Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP CHO DI cư NÔNG THÔN – THÀNH THỊ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.2 KB, 15 trang )

I.

Đặt vấn đề

Vấn đề lao động nông thôn di cư ra thành thị và các khu công nghiệp tìm
kiếm việc làm là vấn đề có tính xã hội, phụ thuộc khá lớn vào quá trình phát triển
kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Và không thể phủ nhận vai trò tích cực của làn
sóng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp (KCN) nhất
là đối với các nước kinh tế chậm phát triển khi thu nhập và điều kiện sống còn có
sự
chênh
lệch
lớn
giữa
nông
thôn

thành
thị.
Di cư là yếu tố tất yếu, là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần phân bổ lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động, giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo, là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Kinh tế phát triển, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế diễn ra nhanh chóng cùng với chính sách mở cửa, hội nhập dẫn
đến việc di cư nội địa và ra nước ngoài tăng lên. Tuy nhiên, dòng di cư nói chung,
trong đó có lao động di cư cũng là nhóm người dễ bị tổn thương và bị lạm dụng và
cũng chịu ảnh hưởng của các sự kiện trong đời sống kinh tế xã hội. Với bối cảnh
toàn cầu hoá, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới, việc tiếp cận thị
trường thế giới tác động tới các ngành công nghiệp mới và tạo việc làm cho hàng
triệu người, già và trẻ bước vào thị trường lao động mỗi năm. Di cư nông thôn
thành thị không hẳn là không tốt nếu biết cân bằng. Phát triển những tích cực ,hạn


chế tiêu cực. Từ thực trạng vấn đề nhóm nghiên cứu được nhóm có đưa ra 1 số
kiến nghị khắc phục hạn chế của vấn đề.

II.

Mục tiêu nghiên cứu

 Mô tả thực trạng di cư tại Việt Nam.
 Mô tả xu hướng của di cư trong nước trong 5 năm qua (kể từ ... ) và triển
vọng.
 Di cư với đô thị hóa.
 Nguyên nhân dẫn tới di cư.
 Các tác động của di cư đến xã hội
 Một số giải pháp, kiến nghị

III. Thực trạng và các xu hướng của di cư ở Việt Nam
1. Một số khái niệm


Di cư là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc là quá trình con
người rời bỏ hoặc hội nhập vào một đơn vị hành chính - địa lý nhất định.
Nói chung khái niệm di dân thường được các nhà nghiên cứu định nghĩa không
giống nhau. Theo tác giả Lee (1966) thì di cư là: “sự thay đổi cố định nơi cư trú”.
Còn theo Mangalam và Morgan (1968) cho rằng di cư là “sự di chuyển vĩnh
viễn tương đối của người di cư ra khỏi tập đoàn đang sống từ một đơn vị địa lý
khác”. Mặt khác, theo tác giả Paul Shaw thì “di cư là hiện tượng di chuyển khỏi tập
thể từ một địa điểm địa lý này đến một địa điểm địa lý khác, trên cơ sở quyết định
của người di cư, dựa vào một loạt các giá trị trong hệ thống các mối quan hệ qua
lại của người di cư”.
Đối với Việt Nam, di cư được định nghĩa là sự di chuyển của con người từ nơi

này đến nơi khác đó là chuyển đến một huyện khác, thành phố khác, một tỉnh khác
hay một nước khác trong một khoảng thời gian nhất định.
Di cư từ nông thôn ra thành thị là sự di chuyển của con người từ nông thôn ra
thành thị trong một khoảng thời gian nhất định (xét theo yếu tố nơi đi và nơi đến
của loại hình di cư).Các nhà kinh tế học cho rằng: di cư từ nông thôn ra thành thị là
một quá trình di chuyển của lao động từ khu vực kém phát triển hơn đến khu vực
phát triển hơn.
2. Thực trạng di cư trong thời gian qua
2.1 Số người di cư ngày càng tăng
Theo Tổng điều tra Dân số và nhà ở 1/4/2009, dân số nước ta có 85.846.997
người, tăng 11,3% so với năm 1999. Cũng theo kết quả cuộc Tổng điều tra này,
trong 5 năm, từ 2004 đến 2009, gần 7 triệu người di cư, tăng 50% so với giai đoạn
1994-1999 (Bảng 3). Năm 2013, cả nước có 1.790.374 người di cư, tăng 33% so
với trung bình giai đoạn (2004-2009)! Xét về cường độ cũng có sự gia tăng khá
mạnh. Di cư giữa các tỉnh, tăng 14 điểm phần nghìn, từ 29 người di cư/1000 dân
năm 1999 lên 43 người di cư/1000 dân năm 2009. Di cư giữa các vùng tăng từ 19
người di cư/1000 dân năm 1999 lên 30 người di cư/1000 dân năm 2009. Rõ ràng,
người di cư ngày càng nhiều và tăng mạnh hơn nhiều so với tăng dân số.
Bảng 1: Số dân di cư qua các thời kỳ ở nước ta
Thời kỳ

