TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Khoa gi¸O dơC thĨ chÊT
---------------
KHỐ LUẬN TỐT NGHIP
LựA chọN mộT số bàI tậP nhằM khắC phụC
nhữNG sai lầM thƯờNG mắC trong học kỹ thuậT
nhảY cao kiểU nằM nghiêNg cho họC sinh
lớP 10 thpt nguyễN du hà tĩNH
Ngành : điền kinh
Giáo viên hớng dẫn: TH.S Nguyễn quốc đảng
Sinh viên thực hiện : lê xuân cảnh
Vinh, 2011
LờI CảM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giảng viên Th.s
Nguyễn Quc ng ngời hớng dẫn chỉ đạo giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp cuối khóa này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa GDTC, khoa
GDQP trờng Đại học Vinh, cùng các bạn sinh viên K48 GDQP đà tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Và qua đây tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp đà động
viên khích lệ giúp đỡ tận tình cho tôi trong quá trình nghiên cứu, thu thập xử
lý số liệu của đề tài.
Dù đà cố gắng hết sức mình nhng điều kiện về thời gian cũng nh trình
độ còn hạn chế, đề tài mới chỉ bớc đầu nghiên cứu trong phạm vi hẹp nên
không tránh khỏi những sai sót nhất định. Vậy rất mong đợc sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô cùng các bạn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05/ 2011
Lờ Xuõn Cnh
Mơc lơc
Trang
Khoa gi¸O dơC thĨ chÊT ..................................................................................1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH..............................................................................1
s
: Giây.....................................................4
́
ĐẶT VÂN ĐỀ....................................................................................................5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDTC
: Gi¸o dơc thĨ chÊt
GDQP
: Giáo dục quc phũng
NXB
: Nhà xuất bản
TDTT
: Thể dục thể thao
§C
: §èi chøng
TN
: Thùc nghiƯm
TTN
: Tríc thùc nghiƯm
STN
: Sau thùc nghiệm
nA
: Nhóm thực nghiệm
nB
: Nhóm đối chứng
VĐV
: Vận động viên
NCNN
: Nhảy cao nằm nghiêng
cm
: Centimet
m
: Một
s
: Giõy
́
ĐẶT VÂN ĐỀ
Con người và sức khỏe là hai nhân tố cấu thành một hệ thống giáo
dục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người vừa là mục tiêu giáo dục
vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội vì thế giáo dục trở thành động
lực chủ yếu của sự phát triển. Đánh giá được tầm quan trọng của công tác
giáo dục thể chất, ngày 24/03/1995 Ban Bí Thư Trung ương Đảng đã ra chỉ
thị 36 CT/TW “về công tác TDTT trong giai đoa ̣n mới” và ngày
01/08/1994 Bô ̣ giáo du ̣c và đào ta ̣o đã ra chỉ thi ̣ 36-CT/TW, dựa trên quan
điể m: “mu ̣c tiêu cơ bản lâu dài của công tác TDTT là hình thành nề n
TDTT phát triể n và tiế n bô ̣, góp phầ n nâng cao sức khỏe thể lực, đáp ứng
nhu cầ u văn hóa, tinh thầ n của nhân dân” trước mắ t là thực hiê ̣n giáo du ̣c
thể chấ t trong tấ t cả các trường ho ̣c, làm cho viê ̣c luyê ̣n tâ ̣p TDTT trở
thành nế p số ng hằ ng ngày của hầ u hế t ho ̣c sinh và toàn thể nhân dân cả
nước.
Văn kiê ̣n đa ̣i hô ̣i IX của Đảng cũng đã chỉ rõ: Giáo du ̣c và đào ta ̣o
khoa ho ̣c công nghê ̣ phải thực sự trở thành quố c sách hàng đầ u… trang bi ̣
cho thế hê ̣ trẻ đi vào thế kỷ XXI… “Sự cường tráng về thể chấ t là nhu cầ u
của bản thân con người, đồ ng thời là vố n quý để ta ̣o ra tài sản trí tuê ̣ và vâ ̣t
chấ t cho xã hô ̣i, chăm lo cho con người về thể chấ t là trách nhiê ̣m của toàn
xã hô ̣i, của các cấ p, các ngành, các đoàn thể ”.
Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lơ ̣i ích mười năm trồ ng cây, vì lơ ̣i
ích trăm năm trồ ng người”. Nâng cao sức khỏe con người là vấ n đề trọng
tâm của mo ̣i quố c gia, ở Viê ̣t Nam nói riêng và tấ t cả các nước trên thế giới
nói chung. Vì vâ ̣y Bác Hồ , Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi tro ̣ng đế n viê ̣c
phát triể n thể chấ t của con người Viê ̣t Nam, đă ̣c biê ̣t là các tầ ng lớp nhân
dân trong xã hô ̣i và thế hê ̣ trẻ.
