Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn tập môn toán lớp 9 tại trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.25 KB, 30 trang )

Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những thành tố cơ bản và trọng yếu của đổi mới giáo dục là công
tác đổi mới phương pháp dạy – học. Chỉ có đổi mới phương pháp dạy – học
chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục.
Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy – học là hướng tới hoạt động học
tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động, được tổ chức thông qua
phương pháp dạy học tích cực mà đặc trưng của nó là:
- Dạy – học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Dạy – học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
Trong dạy – học môn Toán, việc tổ chức tốt tiết dạy – học ôn tập chương,
hay ôn tập toàn chương trình môn học của một khối lớp là cực kỳ quan trọng. Tiết
dạy – học ôn tập giúp học sinh hệ thống lại kiến thức của từng phần, từng chương
từ đó vận dụng vào giải quyết các vấn đề toán học mới được đặt ra. Tiết dạy – học
ôn tập là một mô hình thể hiện năng lực chuyên môn Toán học.
Việc đổi mới phương pháp dạy - học, phương pháp đánh giá phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay, giáo viên gặp không ít khó khăn khi lựa chọn phương
pháp, tình huống thích hợp để giải quyết vấn đề. Với việc giảng dạy môn Toán nói
chung và việc dạy một tiết ôn tập nói riêng thì việc lựa chọn phương pháp, tình
huống để giải quyết vấn đề mà một tiết ôn tập yêu cầu không phải là điều đơn giản.
Với thời đại hiện nay dạy học không còn là quá trình truyền thụ, chuyển giao
kiến thức mà phải là một quá trình tổ chức, định hướng giúp người học từng bước
có năng lực tư duy và năng lực hành động nhằm chiếm lĩnh các giá trị tinh thần,
các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa; trên cơ sở đó có khả năng giải quyết
được các bài toán thực tế trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học. Đó chính là
lí do và cũng là mục đích của quan điểm "Lấy người học làm trung tâm".
Tư tưởng xem người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình học tập đã


được đề xướng từ lâu. Ở thế kỉ XVII A.Kômenski đã viết: "Giáo dục có mục đích
đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách… hãy tìm ra
phương pháp cho phép GV dạy ít hơn, HS học nhiều hơn". Cách đây khoảng 30
năm (1991), R.R.Singh cũng đã viết: "Làm thế nào cá thể hóa quá trình học tập để
cho tiềm năng của mỗi cá nhân được phát triển đầy đủ đang là một thách thức chủ
yếu đối với giáo dục". Ở nước ta, với khẩu hiệu "Biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo", học sinh là trung tâm đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ
những năm 1960. Tuy nhiên, thuật ngữ "Dạy học lấy người học làm trung tâm" chỉ
mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến trong những năm gần đây. Theo đó, bên
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
1


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
cạnh xu hướng truyền thống thiết kế chương trình giảng dạy lấy logic nội dung
môn học làm trung tâm đã xuất hiện xu hướng thiết kế chương trình học tập lấy
nhu cầu, lợi ích của người học làm trung tâm.
Phát triển các phương pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác có ý nghĩa
không chỉ trong quá trình học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho các em tâm
thế tốt để chuẩn bị cho tiền đồ của chính các em và đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng đất nước sau này.
Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh
nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong
cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng
động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái
trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý
kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ
những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận

thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài
tập, không nản trước những tình huống khó khăn…Tính tích cực học tập thể hiện
qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Là giáo viên dạy toán ở trường THCS tôi nghĩ cần phải nghiên cứu làm thế
nào để học sinh ngày càng phát triển về tư duy logic, tự chủ trong việc ôn tập kiến
thức, kích thích trí tò mò, tính tích cực học tập, óc sáng tạo thông qua các dạng bài
tập, các câu hỏi trắc nghiệm mà học sinh được tiếp cận, được tìm tòi thông qua tiết
ôn tập.
Kiến thức trong các tiết ôn tập thường dài và đa dạng nếu giáo viên và học
sinh không chuẩn bị chu đáo các đơn vị kiến thức cần nắm trong một chương,
trong một học kỳ và các phương tiện dạy học phù hợp nhằm giúp tiết kiệm thời
gian thì rất khó có thể hoàn thành được nội dung bài ôn tập một cách trọn vẹn.
Trong các tiết ôn tập giáo viên luôn đóng vai trò là người tổng hợp kiến thức
đã học thông qua hình thức vấn đáp hoặc là giải bài tập, học sinh là người lãnh hội
kiến thức và trả lời các câu hỏi, giải các bài tập của giáo viên. Tuy nhiên nếu học
sinh học tập theo hình thức thụ động thì sẽ gây cho học sinh tâm lý nhàm chán, vậy
làm thế nào để học sinh phát huy tích tích cực học tập của bản thân trong việc lĩnh
hội kiến thức, nâng cao chất lượng học tập đối với tất cả các môn học. Từ thực tế
dạy học ở trường THCS Lương Thế Vinh tôi thấy cần bổ sung thêm một số phương
pháp dạy học sáng tạo hơn nữa của giáo viên giúp học sinh tích cực học tập nâng
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
2