1984-1989

1994-1999

2004-2009

Số người di cư (nghìn người)

1.415


4.482

6.725

và nhà ở Việt Nam

Nguồn:
Tổng
điều tra
dân số


Bên cạnh đó, dân số di cư giữa các tỉnh cũng có xu hướng ngày càng gia tăng rõ
rệt. Số người di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người
năm 1999 và lên tới 3,4 triệu người năm 2009. Tỷ lệ của nhóm di cư này trong
tổng dân số cũng tăng tương ứng từ 2,5% trong năm 1989 lên 2,9% năm 1999 và
4,3% năm 2009. Những kết quả này cho thấy tỷ lệ tăng dân số di cư cao hơn tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên. Xem xét di cư ở các cấp địa giới hành chính cho thấy ở cấp
càng cao thì tỷ lệ tăng dân số di cư cũng cao hơn. Hình dưới đây cho thấy nhóm
dân số di cư giữa các tỉnh tăng mạnh mẽ nhất, di cư giữa các huyện tăng chậm hơn,
và tăng chậm nhất là trong nhóm di cư trong huyện. Mặc dù số liệu của TĐTDS
không cho biết lý do của sự khác biệt này, việc tăng thu nhập hộ gia đình, cải thiện
giao thông vận tải, tăng cơ hội học hành và thông tin phong phú hơn thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng rõ ràng đã đem lại nhiều cơ hội lựa chọn cho
người dân để di chuyển và tạo điều kiện để họ có thể di chuyển trong khoảng cách
dài hơn và vượt ra ngoài ranh giới quen thuộc của họ.
Hình 1. Tỷ lệ dân số di cư qua thời gian 1989 - 2009

Số liệu từ ba cuộc TĐTDS đã cho thấy tốc độ tăng trưởng dân số di cư trong

thập kỷ qua cao hơn tốc độ tăng trưởng dân số không di cư (Biểu 2.2). Thêm vào
đó, tỷ lệ tăng dân số di cư trong giai đoạn 1999-2009 cũng cao hơn so với giai
đoạn 1989-1999, trong khi tốc độ tăng trưởng dân số không di cư trong giai đoạn
1999-2009 thấp hơn so với giai đoạn 1989-1999. Do đó, tỷ lệ dân số di cư đã tăng
nhanh hơn trong thập kỷ vừa qua.


2.2Đặc trưng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị và các KCN ở nước ta ngày
càng trẻ hóa
Hình 2: Cơ cấu tuổi của người di cư
Theo kết quả điều tra gần đây cho thấy lao
động di cư từ nông thôn ra thành thị phần lớn
thuộc nhóm dân cư trẻ tuổi ( 18 – 30 tuổi ) và
chưa kết hôn. Tuy phần lớn số người di cư là
nam giới nhưng nữ giới lại có xu hướng di cư
trẻ hơn nam giới, tỷ lệ nữ giới di cư ở độ tuổi
dưới 25 tuổi chiếm 55,4% còn nam giới chỉ
chiếm 42,4%.
Báo cáo quá trình di cư nông thôn thành thị
của Nguyễn Thị Phương Thảo (2009) đã chỉ
rõ: “ Tuổi tác của người di cư giao động từ 12 tuổi trở lên, với giá trị trung bình là
27,2 tuổi. Trên 80% số người di cư nằm trong độ tuổi 18 – 34.”
Hình 3: Tuổi trung vị của người di cư và không di cư phân theo giới tính, 1989 - 2009

Nguồn: Tổng điều tra dân số, Tổng cục thống kê 1989 – 2009


2.3 Lao động di cư nông thôn ra thành thị những năm gần đây khá đa dạng, thuộc
nhiều lứa tuổi và điều kiện kinh tế gia đình khác nhau, trong đó có nhiều lao động
có điều kiện kinh tế gia đình khá