Trong thời đa ̣i ngày nay, giáo du ̣c thể chấ t trở thành mô ̣t yế u tố quan
tro ̣ng nhằ m đào ta ̣o con người phát triể n toàn diê ̣n. Vấ n đề đă ̣t ra đố i với
ngành TDTT cũng như ngành giáo du ̣c nước ta là phải làm sao để nâng cao
chấ t lươ ̣ng giáo du ̣c thể chấ t trong nhà trường và để đáp ứng tình hình phát
triể n TDTT đế n năm 2015, Đảng đã xác đinh phương hướng, nhiê ̣m vu ̣
̣
phát triể n của TDTT là: “Đẩ y ma ̣nh hoa ̣t đô ̣ng TDTT nâng cao thể tra ̣ng
tầ m vóc của người Viê ̣t Nam, phát triể n phong trào TDTT quầ n chúng với
ma ̣ng cơ sở rô ̣ng khắ p, đào ta ̣o bồ i dưỡng đô ̣i ngũ vâ ̣n đô ̣ng viên thành tích
́
cao đưa thể thao Viê ̣t Nam lên trình đô ̣ chung trong khu vưc Đông Nam A
̣
và có vi ̣trí cao trên trường quốc tế”.
Điề n kinh giữ vi ̣ trí chủ yế u trong chương trình giáo du ̣c thể chấ t ở
trong nhà trường. Phong trào tâ ̣p luyê ̣n và thi đấ u các môn điề n kinh ngày
mô ̣t gia tăng và đã đa ̣t đươ ̣c mô ̣t số kế t quả đáng khích lê ̣ trên đấ u trường
quố c tế cũng như khu vực, điền kinh là một trong những môn thể thao rất
gần gũi với hoạt động hàng ngày của con người, nó bắt nguồn từ các hoạt
động của con người như lao động và chiến đấu, nên đã thu hút được rất
nhiều người tham gia tập luyện. Tập luyện điền kinh không những nâng
cao sức khỏe cho người tập mà còn là cơ sở để phát triển các tố chất như:
nhanh- mạnh- bền- khéo léo.
Bộ môn điền kinh gồm nhiều mơn, trong đó mơn nhảy cao kiểu nằm
nghiêng là mơn khơng thể thiếu được trong chương trình học thể dục ở các
trường THPT. Để có sự tập luyện và tiếp thu kỹ thuật một cách tốt nhất thì
giáo viên, huấn luyện viên phải biết tìm ra những sai lầm thường mắc,
nguyên nhân dẫn đến những sai lầm đó, có như vậy mới xây dựng được
những bài tập để khắc phục việc giảng dạy điền kinh ở các trường THPT
trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, phương tiện tập luyện cịn
thơ sơ đơn giản, học sinh chưa có tính tự giác cao đã làm hạn chế một phần
đến sự phát triển thể chất, thành tích học tập của các em,đặc biệt là những
sai lầm những sai lầm đó mà khơng phát hiện và sửa chữa kịp thời sẽ dẫn
đến những cố tật khó sửa và ảnh hưởngđến thành tích sau này. Vì vậy, vấn
đề đặt ra cho chúng tôi là nghiên cứu và đưa ra một số bài tập nhằm khắc
phục những sai lầm thường mắc cho các em nhằm nâng cao thành tích
nhảy cao kiểu nằm nghiêng trong chương trình giảng dạy.
Xuất phát từ những mục đích trên và để làm phong phú nâng cao
chất lượng giảng dạy môn nhảy cao, tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài:
“Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường
mắc trong học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho nam học sinh lớp 10
THPT Nguyễn Du – Hà Tĩnh”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và tực tiễn, qua quá trình sử dụng các
phương pháp khoa học đề tài nghiên cứu với 2 mục tiêu:
1. Thực trạng những sai lầm thường mắc và nguyên nhân dẫn
đến sai lầm khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng.
2. Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm
thường mắc trong học tập kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm giải phẫu sinh lý lứa tuổi trung học phổ thông.
Lứa tuổi trung học phổ thông là lứa tuổi đầu thanh niên, là thời kỳ
đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn
kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn. Có nghĩa là ở lứa tuổi này
cơ thể các em đang phát triển mạnh, khả năng hoạt động của các cơ quan
và các bộ phận cơ thể được nâng cao. Cụ thể là :
* Hệ vận động.
- Hệ xương: Ở lứa tuổi này phát triển một cách đột ngột về chiều
dài, độ dày, đàn tính xương giãn, độ giảm xương do hàm lượng Magie,
photpho, canxi trong xương tăng. Quá trình cốt hóa xương ở các bộ phận
chưa hồn tất. Chỉ xuất hiện ở một số bộ phận cơ ( cột xương sống ). Các
tổ chức sụn được thay thế bằng mô xương nên cùng với sự phát triển chiều
dài của xương cột sống thì khoảng cách biến đổi của cột sống khơng giảm
mà trái lại tăng lên có xu hướng cong vẹo. Vì vậy trong quá trình giảng dạy
cần tránh cho học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng tải quá nặng và các
hoạt động gây chấn động quá mạnh.
- Hệ cơ: Ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh để
đi đến hoàn thiện, nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ
xương. Cơ to phát triển nhanh hơn so với cơ nhỏ, cơ chi trên phát triển
nhanh hơn so với cơ chi dưới. Khối lượng cơ tăng lên rất nhanh, đàn tính
cơ tăng lên khơng đều, chủ yếu nhỏ và dài. Do vậy khi cơ hoạt động dẫn
đến chóng mệt mỏi. Vì vậy khi tập luyện giáo viên giảng dạy cần chú ý
phát triển cơ bắp cho các em.
