy trong huấn luyện và giảng dạy việc hoàn thiện các
giai đoạn kỹ thuật là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được. Nếu kỹ thuật
sai sẽ dẫn đến định hình động tác sai và khó sửa.
1.4. Cơ sở lý luận của giảng dạy động tác
Giảng dạy kỹ thuật thể thao sử dụng toàn bộ tất cả các biện pháp có mục
đích, có tổ chức nhằm làm cho học sinh có khả năng tiến hành các động tác thể
thao bằng một kỹ thuật được nắm vững một cách có phối hợp và thích hợp.
Kỹ thuật các môn thể thao nói chung cũng như kỹ thuật các môn điền
kinh nói riêng là hệ thống chuyên môn của các động tác tiến hành đồng thời
và tuần tự theo phương hướng tổ chức hợp lý hoạt động tương hỗ giữa lực
bên trong và bên ngoài với mục đích tận dụng đầy đủ và hiệu quả những lực
ấy để đạt thành tích cao. Như vậy nắm vững kỹ thuật điền kinh trước hết cần
nắm cách dùng lực chính xác dẫn tới sự di chuyển hợp lý trong không gian,
thời gian của cơ thể hoặc bộ phận cơ thể. Nghiên cứu kỹ thuật môn điền kinh
cần phải nhìn nhận đến nguyên lý kỹ thuật chung cơ bản, cơ bản hơn là phải
dựa vào nguyên lý lực học và đặc điểm bản thân để tìm tới phương pháp thực
hiện hợp lý nhất, hiệu quả nhất cho học sinh.
Cơ sở sinh lý của nắm vững kỹ thuật là kết quả lặp đi lặp lại nhiều lần
tạo ra đường dây liên hệ thần kinh tạm thời và hình thành phản xạ có điều
kiện. Quá trình của hệ thần kinh đào tạo điều kiện hoàn thành những động tác
theo yêu cầu đã đề ra, hình thành thói quen. Từ cơ sở lý luận giảng dạy kỹ
thuật động tác phân chia thành 3 giai đoạn tương đương với 3 giai đoạn hình
thành kỹ năng kỹ xảo vận động:
- Giai đoạn giảng dạy ban đầu:



15

Mục đích của giai đoạn này là dạy học các nguyên lý kỹ thuật động tác,
hình thành kỹ năng thực hiện nó, để đạt được mục đích trên cần giải quyết các
nhiệm vụ sau:
+ Tạo khái niệm chung về động tác và tư thế tâm thu tốt để tiếp thu kỹ
thuật động tác.
+ Ngăn ngừa và loại trừ những cử động không cần thiết.
+ Hình thành nhịp điệu chung của động tác.
- Giai đoạn giảng dạy đi sâu chi tiết:
Mục đích giảng dạy ở giai đoạn này là đưa trình độ tiếp thu ban đầu
còn “thô thiển” đối với kỹ thuật động tác lên mức tương đối hoàn thiện. Nếu
ban đầu còn chủ yếu tiếp thu cơ sở kỹ thuật thì ở giai đoạn này phải tiếp thu
chi tiết kỹ thuật đó. Nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này:
+ Cần có sự chính xác hóa kỹ thuật động tác theo các đặc tính không gian,
thời gian, nhiều động lực của nó sao cho tương ứng với đặc điểm người tập.
+ Hoàn thiện nhịp điệu động tác, thực hiện nhịp điệu động tác tự nhiên,
liên tục.
+ Tạo tiền đề để thực hiện động tác biến dạng.
- Giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật:
Mục đích của giai đoạn này là để đảm bảo cho người tập tiếp thu và vận
dụng các động tác hoàn thiện trong thực tế. Nhiệm vụ của giai đoạn này là:
+ Củng cố kỹ xảo để có về kỹ thuật động tác.
+ Mở rộng biến dạng các kỹ thuật động tác để có thể thực hiện nó hợp
lý trong các điều kiện khác nhau, lúc nào cũng phải biểu hiện các tố chất thể
lực ở mức độ cao.
+ Hoàn thiện sự cá biệt hóa kỹ thuật động tác cho phù hợp với đặc điểm
năng lực cá nhân.



16

Tóm lại: Trong quá trình giảng dạy kỹ thuật động tác phải chú ý đến kỹ
thuật động tác để lựa chọn các bài tập và sử dụng các phương pháp giảng dạy
động tác. Việc lựa chọn các bài tập cũng như việc sử dụng các phương pháp
giảng dạy phù hợp với đặc điểm người tập thì giảng dạy mang lại hiệu quả cao.
1.5. Các phƣơng pháp giảng dạy
Giảng dạy điền kinh là một quá trình giáo viên vận dụng các phương
pháp và phương tiện chuyên môn để truyền thụ những kiến thức và kỹ năng
cho người học. Do tính chất phức tạp và phong phú của kỹ thuật điền kinh,
việc xây dựng và hình thành các phương pháp giảng dạy được dựa trên những
kỹ thuật tự nhiên của con người. Trong đó quan trọng hơn cả là quy luật hình
thành định hình động lực trong quá trình giảng dạy kỹ thuật. Chúng tôi sử
dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp giảng giải:
Giảng giải là phương pháp người dạy sử dụng lời nói để diễn đạt nội
dung thông tin, phân tích từng chi tiết kỹ thuật hay toàn bộ kỹ thuật động tác
nhằm giúp cho người học tiếp thu đầy đủ, hiểu rõ nội dung và nắm được
phương pháp kỹ thuật đó.
- Phương pháp trực quan:
Trực quan là phương pháp người dạy trực tiếp làm mẫu hoặc dùng
phim, tranh, ảnh kỹ thuật để diễn đạt nội dung thông tin để giúp cho người tập
hiểu rõ từng kỹ thuật động tác nhất là động tác khó.
- Phương pháp giúp đỡ trực tiếp:
Phương pháp giúp đỡ trực tiếp là phương pháp người dạy trực tiếp tác
động vào người học sinh giúp cho học sinh có khái niệm đúng đắn hoặc có
cảm giác về cơ bắp, về không gian và nhịp điệu động tác, phương pháp này sử
dụng nhiều trong giai đoạn đầu, khi học sinh chưa thể làm được toàn bộ động
tác một cách chính xác hoặc chưa có cảm giác về không gian, thời gian và