Nhiều kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy lao động nông thôn di cư ra thành
phố làm rất nhiều nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao động
phổ thông và giản đơn, bán hàng rong, giúp việc gia đình… Phần lớn làm việc
trong các cơ sở kinh tế tư nhân, kinh tế gia đình hay tự làm việc…. Nên tỷ lệ được
ký hợp đồng lao động thấp, hoặc có hợp động lao động thì chủ sử dụng lao động
cũng ít quan tâm đến, tránh thực hiện BHXH và các phúc lợi xã hội khác. Mặt
khác, thu nhập thấp, lao dộng nặng nhọc hay có thể mất việc bất cứ lúc nào là hiện
tượng khá phổ biến.
2.4 Dòng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và vào các KCN tìm việc làm
với nhiều hình thức và quy mô khác nhau
Đó là: Có thể đi một mình hoặc có thể đi cùng bạn bè, người thân trong gia đình,
hoặc qua các kênh tuyển dụng của công ty, doanh nghiệp. Theo số liệu điều tra có
24% người di cư ra đô thị làm việc cùng người nhà, 14.8% đi cùng những người
thân trong họ, 14,2% đi cùng bạn bè và 17% là qua các hình thức khác. Điều này
phản ánh tính kết cấu cộng đồng cao của những người di dân rất cao thông qua các
hình thức di cư theo nhóm.
Hình 4: Tỷ lệ các hình thức di cư

3. Các dòng di cư giữa nông thôn – thành thị và dự báo đến năm 2019
Người di cư đóng góp vào dân số thành thị nhiều hơn là dân số nông thôn. Kết quả
này không nằm ngoài dự đoán khi có nhiều bằng chứng cho thấy sự gia tăng bất
bình đẳng giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị với nhiều lợi thế nằm ở
khu vực thành thị. Tổng cộng, người di cư từ 5 tuổi trở lên đóng góp 3,8 triệu
người vào dân số thành thị, hay nói cách khác 16% dân số thành thị từ 5 tuổi trở
lên năm 2009 là người nhập cư trong giai đoạn 2004-2009. Cũng trong giai đoạn


đó, dân số di cư từ 5 tuổi trở lên đóng góp 2,7 triệu người vào dân số nông thôn
nhưng chỉ chiếm 5% dân số nông thôn từ 5 tuổi trở lên do dân số nông thôn chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu dân số cả nước.

Hình 5: Dòng di cư giữa khu vực thành thị và nông thôn, 1999-2009 và dự báo tới 2019

Một dự báo dân số đơn giản dựa trên tốc độ tăng trưởng dân số trung bình hàng
năm được dùng để ước tính dân số di cư của các dòng di cư đến năm 2019. Dự báo
cho thấy, dân số di cư từ nông thôn tới nông thôn sẽ có số lượng lớn nhất với 6,4
triệu người di cư vào năm 2019. Dân số di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ đạt 5
triệu người, nhiều hơn đáng kể so với dân số di cư từ thành thị đến nông thôn với
1,4 triệu người di cư vào năm 2019. Và cuối cùng, dân số di cư từ thành thị tới
thành thị sẽ tăng từ 1,7 triệu người năm 2009 lên 3 triệu người năm 2019 .


Hình 6: Tỷ lệ dân số di cư trong tổng dân số nơi đến phân theo các dòng di cư ,
1999-2009 và dự báo đến năm 2019

Tỷ lệ của tất cả các nhóm dân số dân di cư giữa nông thôn và thành thị, trừ nhóm
dân di cư ĐT-ĐT, trên tổng số dân ở nơi đến đều tăng lên trong 10 năm tới. Dòng
di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến dân số thành thị trong
khi di cư từ nông thôn tới nông thôn tiếp tục ảnh hưởng mạnh hơn đến dân số nông
thôn. Tỷ lệ dân số di cư nông thôn-nông thôn và nông thôn thành thị trong tổng dân
số tại nơi đến sẽ gia tăng nhanh hơn và tỷ lệ dân số di cư thành thị đến nông thôn
sẽ tăng chậm hơn. Dự báo cho thấy tỷ lệ dân số di cư nông thôn ra thành thị trên
tổng số dân thành thị sẽ tăng từ 8,9% năm 2009 lên 11% năm 2019, trong khi tỷ lệ
người di cư từ thành thị tới thành thị trên tổng số dân thành thị sẽ giảm từ 7,4%
năm 2009 xuống 6,7% năm 2019. Ở các vùng nông thôn, tỷ lệ người di cư từ thành
thị về nông thôn trên tổng số dân nông thôn sẽ tăng nhẹ từ 1% năm 2009 lên 1,6%
năm 2019 và tỷ lệ người di cư từ nông thôn tới nông thôn trên tổng số dân nông
thôn sẽ tăng từ 4% năm 2009 lên 7,3% năm 2019.
4. Di cư với đô thị hóa
Nhìn chung, số liệu TĐTDS năm 2009 cho thấy các tỉnh có tỷ lệ dân số đô thị cao
thì cũng có tỷ lệ dân số di cư cao. TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là những tỉnh có tỷ

lệ dân số đô thị đặc biệt cao (chiếm trên 80% dân số) và tỷ lệ dân số di cư cũng rất
cao. Hà Nội cũ trước khi hợp nhất với tỉnh Hà Tây cũng nằm trong nhóm này.