* Hệ thần kinh.
Ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh trung ương đã khá hồn thiện,
hoạt động phân tích trên võ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn. Khả
năng nhận hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động vận động
được nâng cao. Ngay từ tuổi thiếu niên đã diễn ra quá trình hồn thiện cơ
quan phân tích và những chức năng vận động quan trọng nhất, nhất là các
cảm giác bản thể trong điều kiện động tác. Ở lứa tuổi này học sinh không
chỉ học các học phần động tác đơn lẻ như trước ( chạy, nhảy, bật, bay và
chạm đất khi nhảy, ném tại chỗ và có đà….) mà chủ yếu là từng bước hoàn
thiện những phần đã học trước thành các liên hợp động tác tương đối hoàn
chỉnh, ở các điều kiện khác nhau, phù hợp với từng đặc điểm của học sinh.
Vì vậy khi giảng dạy cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận dụng các
hình thức trị chơi, thi đấu để hoàn thành tốt những bài tập đã đề ra.
* Hệ hô hấp.
Ở lứa tuổi này phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều,
khung ngực còn nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và nông, không có sự ổn
định của dung tích sống, khơng khí, đó chính là ngun nhân làm cho tần
số hơ hấp của các em tăng cao khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu
ơxy, dẫn đến mệt mỏi.
* Hệ tuần hồn.
Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển mạnh để kịp
thời phát triển toàn thân, tim lớn hơn, khả năng co bóp của cơ tim phát
triển, do đó nâng cao khá rõ lưu lượng máu/ phút. Mạch lúc bình thường
chậm hơn ( tiết kiệm hơn), nhưng khi vận động căng thì tần số nhanh hơn.
Phản ứng của tim đối với các lượng vận động thể lực đã khá chính xác, tim
trở nên dẻo dai hơn.
Từ những đặc điểm tâm lý để lựa chọn một số bài tập bổ trợ trên căn
bản khối lượng, cường độ phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông, đặc biệt khi áp dụng các bài tập bổ trợ cần căn cứ vào đặc điểm thể
lực phù hợp với khối lượng vận động. Đồng thời điều chỉnh thời gian tập
luyện cho phù hợp tâm sinh lý của học sinh để cho quá trình giảng dạy đạt
kết quả cao, giúp cho học sinh trở thành con người phát triển toàn diện về
thể chất, tinh thần. Đồng thời nâng cao kết quả học tập và phần nào lôi
cuốn các em hăng say tham gia tập luyện và thi đấu ở trường phổ thông
1.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi trung học phổ thơng.
Ở lứa tuổi này q trình tăng trưởng cơ thể của các em chưa kết
thúc. Mặc dù hoạt động thần kinh cao cấp của các em đã đến lúc phát triển
cao, nhưng ở một số em phần nào hưng phấn cũng mạnh hơn ức chế, dễ có
những phản ứng thiếu kìm hãm cần thiết, do đó dễ làm rối loạn sự phối
hợp vận động. Tính tình, trạng thái tâm lý ở lứa tuổi này cũng hay thay đổi
có lúc rất tích cực, hăng hái, nhưng có lúc lại buồn chán tiêu cực. Ở tuổi
này các em còn hay đánh giá quá cao năng lực của mình, mới chạy bao giờ
cũng dốc hết sức ngay, mới tập tạ bao giờ cũng muốn cử tạ nặng ngay, các
em thường ít chú ý khởi động đầy đủ, như thế rất dễ tốn sức, hay xảy ra
chấn thương và chính điều đó đôi lúc làm ảnh hưởng không tốt trong tập
luyện thể dục thể thao.
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác – Lênin thừa nhận, sự
phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Đó là q trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng. Sự phát
triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất những
cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định. Như vậy, sự phát
triển tâm lý của con người gắn liền với sự hoạt động của con người trong
đời sống thực tiễn phụ thuộc chủ yếu vào một dạng hoạt động chủ đạo.
Vì vậy, khi tiến hành công tác giáo dục thể chất cho các em ở lứa
tuổi này không chỉ yêu cầu học sinh thực hiện đúng, nhanh những bài tập
dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của giáo viên mà còn phải chú ý, uốn nắn, luôn
nhắc nhở và chỉ đạo, định hướng và động viên các em hoàn thành nhiệm
vụ, kèm theo khen thưởng để có sự khuyến khích động viên, nói cách khác
phải dạy các em biết cách học, tự rèn luyện thân thể.
Bên cạnh đó trong q trình giảng dạy, giáo viên cần phải động
viên, khuyến khích các em học kém, cịn tiếp thu chậm, phải khuyến khích
hướng dẫn các em tập luyện tốt, lấy động viên thuyết phục là phương pháp
chính, chứ khơng phải là gị ép, đe dọa. Qua đó tạo được hứng thú trong
tập luyện để tạo nên sự phát triển cân đối với từng học sinh và góp phần
giáo dục cho các em thành người có tính kiên cường, biết tự kiềm chế và
có ý chí.