dùng lực khi thực hiện động tác.


17

- Phương pháp giảng dạy toàn bộ:
Chúng tôi thực hiện hoàn thiện toàn bộ kỹ thuật của nhảy xa kiểu “ưỡn
thân” vì như vậy sẽ tạo cho các em thực hiện có tính liên tục không ảnh
hưởng đến tính nhịp điệu của động tác.
- Phương pháp giảng dạy phân chia:
Khi giảng dạy các động tác kỹ thuật phức tạp có nhiều giai đoạn để
giảng dạy giúp cho học sinh tiếp thu được các chi tiết kỹ thuật động tác.
Chúng tôi để phối hợp vận dụng phương pháp phân chia và phương
pháp toàn bộ trong quá trình giảng dạy kỹ thuật động tác, giúp cho học sinh
nắm vững chi tiết động tác và hoàn thiện kỹ thuật một cách chính xác.
1.6. Cơ sở lý luận để đề phòng và loại trừ những sai lầm thƣờng mắc
trong kỹ thuật nhảy xa kiểu “ƣỡn thân”
Trong dạy học ban đầu bao giờ cũng có những lệnh lạc đáng kể trong
khi thực hiện động tác so với hình mẫu quy định. Do đó cần phải đề phòng và
loại trừ ở mức có thể những lệch lạc làm xuyên tạc, méo mó đối với kỹ thuật
động tác. Những sai lệch tiêu biểu là: thêm động tác phụ không cần thiết;
động tác lệch lạc về phương hướng, biên độ; nỗ lực cơ bắp không đúng mức;
nhịp điệu chung của động tác bị sai. Những sai lệch đó thường là tự nhiên,
khó tránh khỏi do các quy luật tự nhiên trong lúc hình thành bước đầu các cơ
chế vận động. Nhưng cũng do thiếu sót trong phương pháp dạy học. Hiệu quả
dạy học phụ thuộc nhiều vào những cách chủ động ngăn ngừa và loại trừ
những sai lầm đó.
Môn nhảy xa về kỹ thuật động tác thực hiện mang tính quy luật tự
nhiên của con người. Nên trong lúc học kỹ thuật nhảy xa không thể tránh
được những sai lầm. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy kỹ thuật người giáo

viên cần phải có những bài tập phù hợp để sửa chữa những sai lầm thường
mắc trong học kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho học sinh.


18

1.7. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT
Việc nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của các em ở giai đoạn này là rất
quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn trong huấn luyện. Đặc biệt là đối với các
em học sinh nữ lứa tuổi này về mặt sinh lý của các em có những đặc điểm
khác biệt so với các bạn nam. Đánh dấu một bước đi hoàn chỉnh về cơ thể.
Dấu hiệu nổi bật của thời kỳ này là thời kỳ phát dục mạnh, tuyến nội tiết tăng
cường hoạt động kích thích cơ thể lớn nhanh mà chủ yếu là phát triển chiều
dài của tay và chân.
Ở lứa tuổi này các em thường mắc một số chứng bệnh gây rối loạn
chức năng, biểu hiện đau đầu, mất ngủ, tính cáu gắt …ngoài ra còn biểu hiện
rối loạn tuần hoàn máu dẫn đến tim có tiếng đập phụ, tim đập có tiếng phổi.
Trong giai đoạn này hệ thống thần kinh tiếp tục phát triển nhanh và đi
với khả năng hoàn thiện tư duy, phân tích tổng hợp trừu tượng hóa phát triển
thuận lợi cho sự hình thành rất nhiều hệ thống của đường liên hệ tạm thời.
Trong giai đoạn này hệ thống nội tiết hoạt động mạnh mẽ có tính đặc thù để
lại dấu vết (hiện tượng lưu dấu vết). Lưu dấu vết được củng cố qua tập luyện
lặp lại sẽ tạo nên đường liên hệ tạm thời và định hình động lực tự động hóa.
Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế so với quá trình ức chế, chức năng
điều khiển ức chế trên vỏ não cũng trở nên rõ nét, ức chế phát triển nhanh là
cơ sở cho việc thực hiện bài tập chi tiết kỹ thuật. Hệ hô hấp, dung tích sống
cũng như thông khí phổi tối đa ở các em có tập luyện thể thao đều cao hơn
các em không tập luyện ở cùng lứa tuổi. Trong hoạt động thể lực, thông khí
phổi của các em tăng lên chủ yếu là tăng tần số hô hấp chứ không phải độ sâu
hô hấp, nên hấp thụ tối đa (VO2 max) của các em thấp hơn so với người lớn,

nhưng lại cao hơn so với các em cùng lứa tuổi không tập thể thao.


×