Số liệu TĐTDS cũng cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa di cư và đô thị hóa.
Bảng 2 trình bày số lượng và cơ cấu dân số di cư phân theo loại hình di cư hoặc
dòng di cư và loại đô thị trong năm 2009. Các kết quả trong Biểu này cho thấy so
với dân số di cư giữa các huyện, dân số di cư giữa các tỉnh đóng góp một phần lớn
hơn cho dân số ở tất cả các loại đô thị. Hơn nữa, khi phân tích theo loại hình di cư,
các kết quả phân tích còn cho thấy các khu vực “càng đô thị hơn” thì càng có tỷ lệ
người di cư, kể cả người di cư giữa các tỉnh lẫn giữa các huyện huyện, lớn hơn.
Các phân tích theo dòng di cư cũng cho các kết quả tương tự, các đô thị lớn hơn có
tỷ lệ người di cư cao hơn.
Bảng 2: Dân số di cư và tỷ lệ trên tổng dân số theo từng loại đô thị năm 2009

IV.

Nguyên nhân chính dẫn đến di cư:

Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự di chuyển của dân cư. Các yếu tố này thuộc
về các điều kiện tự nhiên (như khí hậu, địa hình, đất đai, tài nguyên…) hay các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và chính sách dân số của quốc gia. Sự thuận lợi
hay khó khan của các yếu tố này ở các vùng sẽ tạo nên lực hút hay lực đẩy của mỗi
vùng mà có ảnh hưởng tới sự chuyển đến hay ra đi của dân cư. Quá trình di dân
xảy ra khi có sự khác biệt nhất định giữa vùng đi và vùng đến về một số yếu tố đặc
trưng như kinh tế, việc làm, thu nhập, tài nguyên thiên nhiên và môi trường; yếu tố
dân cư và xã hội; sự thay đổi về tiến bộ kỹ thuật và công nghệ. Ngoài ra, yếu tố lực


hút và lực đẩy còn bao gồm những yếu tố cá nhân như tình trạng hôn nhân, gia

đình, thay đổi nghề nghiệp, việc làm,…; các yếu tố khác như thiết chế xã hội.
Từ những điều đó chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân chủ yếu của hiện
tượng di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị có thể đưa ra một số được giải
nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, nguyên nhân kinh tế: hầu hết các nhà kinh tế học, các nhà xã hội
học đều nhất trí rằng hiện tượng di cư của người dân từ nông thôn ra thành
thị có thể được giải thích chủ yếu bằng nguyên nhân kinh tế. Những nhân tố
này bao gồm không chỉ bởi lực đẩy quen thuộc từ nơi xuất cư như: thiếu đất
canh tác, thiếu việc làm, thu nhập thấp,… mà còn bởi lực hút từ những nơi
nhập cư: cơ hội việc làm có tính ổn định, thu nhập cao hơn so với nơi ở cũ…
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: tiền lương, thu nhập, việc làm, mức độ
thất nghiệp… đều ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định di cư của người
dân.
- Thứ hai, nguyên nhân vấn đề chất lượng cuộc sống: Những người di dân
muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn thông qua cuộc sống ở thành thị, nơi có ánh
đèn rực rỡ của thành phố, nơi đó có các phương tiện giao thông, phương tiện
thông tin đại chúng… được hiện đại hóa, nơi có hệ thống giáo dục, y tế, dịch
vụ phát triển.
- Thứ ba, nguyên nhân vấn đề về phong tục tập quán và các nhân tố xã hội
khác cũng tác động sâu sắc tới quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị, ví
dụ như những người di dân muốn thoát khỏi những ràng buộc truyền thống,
những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu ở nông thôn; vấn đề đi học của con
cái và đoàn tụ gia đình cũng là những lực hút của dòng di dân từ nông thôn
ra thành thị.
- Thứ tư, nguyên nhân về môi trường tụ nhiên đang là tác nhân và đang tác
động đến xu thế di cư. Người ta đánh giá rằng tác động lớn nhất của sự thay
đổi khí hậu đối với con người chính là việc khiến họ phải di chuyển. Điều
kiện khí hậu ven biển, hiện tượng xói mòn ven biển gia tăng và mùa màng
thất bát là nguyên nhân khiến hàng triệu người phải rời khỏi nơi cư trú của
mình. Các số liệu khoa học cho thấy sự thay đổi về khí hậu toàn cầu, Việt

Nam sẽ là một trong những nước chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất của sự
thay đổi khí hậu, trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nông
thôn, người già và trẻ em chịu sự tác động nặng nề hơn các đối tượng khác.
Di cư sẽ trở thành phương thức giúp người dân đương đầu và thích nghi với
những thay đổi này bằng cách di cư tạm thời hoặc di cư lâu dài nhằm đảm
bảo đảm sự an toàn và ổn định cuộc sống.