1.3. Cơ sở lý luận của giảng dạy kỹ thuật động tác
Giảng dạy kỹ thuật thể thao kỹ thuật toàn bộ tất cả các biện pháp có
mục đích, có tổ chức nhằm làm cho học sinh có khả năng tiến hành các
động tác thể thao bằng một kỹ thuật được nắm vững một cách có phối hợp
và thích hợp.
Kỹ thuật các mơn thể thao nói chung cũng như kỹ thuật các mơn điền
kinh nói riêng là hệ thống chun mơn của các động tác tiến hành đồng thời và
tuần tự theo phương hướng tổ chức hợp lý hoạt động tương hỗ giữa lực bên trong
và bên ngồi với mục đích tận dụng đầy đủ và hiệu quả những lực ấy để đạt thành
tích cao. Như vậy nắm vững kỹ thuật mơn điền kinh trước hết cần nắm cách dùng
lực chính xác dẫn tới sự duy chuyển hợp lý trong không gian, thời gian của cơ thể.
Nghiên cứu kỹ thuật môn điền kinh cần phải dựa vào nguyên lý kỹ thuật chung cơ
bản cơ bản hơn là phải dựa vào nguyên lý lực học và đặc điểm bản thân để tìm
phương pháp thực hiện hợp lý nhất, hiệu quả nhất cho học sinh.
Cơ sở sinh lý của nắm vững kỹ thuật là kết quả lặp lại nhiều lần tạo ra
đường liên hệ tạm thời và hình thành phản xạ có điều kiện.
Q trình của hệ thần kinh tạo điều kiện hồn thành những động tác
theo yêu cầu đã đề ra, hình thành thói quen.
Từ cơ sở lý luận giảng dạy kỹ thuật động tác phân chia thành 3 giai
đoạn tương ứng với 3 giai đoạn hình thành kỹ năng kỹ xảo vận động.
- Giai đoạn giảng dạy ban đầu:
Mục đích của giai đoạn này là dạy học các nguyên lý kỹ thuật động tác,
hình thành kỹ năng thực hiện nó, để đạt được mục đích trên cần phải giải quyết
các nhiệm vụ sau:
+ Tạo khái niệm chung về động tác và tư thế tâm thu tốt để tiếp thu kỹ
thuật động tác.
+ Ngăn ngừa và loại trừ những cử động không cần thiết.
+ Hình thành nhịp điệu chung của động tác.
- Giai đoạn giảng dạy đi sâu chi tiết:
Mục đích giảng dạy của giai đoạn này là đưa trình độ tiếp thu ban đầu
cịn “thơ thiển” đối với kỹ thuật động tác lên mức tương đối hồn thiện. Nếu ban
đầu cịn chủ yếu tiếp thu cơ sở kỹ thuật thì ở giai đoạn này phải tiếp thu chi tiết kỹ
thuật đó. Nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này:
+ Cần có sự chính xác hóa kỹ thuật động tác theo các đặc tính khơng
gian, thời gian, nhiều động lực của nó sao cho tương ứng với đặc điểm người tập.
+ Hoàn thiện nhịp điệu động tác, thực hiện nhịp điệu động tác tự nhiên,
liên tục.
+ Tạo điều kiện để thực hiện động tác biến dạng.
- Giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật:
Mục đích của giai đoạn này là đã đảm bảo cho người tập tiếp thu và vận
dụng các động tác hoàn thiện trong thực tế. Nhiệm vụ của giai đoạn này là:
+ Củng cố kỹ xảo đã có về kỹ thuật động tác.
+ Mở rộng biến dạng các kỹ thuật động tác để có thể thực hiện nó hợp lý
trong các điều kiện khác nhau, lúc nào cũng phải biểu hiện các tố chất thể lực ở
mức độ cao.
+ Hoàn thiện sự cá biệt hóa kỹ thuật động tác cho phù hợp với đặc điểm
năng lực cá nhân.
Tóm lại: Trong quá trình giảng dạy kỹ thuật động tác phải chú ý đến kỹ
thuật động tác để lựa chọn các bài tập và sử dụng các phương pháp giảng dạy
động tác. Việc lựa chọn các bài tập cũng như việc sử dụng các phương pháp giảng
dạy phù hợp với đặc điểm người tập thì giảng dạy mang lại hiệu quả cao.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu có liên quan
Phương pháp này chúng tơi đã sử dụng trong q trình nghiên cứu nhằm
mục đích thu thập thơng tin qua đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu các tài liệu liên
quan như: Sách lý luận và phương pháp giáo dục thể chất, Sinh lý học TDTT, Sách
giáo khoa điền kinh, Sách phương pháp nghiên cứu KHTDTT, Các tài liệu nói về
các bài tập mơn nhảy cao. Tham khảo kết hợp ghi chép các vấn đề có liên quan để
có thể đưa ra các kết luận quan trọng và bổ ích phục vụ cho hướng nghiên cứu. Nó
giúp ích rất lớn cho bản thân để đề ra phương hướng nghiên cứu cũng như các cơ
sở khoa học về việc giải quyết các vấn đề một cách khoa học.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Đây là phương pháp để thu thập thơng tin cần thiết có tính sát thực
với thực tiễn tập luyện, bằng cách trao đổi, phỏng vấn, tọa đàm trực tiếp
hoặc gián tiếp giữa nhà chun mơn với cá nhân, các thầy cơ giáo có
chun môn, kinh nghiệm về các vấn đề nhà nghiên cứu quan tâm.