Lý thuyết lực hút và lực đẩy đã đưa ra quy luật chung của di dân là dân cư sẽ di
chuyển từ nơi có đời sống thấp đến nơi có đời sống cao hơn, từ vùng có điều kiện
tự nhiên kém thuận lợi đến vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Phong trào di
dân ngày càng mạnh mẽ theo sự tiến bộ ngày càng cao của xã hội. Chính sự thay
đổi về tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự hình thành các vùng trung tâm phát
triển như khu công nghiệp, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp… sẽ thu hút các
dòng dân di cư.
Cụ thể ở vùng nông thôn xa xôi thường là nơi ra đi của lực lượng lao động trẻ, bởi
vì ở đó không có các cơ hội kinh tế, lối sống buồn tẻ, ít cơ hội phát triển. Ngược
lại, các trung tâm công nghiệp, đô thị hay thành phố lớn thường là những nơi có
sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trẻ vùng nông thôn vì có nhiều cơ hội việc làm,
học tập, tiện nghi sinh hoạt và những triển vọng tương lai đầy sáng lạng… từ đó
hình thành nên luồng chuyển cư đặc trưng nông thôn - thành thị.

V. Những ảnh hưởng từ vấn đề di cư nông thôn – thành thị
1. Ảnh hưởng tích cực
Tự điều tiết thị trường lao động. Di cư tự do từ nông thôn ra thành thị góp phần
mang lại sự cân bằng về phân phối lực lượng lao động.
 Lao động dư thừa ở nông thôn chuyển ra thành thị ở các KCN- nơi có nhu
cầu lao động, đặc biệt là lao động giản đơn và nặng nhọc... 1 số điều chỉnh
và cân đối có tính tự nhiên, tự phát với thực tế phong phú, đa dạng dưới
nhiều hình thức và cấp độ khác nhau trong mối quan hệ cung cầu về lao

động.
 Giải quyết tình trạng thiếu lao động của thành phố và nhu cầu của nhiều
gia đình ở thành phố về phát triển sản xuất kinh doanh, mở các cơ sở sản
suất và dịch vụ gắn với nhu cầu việc làm của nhiều lao động nông
thôn...nhằm góp phần phát triển kinh tế và phân công lao động xã hội.
Tác động trực tiếp đến người lao động, có thêm điều kiện và cơ hội trong phát
triển.
 Người nông dân tiếp cận với xã hội đô thị và dần làm quen với lối sống đô
thị, học hỏi thêm kiến thức cần thiết phục vụ cho bản thân, cũng như sự
phát triển của gia đình.
 Áp dụng những kiến thức mới, những thành quả tiến bộ của KHCN vào
sản xuất => nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ kỹ năng của
người lao động, giảm bớt thời giam làm việc có điều kiện nghỉ ngơi.


 Nhạy bén trong tiếp cận thông tin, người nông dân năng động, linh hoạt
hơn. Áp dụng những kinh nghiệm học hỏi được, tự phát triển sản xuất tăng
thêm thu nhập,cải thiện điều kiện sinh hoạt cũng như truyền đạt lại kinh
nghiệm cho các thành viên trong cộng đồng.
 Khẳng định vai trò của di cư nông thôn- thành thị đối với sự phát triển
kinh tế hộ gia đình. Giảm bớt lao động dư thừa, sức ép về ruộng đất, năng
động và hình thành phát triển các loại dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu thị
trường.
 Tạo nền tảng phát triển và thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nông thôn. Là giải
pháp hữu hiệu nhất giải quyết bài toán kinh tế cho gia đình nông thôn giai
đoạn hiện nay.
Tăng thêm thu nhập có điều kiện cải thiện cuộc sống bản thân và gia đình.
 Tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế- đời sống cho gia đình đầu tư sản
xuất và 1 phần cải thiện cuộc sống người nông dân.
 Tạo lấp nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ, phát triển