2.1.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát là phương pháp tự giác có mục đích một hiện tượng giáo
dục nào đó, để thu thập những thơng tin, số liệu, tài liệu, sự kiện cụ thể đặc
trưng cho quá trình biểu diễn của hiện tượng đó.
Vì vậy việc sử dụng phương pháp quan sát sư phạm hàng ngày để
thu thập những thông tin, chỉ số, những sự kiện diễn ra trên cơ thể người
tập dưới tác động của bài tập. Nhằm đưa ra những biện pháp giáp dục một
cách nhanh chóng, phù hợp, kịp thời và đạt kết quả cao.
2.1.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được tiến hành theo phương pháp thực nghiệm so
sánh song song. Trong q trình nghiên cứu chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm
20 người có cùng lứa tuổi, cùng giới tính, cùng thời gian tập luyện 2
buổi/tuần, mỗi buổi 20 phút, thời gian tập trong 8 tuần = 16 buổi.
2.1.5. Phương pháp sử dụng test kiểm tra
Đây là phương pháp sử dụng các bài tập đánh giá sức mạnh bột phát
đã được thừa nhận trong thể dục thể thao mà các nhà nghiên cứu khoa học
sử dụng thành công, hiệu quả để đánh giá thành tích của người tập.
Trong khi nghiên cứu những sai lầm thường mắc của nam học sinh lớp
10, trường THPT Nguyễn Du (Nghi Xuân – Hà Tĩnh) chúng tôi sử dụng các
bài tập được thừa nhận trong thực tế TDTT. Bao gồm các test sau:
- Chạy 30m xuất phát cao.
- Bật xa tại chỗ.
- Kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng.
2.1.6. Phương pháp toán thống kê
Các số liệu thu được kể cả nhóm thực hiện và nhóm đối chứng cũng như
việc kiểm chứng kết quả lựa chọn các nguyên tắc xây dựng bài tập. Chúng tôi sử
dụng phương pháp tốn học thống kê để đánh giá chính xá số liệu liên quan. Từ
đó kiểm chứng lại và đưa ra kết luận tránh được tính chủ quan trong quá trình
nghiên cứu và làm tăng thêm độ tin cậy cho quá trình nghiên cứu.
Để xử lý kết quả nghiên cứu, trong đề tài này chúng tôi sử dụng các
công thức tốn học thống kê sau:
- Cơng thức tính giá trị trung bình:
n
X =
∑X
i =1
n
i
Trong đó: X : giá trị trung bình cộng
X i : giá trị thành tích từng cá thể
n: tổng số lượng cá thể.
n
- Cơng thức tính phương sai ( δ x 2 ):
δ x2 =
∑(X
i =1
i
− X )2
( n ≤ 30 )
n −1
- Cơng thức tính độ lệch chuẩn ( δ x ):
( δ x )= δ x 2
- Công thức hệ số biến sai ( Cv ) :
( Cv ) =
t=
- Công thức so sánh hai số trung bình:
δ x.100%
X
X A −X B
2
δA
nA
+
2
δB
nB
Vì n <30 nên ta thay thế δ 2 A và δ 2 B bằng một phương sai chung cho
hai mẫu:
δx
2
∑( X
=
− X A ) + ∑( Xi − X B )
2
i
2
n A + nB − 2
Dựa vào giá trị t quan sát để tìm trong bảng t ngưỡng xác suất P ứng
với độ tự do.
+ Nếu |t| tìm ra > t (bảng) thì sự khác biệt khơng có ý nghĩa ở
ngưỡng P<5%.
+ Nếu |t| tìm ra < t (bảng) thì sự khác biệt có ý nghĩa ở ngưỡng
P=5%.
2.2 Tổ chức nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu từ ngày 10/11/2010 đến ngày
20/05/2011
Giai đoạn 1: Từ ngày 10/11/2010 đến ngày 30/01/2011 đọc tài liệu,
tổng hợp, phân tích tài liệu và xây dựng đề cương.
Giai đoạn 2: Từ ngày 30/01/2011 đến ngày 30/04/2011 thu thập, tính
tốn xử lý số liệu và phân tích các số liệu thu được, giải quyết các mục tiêu
nghiên cứu.
Giai đoạn 3: Từ ngày 30/04/2011 đến ngày 20/05/2011 hoàn thành
luận văn.
2.2.2. Đối tượng nghiên cứu
Nam học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Du- Hà Tĩnh.
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tại trường Đại học Vinh và trường THPT Nguyễn DuHà Tĩnh.
CHƯƠNG 3: KÕT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng những sai lầm thường mắc và nguyên nhân dẫn
đến sai lầm khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng.
3.1.1. Nguyên lý kỹ thuật.
Để tìm ra những sai lầm thường mắc và nguyên nhân dẫn tới những
sai lầm đó, phải nắm vững được các yếu lĩnh của kỹ thuật nhảy cao kiểu
nằm nghiêng. Đây là một kỹ thuật phức tạp và khó i vi ngi tp.
Theo cơ học, độ cao của một vật đợc bắn trong không gian hợp với
mặt phẳng nằm ngang một góc . Đợc tính theo công thức:
V02 sin 2
H=
2g
Trong đó: V0: Tốc độ bay ban đầu
: Góc độ bay
g : Gia tốc rơi tự do
H: Độ cao
Trong thực tế môn nhảy cao, để đa cơ thể vợt qua xà ở mức độ nào đó
thì độ cao của trọng tâm cơ thể đợc tính theo công thức trên. Qua công thức
trên, ta thấy độ cao của tổng trọng tâm cơ thể tỷ lệ thuận với độ lớn của giá
trị V0 và sin2 và tỷ lệ nghịch của gia tốc rơi tự do g ( g là hằng số không
đổi) cho nên hai yếu tố V0 và quyết định trọng tâm cơ thể khi bay, độ cao
này quyết định đến thành tích lần nhảy. Ngoài ra độ cao của trọng tâm cơ thể
khi bay còn phụ thuộc vào độ cao của trọng tâm cơ thể trớc khi bay dẫn đến
sự thay đổi của trọng tâm cơ thể khi bay. Độ cao đó đợc tính theo công thức
sau:
V02 sin 2
H=
+ h0
2g
h0: Độ cao trọng tâm c¬ thĨ tríc khi bay
Do đó khi chọn VĐV nhảy cao, phải xét về mặt di truyền, giải phu
cơ thể của VĐV l bớc đầu, họ càng cao thì càng có lợi cho thành tích lần
nhảy bởi vì h0 là cái có sẵn của VĐV. Nếu cùng một chiều cao h0 đó mà
VĐV vận dụng V0 và sin2 kém thì thành tích lần nhảy thấp.
Nh vậy, trong nhảy cao các yếu tố V0 và , độ cao của trọng tâm cơ
thể trớc khi bay là yếu tố ảnh hởng đến độ cao của tổng trọng tâm cơ thể khi
bay. Song hai yếu tố tốc độ bay ban đầu và góc bay ban đầu là hai yếu tố
quyết định đến độ cao của quỹ đạo bay trọng tâm cơ thể cũng nh quyết định
đến thành tích lần nhảy. Trong bốn giai đoạn của kỹ thuật nhảy cao thì giai
đoạn giậm nhảy đóng vai trò quan trọng nhất quyết định đến thành tích lần
nhảy.
Trên đây là những cơ sở khoa học để chúng tôi đi sâu hơn và có phơng
pháp nghiên cứu triệt để trong quá trình nghiên cứu đề tài.
3.1.2. K thut nhy cao kiểu nằm nghiêng.
Kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng gồm 4 giai đoạn :
Giai đoạn 1: Giai đoạn chạy đà.
Giai đoạn 1: Giai đoạn giậm nhảy.
Giai đoạn 1: Giai đoạn trên không.
Giai đoạn 1: Giai đoạn tiếp đất.
a) Giai đoạn 1: Giai đoạn chạy đà.
Đối với học sinh THPT, nên chạy đà khoảng 6 - 10 bước (bước
chẵn) hoặc 7 - 11 bước (bước lẻ). Mỗi bước tương đương độ dài của 5 - 6
bàn chân nối tiếp nhau. Góc chạy đà chếch với xà khoảng 30 – 40 0. Giậm
nhảy chân phải, đứng phía bên phải của xà theo chiều nhìn vào xà và
ngược lại.
Kỹ thuật chạy đà gồm: Tư thế chuẩn bị và chạy đà
- Tư thế chuẩn bị:
Cách thứ nhất : Đứng chân trước chân sau, chân lăng trước (bước lẻ)
hoặc chân giậm trước (bước chẵn), mũi bàn chân trước sát vạch xuất phát.
Hai chân chạm đất bằng nửa trước bàn chân và khuỵu gối (chân sau khuỵu
nhiều hơn chân trước), trọng tâm dồn vào chân trước. Thân hơi ngã ra
trước, hai tay buông tự nhiên hoặc hơi co, mắt nhìn xà hoặc mặt đất phía
trước cách vạch xuất phát chạy đà khoảng 2 – 3 m. Trước khi chạy đà có
thể ngả thân trên nhiều ra trước, sau đó ra sau, rồi lại ngả ra trước và tiến
hành bước chạy đà đầu tiên.
Cách thứ hai: Đứng hai chân song song sát vạch xuất phát.
Cách thứ ba: Đi vài bước đến vạch xuất phát chạy đà, sau đó bắt đầu
chạy đà.
Dù ở bất kỳ tư thế chuẩn bị nào cũng khơng nên để cơ thể gị bó,
căng thẳng mà cần tự nhiên, thả lỏng và tập trung chú ý.
- Chạy đà:
Gồm hai phần:
Phần một: Từ lúc xuất phát đến trước ba bước đà cuối, độ dài và tốc
độ bước chạy tăng dần, độ ngả của thân giảm dần.
Phần hai: Gồm ba bước cuối trước khi giậm nhảy. Nhiệm vụ của
phần chạy đà này là duy trì tốc độ đã đạt được và chuẩn bị giậm nhảy, sao
cho đạt hiệu quả cao nhất. Ở đây độ dài, nhịp điệu các bước chạy, tư thế
của thân người, của bàn chân cũng như hai tay có tầm quan trọng đặc biệt.