chăn nuôi, tăng năng xuất đồng ruộng, đầu tư sinh lãi phát triển ở nông
thôn.
 Rút ngắn sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, góp phần
giúp xóa đói giảm nghèo.
Phần nào giảm được tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn. Do trì hoãn việc sinh đẻ để tham gia
vào thị trường lao động hay nhận thức được khả năng nuôi thêm 1 thành viên gia
đình.
1. Ảnh hưởng tiêu cực
Sự di cư tự do từ nông thôn sang thành thị còn mang tính tự do, tự phát khó quản
lý, đã xuất hiện những bất cập về lao động ở nông thôn.
 Dần trở thành phong trào người nông dân đi kiếm việc làm để lại người già
và trẻ em ở lại. Nhiều vùng quê thiếu lao động gây mất cân đối cục bộ làm
ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp, và ngững hoạt động ở
nông thôn.
 Đa số những người đi tìm việc là nguồn nhân lực tinh tú (thanh niên khỏe
mạnh có trình độ văn hóa, kỹ thuật...)


Một số bất cập mới đã nảy sinh trong cấu trúc xã hội nông thôn do quá trình di cư
lao động từ nông thôn ra thành thị cần phải giải quyết đó là:
 Trẻ em những đứa con gia đình và những người già bị hạn chế sự quan
tâm, giáo dục, tăng tỷ lệ dân số già và trẻ em ở nông thôn tăng
 Các hoạt động mang tính xã hội văn hóa truyền thống có phần bị hạn chế
 Chất lượng nguồn lao động kỹ thuật trong nông nghiệp giảm...
Do sự gia tăng 1 cách nhanh chóng và mang tính tự phát dòng người từ nông thôn
ra thành thị, vượt quá khả năng kiểm soát và sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ
tầng và du lịch xã hội.
 Làm gia tăng tệ nạn xã hội ( ma túy, mại dâm, lối sống không lành mạnh...)
về nông thôn. Phát sinh những vấn đề tiêu cực trong xã hội
 Nhiều người nông dân bị cám dỗ cuôn hút, trở bên đua đòi nghiện

ngập...gây mất trật tự an ninh và mỹ quan thành phố.
 Gia tăng tỷ lệ li dị, phá vỡ hạnh phúc gia đình...
Các vấn đề xã hội- môi trường khác:
 Gia tăng số lượng dân cư nơi đô thị gây sức ép lên môi trường và đặc biệt
làm vấn đề nhà ở
 Nảy sinh trong xã hội các vấn đề về giới
 Chảy máu chất xám…

V.

Giải pháp, chính sách

Dòng người lao động từ nông thôn ra đô thị và vào các KCN trong tương lai vẫn
tiếp tục diễn ra và có xu hướng gia tăng. Hơn nữa với cơ chế thị trường ngày càng
phát triển sức lao động được giải phóng, người nông dân trong lúc không có việc
hoặc sau mùa vụ, họ lại rủ nhau ra các đô thị tìm kiếm việc làm để tăng thu nhập
cho gia đình là một nhu cầu chính đáng, như là một giải pháp sinh kế của người
dân. Thay đổi của xã hội đã tác động mạnh mẽ đến xã hội nông thôn, mong muốn
làm giàu, vươn lên trong cuộc sống. Bởi đô thị với ý nghĩa là thị trường lao động
đa dạng, đang có sức hút lớn đối với người lao động và mang lại thu nhập cao cho
người di cư. Mặt khác xu hướng di dân là không thể đảo ngược trước đòi hỏi phân
bổ lại lao động và phát triển sản xuất giữa nông thôn - đô thị. Tuy nhiên, di dân là
hiện tượng có tính khách quan, tất yếu đối với các quốc gia, đặc biệt trong giai


đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó, chúng ta phải thừa nhận sự tồn
tại khách quan và có những chính sách thích hợp tạo điều kiện cần thiết để phát
huy những mặt tích cực của di dân và hạn chế tác động tiêu cực đến quá trình phát
triển xã hội.
 Bố trí và phân bố lại lực lượng lao động, gắn với chiến lược phát triển kinh tế