Cụ thể:
Bước thứ nhất: Chân giậm nhảy bước ra trước nhanh hơn bước trước
đó, chạm đất bằng gót bàn chân, tiếp theo đưa nhanh chân lăng ra trước để
thực hiện bước thứ hai.
Bước thứ hai: Bước này dài nhất trong ba bước đà cuối, chân chạm
đất (Chân đá lăng) hơi miết bàn chân xuống dưới – ra sau, giữ thẳng không
ngả vai ra sau trước khi kết thúc thời kì chống tựa. Bàn chân khi chạm đất
cần thẳng hướng chạy đà, tránh đặt lệch.
Bước thứ ba: Đây là bước đặt chân vào điểm giậm nhảy. Bước này
ngắn hơn hai bước trước một chút, nhưng cần thực hiện rất nhanh. Khi đặt
chân vào điểm giậm nhảy, chân gần như thẳng từ gót chân rồi cả bàn chân,
chân lăng co ở phía sau, thân và hai vai hơi ngả ra sau, đầu và cổ không
ngả theo mà hướng mặt về trước, hai tay phối hợp tự nhiên hoặc hơi co, hai
khuỷu hướng ra sau.
b) Giai đoạn giậm nhảy.
Sau khi đặt chân vào điểm giậm nhảy, chân giậm nhảy hơi chùng ở
gối tạo thế co cơ, sau đó dùng sức để giậm nhảy. Khi đá lăng chân ra trước
cần chủ động dùng sức của đùi và độ linh hoạt của khớp hông đá chân lên
cao. Hai tay phối hợp gần như đồng thời với chân lăng, đánh hơi vòng
xuống dưới – lên cao, khi hai khuỷu tay đến ngang vai thì dừng lại để tạo
thế nâng người lên.
Giậm nhảy là giai đoạn quan trọng nhất trong nhảy cao. Sự phối hợp
chính xác, nhịp nhàng giữa giậm nhảy, đá lăng và đánh tay với tốc độ di
chuyển của cơ thể là yếu tố quyết định hiệu quả giậm nhảy.
c) Giai đoạn trên không.
Giai đoạn trên không bắt đầu từ khi chân giậm nhảy rời khỏi mặt
đất. Tiếp theo, co nhanh chân giậm nhảy, đồng thời xoay mũi chân đá lăng
về phía xà tạo cho thân người nằm nghiêng so với xà (Chân giậm nhảy co
phía dưới, chân đá lăng thẳng về phía trên, giống như tư thế khi ta nằm
nghiêng, hai tay phối hợp khéo léo để qua xà).
d) Giai đoạn tiếp đất.
Sau khi qua xà, chân giậm nhảy duỗi nhanh để chủ động tiếp đất, tay
cùng bên với chân giậm nhảy hoặc cả hai tay duỗi ra để hỗ trợ và giữ thăng
bằng. Khi chân giậm nhảy bắt đầu tiếp đất cần chủ động chùng chân để
giảm chấn động. Lúc này có thể phối hợp chống hai tay và đưa chân lăng
chạm đất.
3.1.3. Các phương pháp giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy nói chung cũng như giảng dạy kỹ thuật
mơn điền kinh nói riêng thì người giáo viên đều phải vận dụng các phương
pháp và phương tiện chuyên môn để truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho
người học. Do tính chất phức tạp và phong phú của kỹ thuật điền kinh, việc
xây dựng và hình thành các phương pháp giảng dạy được dựa trên những
kỹ thuật tự nhiên của con người. Trong đó quan trọng hơn cả quy luật hình
thành định hình động lực trong quá trình giảng dạy kỹ thuật. Vì vậy, chúng
tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp giảng giải:
Giảng giải là phương pháp người dạy sử dụng lời nói để diễn đạt nội
dung thơng tin, phân tích từng chi tiết hay tồn bộ kỹ thuật động tác nhằm
giúp cho người học tiếp thu đầy đủ, hiểu rõ nội dung và nắm được phương
pháp kỹ thuật đó.
- Phương pháp trực quan:
Trực quan là phương pháp người dạy trực tiếp làm mẫu hoặc
dùng phim, tranh ảnh để diễn đạt nội dung thông tin cho người tập hiểu rõ
từng kỹ thuật động tác, đặc biệt là những động tác khó.
- Phương pháp giúp đỡ trực tiếp:
Trực tiếp là phương pháp giúp đỡ, mà người dạy trực tiếp tác
động vào người học giúp cho người học có cảm giác về cơ bắp, về không
gian và nhịp điệu động tác. Phương pháp này sử dụng nhiều trong giai
đoạn đầu, khi học sinh chưa thể làm được toàn bộ động tác một cách chính
xác hoặc chưa có cảm giác về khơng gian và dùng lực khi thực hiện động
tác.
- Phương pháp giảng dạy phân chia:
Đối với những động tác khó, phức tạp chúng tôi sử dụng phương
pháp phân chia để giảng dạy, mục đích giúp các em tiếp thu từng chi tiết
kỹ thuật động tác.