xã hội và quá trình CHH, HĐH và ĐTH của cả nước và đối với từng vùng, từng
địa phương và trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Thực hiện quá trình
chuyển dịch và tái cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Đặc biệt đối
với những vùng nông thôn mới, những ngành nghề mới, các đô thị hoặc các
trung tâm kinh tế mới… tạo xung lực mạnh thu hút lao động tham gia vào quá
trình phân công lại lao động, theo hướng phát huy và đổi mới bố trí sản xuất
nông nghiệp và lao động nông thôn trong những năm tới. Do vậy, cần có kế
hoạch điều chỉnh và phân bố lại lực lượng lao động và dân cư nông thôn.
 Tiếp tục đổi mới về chính sách lao động, việc làm nông thôn, trên cơ sở đổi mới
chính sách và định hướng về đào tạo cho lao động nông thôn. Trên nhiều cấp độ
và các hình thức khác nhau… để tạo cơ hội và điều kiện cho lao động nông thôn
tiếp cận thị trường lao động hiện nay một cách chủ động. Theo 3 trục định
hướng lớn trong chính sách đào tạo cho lao động nông thôn, đó là: - Một bộ
phận lao động nhằm cung cấp cho các ngành kinh tế quốc dân, công nghiệp,
xây dựng… có trình độ nghề nghiệp tốt nhằm đáp cho yêu cầucủa các ngành,
các công ty, doanh nghiệp… nhằm thoát ly ra khỏi nông thôn, nông nghiệp. Một bộ phận lao động có tính chuyên lao động trong nông nghiệp thực sự làm
nông nghiệp, là những lao động chuyên có tay nghề, trình độ và am hiểu kỹ
thuật nông nghiệp, khả năng tiếp cận thị trường. Thực sự là những lao động
chuyên trong sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại dựa trên nền tảng khoa
học và kỹ thuật tiên tiến. - Một bộ phận lao động nghề nhằm chuyên phát triển
các ngành phi nông nghiệp trong nông thôn… Hình thành các hộ chuyên, các
cơ sở sản xuất gia công công nghiệp, bao gồm ngành nghề truyền thống, ngành
nghề mới và các trung tâm thương maị, dịch vụ, gia công trong nông thôn… sẽ
là cầu nối giữa nông thôn với thành thị, công nghiệp với nông nghiệp, với các
hình thức và mô hình liên kết kinh tế - sản xuất - đầu tư - tiêu thụ, thúc đẩy và
mở rộng không gian kinh tế và xã hội nông thôn. Có như vậy lao động nông
thôn mới được tổ chức và việc cung cấp lao động mới đảm bảo những yêu cầu
cho phát triển trong điều kiện hiện nay. Đồng thời lao động có tay nghề, có trình
độ chuyên môn cụ thể có khả năng thích ứng tốt hơn cho thị trường lao đông và
hạn chế sự rủi ro của người lao động. Tuy vậy, trên thực tế quá trình CNH,

HĐH và ĐHT đang diễn ra tương đối nhanh việc mất đất nông nghiệp, và thu
hẹp không gian nông thôn là không thể tránh khỏi sẽ ảnh hưởng lớn tới một bộ
phận lao động không nhỏ ở độ tuổi từ 40 tuổi trở lên, rất ít có khả năng chuyển


đổi nghề nghiệp nên có chính sách riêng hỗ trợ đào tạo, ổn định điều kiện làm
việc tại chỗ. Phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
phát huy lợi thế, tiềm năng chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
thực hiện phân công lao động tại chỗ nhằm tạo việc làm và tính ổn định cho
những lao động ít có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp.
 Giải quyết vấn đề lao động tự do là phải bằng mọi biện pháp chủ động hạn chế
tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực đối với các vấn đề kinh tế – xã hội
và an ninh trật tự tại nơi đến và nơi đi. Trong giai đoạn trước mắt, nhiệm vụ chủ
yếu là làm giảm những tác động tiêu cực do di dân tự do mang lại. Mặt khác,
chuyển dần từ biện pháp ngăn chặn hạn chế dòng di dân sang các biện pháp
quản lý, điều chỉnh dần dòng người nhập cư đến thành phố cho phù hợp với kế
hoạch phát triển của các thành phố. Để thực hiện nhiệm vụ này và phù hợp với
quy hoạch phát triển của thành phố trong tương lai, chính quyền các thành phố
phải có các giải pháp chú trọng vào những vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng;
thường xuyên tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý hộ
khẩu đối với dân di cư tự do và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, chủ
động áp dụng các biện pháp quản lý có hiệu quả.
 Bảo vệ các quyền lợi đối với người lao động, đặc biệt về nhu cầu được tham gia
BHXH và các chính sách an sinh xã hội khác. Lao động tự do từ nông thôn ra
thành thị do không có tổ chức và trên thực tế là khó kiểm soát, nên trước những
khó khăn, bất trắc thường dễ bị tổn thương và gặp rủi ro, nhu cầu được tham gia
bảo hiểm xã hội của nhóm đối tượng này là rất cần và chính đáng. Trong những
năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách xã hội cho lao động di cư. Nhưng
các chính sách vừa qua mới tập trung cho những lao động di cư có tổ chức. Còn
hình thức di cư tự do của lao động nông thôn ra thành thị, là một lực lượng rất