- Phương pháp giảng dạy toàn bộ:
Cho các em thực hiện tồn bộ kỹ thuật động tác của mơn nhảy
cao kiểu nằm nghiêng vì như vậy sẽ tạo cho các em thực hiện có tính liên
tục khơng ảnh hưởng đến tính nhịp điệu của động tác.
Giữa hai phương pháp trên, tôi đã phối hợp một cách nhịp nhàng
để giúp các em tiếp thu kỹ thuật một cách tốt nhất, đạt chất lượng cao.
3.1.4. Thực trạng những sai lầm thường mắc khi học kỹ thuật
nhảy cao kiểu nằm nghiêng và nguyên nhân dẫn đến sai lầm đó.
Nhảy cao kiểu nằm nghiêng được xem là một kỹ thuật tương đối
phức tạp, độ khó của nó thể hiện ở chỗ địi hỏi người thực hiện phải đảm
bảo độ chính xác cao. Trong quá trình học sinh học kỹ thuật thường mắc
phải các sai lầm khác nhau do nhiều nguyên nhân gây nên, ở mỗi giai đoạn
khác nhau thì người tập dễ mắc phải những sai lầm đó. Để hiểu rõ những
sai lầm và nguyên nhân dẫn đến các sai lầm trong quá trình học kỹ thuật
nhảy cao kiểu nằm nghiêng , chúng tôi đã đọc tài liệu chuyên môn , trao
đổi một số ý kiến của các thầy cơ giáo có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm
và bằng phương pháp quan sát sư phạm trên 40 em học sinh ở trường
THPT Nguyễn Du, chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Sai lầm 1: Chạy đà khơng chính xác do khơng ổn định nhịp điệu
chạy đà.
Sai lầm 2: Tốc độ chạy đà chưa cao.
Sai lầm 3: Góc độ chạy đà lớn hoặc nhỏ quá so với đặc điểm bản
thân.
Sai lầm 4: Giậm nhảy không hết.
Sai lầm 5: Giậm nhảy bị lao vào xà.
Sai lầm 6: Xác định sai chân giậm nhảy.
Sai lầm 7: Khi giậm nhảy, chân lăng đá vào xà.
Sai lầm 8: Chân lăng cong.
Sai lầm 9: Tư thế trên không chưa gọn.
Sai lầm 10: Không ép được vai.
Sai lầm 11: Thân trên cao thu chân giậm chậm không gọn.
Sai lầm 12: Khơng tích cực đưa nhanh một bộ phận cơ thể xuống
chạm đất sớm.
Sai lầm 13: Thân không nghiêng khi qua xà.
Sai lầm 14: Chân đá lăng chạm đất trước.
Sai lầm 15: Không chùng chân để giảm chấn động, do chân giậm
nhảy không duỗi kịp thời khi qua xà.
Bảng 3.1: Kết quả quan sát sư phạm của 40 em học sinh nam lớp
10 khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng
Số HS
Tên sai lầm
mắc sai
lầm
Tỷ lệ (tỷ
lệ %)
Sai lầm 1: Chạy đà khơng chính xác do
khơng ổn định nhịp điệu chạy đà.
Sai lầm 2: Tốc độ chạy đà chưa cao.
Sai lầm 3: Góc độ chạy đà lớn hoặc nhỏ quá
35
19
87,5
47,5
so với đặc điểm bản thân.
Sai lầm 4: Giậm nhảy không hết.
Sai lầm 5: Giậm nhảy bị lao vào xà.
31
32
30
77,5
80
75
Sai lầm 6: Xác định sai chân giậm nhảy.
Sai lầm 7: Khi giậm nhảy, chân lăng đá
37
92,5
vào xà
Sai lầm 8: Chân lăng cong.
Sai lầm 9: Tư thế trên không chưa gọn.
Sai lầm 10: Không ép được vai.
Sai lầm 11: Thân trên cao thu chân giậm
17
34
33
35
42,5
85
82,5
87,5
chậm không gọn.
Sai lầm 12: Không tích cực đưa nhanh một
18
45
bộ phận cơ thể xuống chạm đất sớm.
Sai lầm 13: Thân không nghiêng khi qua xà.
Sai lầm 14: Chân đá lăng chạm đất trước.
Sai lầm 15: Không chùng chân để giảm chấn
36
18
16
90
45
40
động, do chân giậm nhảy không duỗi
32
88
kịp thời khi qua xà.
Qua bảng quan sát trên chúng tôi thu được số liệu như sau:
Sai lầm 1: Có 35/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 87,5%.
Sai lầm 2: Có 19/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 47,5%.
Sai lầm 3: Có 31/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 77,5%.
Sai lầm 4: Có 32/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 80%.
Sai lầm 5: Có 30/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 75%.
Sai lầm 6: Có 37/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 92,2%.
Sai lầm 7: Có 17/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 42,5%.
Sai lầm 8: Có 34/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 85%.
Sai lầm 9: Có 33/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 82.5%.
Sai lầm 10: Có 35/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 87,5%.
Sai lầm 11: Có 18/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 45%.
Sai lầm 12: Có 36/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 90%.
Sai lầm 13: Có 18/40 học sinh mắc phải chiếm tỷ lệ 45%.