lớn, song chính sách cho đối tượng này còn mỏng.Thông tin và cung cấp các
thông tin về thị trường lao động những điểm đến đối với người lao động nông
thôn… Người di cư muốn biết về những điểm thuận lợi và bất lợi ở nơi nhập cư
tìm việc. Để giải quyết vấn đề này, thông tin đại chúng cần thông báo cho người
nông thôn biết thực trạng về nơi đến về những thuận lợi khó khăn họ thường
gặp trong thời gian sống làm việc và tìm việc ở nơi đô thị, tạo điều kiện cho
người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn hơn. Điều này là có tính khả thi vì trên
90% số xã đã có điện, hầu hết các hộ đã có ti vi, đài… ngoài ra còn có . nhiều
kênh thông tin khác… vấn đề là cần nâng cao chất lượng thông tin và tính cập
nhật thông tin để giúp đỡ người lao động dễ dàng tìm kiếm việc làm và nhanh
chóng ổn định. 6. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục những giá trị đạo đức. Nước
ta có truyền thống đạo đức gắn bó gia đình và tinh thần cộng đồng ở những cử
chỉ cao thượng cảm thông giúp đỡ lẫn nhau... Tuy nhiên, không phải mọi thành
viên trong xã hội đều giữ gìn được giá trị này. Sự giữ gìn và bảo vệ những giá


trị đạo đức là hết sức cần thiết, để nâng cao ý thức và trách nhiệm của cả cộng
đồng đẩy lùi và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực.

VI. Kết luận
Di cư là một phần quan trọng và không thể tách rời trong phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam. Bằng việc đáp ứng hết nhu cầu lao động trong phát triển công
nghiệp và đầu tư nước ngoài khi thực hiện quá trình Đổi mới và bằng việc gửi một
phần tiền mình kiếm được tới khu vực nghèo hơn của Việt Nam, di cư đóng một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và có thể góp phần vào việc xóa đói
giảm nghèo.
Các tác động di cư không bó hẹp trong những người di chuyển. Các bằng
chứng nêu trên cho thấy di cư ảnh hưởng tới một số lượng không nhỏ đối với các
hộ gia đình ở tất cả các khu vực của Việt Nam, phần lớn người di cư cho thấy cuộc
sống mình khá lên sau di cư. Chính vì vậy di cư tạo nên những cơ hội trực tiếp cho

sự phát triển rộng khắp và đồng đều hơn qua đó sự khác biệt giữa các vùng giảm
xuống. Di cư đến các thành phố lớn rất đa dạng; lâu dài hay thời gian ngắn, đi và
quay về thường xuyên, di cư để tăng thu nhập thời vụ, di chuyển để kiếm tiền gửi
về cho gia đình, di cư đến do sự thay đổi môi trường. Có một điểm chung giữa các
loại hình di cư đó là tài xoay xở và thích nghi của các cá nhân và hộ gia đình khi di
chuyển.
Quyết định di cư đến các thành phố lớn là một sự đánh đổi cuộc đời, với
mục đích để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Với lí do kinh tế, người di cư đã không thể
lường hết một thay đổi ở nơi đến, nên muôn nẻo khó khăn vẫn đang chực chờ họ.
Với lượng người di cư trẻ, trong độ tuổi lao động di cư đến các thành phố là một
cơ hội tốt những cũng là một thách thức, Hà Nội, Hải Phòng,TP.HCM vẫn là sự lựa
chọn ưu tiên cho việc chọn nơi đến, và số lượng tăng đều hàng năm. Đã đến lúc
xem người di cư là một thành phần của đô thị và chuẩn bị các chính sách dành cho
họ, để họ yên tâm lao động và đóng góp vào sự phát triển chung của toàn thành
phố.

VII. Tài liệu tham khảo
- Tổng điều tra Dân số và nhà ở VIỆT NAM năm 2009, Di cư và đô thị hóa ở
Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt.
- Nguyễn Đình Long. “Di cư từ nông thôn ra thành thị ”. Tạp chí Kinh tế nông
nghiệp số 8/2000.
- Nguyễn Thị Phương Thảo. Báo cáo: “Từ nông thôn ra thành thị - Tác động
kinh tế xã hội của di cư ở Việt Nam”. Năm 2010.
- Đinh Quang Hà. “Vai trò di dân nông thôn - đô thị đối với phát triển kinh tế
hộ gia đình ở nông thôn”. Năm 2011.



×