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh

Đăk Lăk
cao vai trò tự học, thích thú học tập bộ môn. Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất “Một số
kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana –Tỉnh
Đắk Lắk”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu
- Giúp học sinh có cái nhìn tổng quát hơn trong việc tổng hợp kiến thức của
từng bài, từng chương thông qua hình thức giao nhiệm vụ.
- Rèn cho học sinh khả năng tư duy, khả năng tự học và tự mình kiểm tra
được mức độ tiếp thu kiến thức thông qua việc trả lời các câu hỏi, các bài tập do
bản thân hoặc các học sinh khác đặt ra. Từ đó giáo viên và học sinh có những điều
chỉnh phù hợp trong việc truyền đạt và lĩnh hội kiến thức của môn học.
- Mặt khác khuyến khích học sinh phát huy tính tích cực học tập, tìm tòi các
câu hỏi, các bài tập phù hợp cho từng đơn vị kiến thức vừa được lĩnh hội và các
phương án trả lời khác nhau cho các bài tập hoặc cho các câu hỏi được đặt ra để
tổng hợp được kiến thức cơ bản, trọng tâm sau mỗi bài học hoặc mỗi chương trong
chương trình toán lớp 9 cấp THCS.
2.2. Nhiệm vụ
Đề ra một số giải pháp, biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh qua tiết ôn tập môn Toán.
Tăng niềm yêu thích học tập bộ môn, kích thích trí tò mò óc sáng tạo của
học sinh thông qua các hình thức khuyến khích học sinh học tập khác nhau.
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường theo định hướng lấy học
sinh làm trung tâm.
Khơi dậy lòng say mê học tập, không ngừng phấn đấu vươn lên của học
sinh, để chất lượng giáo dục đại trà cũng như chất lượng giáo dục mũi nhọn được
nâng lên một cách ổn định.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống kiến thức khái quát qua các câu hỏi ôn tập chương, ôn tập học kỳ

của bộ môn Toán 9 cấp THCS.
Một số phương pháp dạy học tích cực: phương pháp làm việc theo nhóm,
phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp động
não....
4. Giới hạn của đề tài
Học sinh lớp 9A1, 9A2 năm học 2016 -2017 và học sinh lớp 9A1, 9A3, 9A4
trường THCS Lương Thế Vinh học kỳ I năm học 2017- 2018.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
3


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp thuyết trình vấn đáp;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
4


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh

Đăk Lăk
Theo hướng dẫn triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm học 2016 -2017, 2017
-2018 của PGD đào tạo Krông Ana:
Triển khai có hiệu quả phương pháp, hình thức và kĩ thuật dạy học tích cực;
đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn góp phần hình
thành và phát triển năng lực học sinh; đa dạng hóa các hình thức học tập.
Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh theo tinh thần Công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 của Bộ
GDĐT về áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học
tích cực khác.
Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông (Dạy học trực tuyến, trường học kết nối...) Ngoài việc tổ
chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp, cần coi trọng giao
nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà.
Kết hợp một cách hợp lí giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan,
giữa kiểm tra lí thuyết và kiểm tra thực hành trong các bài kiểm tra; tiếp tục nâng
cao yêu cầu vận dụng kiến thức liên môn vào thực tiễn; tăng cường ra các câu hỏi
mở, gắn với thời sự quê hương, đất nước đối với các môn khoa học xã hội và nhân
văn để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính trị,
xã hội.
Để đáp ứng được các nhiệm vụ trọng tâm mà Phòng giáo dục đào tạo triển
khai bản thân tôi thấy rằng trong giảng dạy các tiết học ôn tập, kiến thức cơ bản đã
được giáo viên truyền đạt cung cấp cho học sinh nhưng vấn đề đặt ra là: Chúng ta
phải hệ thống kiến thức cơ bản của chương như thế nào một cách logic, khoa học
và đáp ứng được định hướng dạy học lấy người học làm trung tâm. Các kiến thức
cơ bản của chương có mối liên hệ chặc chẽ trong tổng thể hoàn chỉnh nhằm giúp

học sinh dễ nắm bắt kiến thức, củng cố và khắc sâu kiến thức trong chương.
Từ đó ta có thể thấy công việc của hệ thống kiến thức là cần làm nổi bật được kiến
thức trọng tâm của chương, mối liên hệ chặt chẽ giữa các đơn vị kiến thức xung
quanh. Từ đó giáo viên có thể chọn phương pháp hệ thống bằng sơ đồ, bằng hình
vẽ, bằng kiến thức chọn lọc hoặc bằng sơ đồ tư duy.
Trong quá trình hệ thống kiến thức cơ bản, chúng ta cần giúp học sinh nắm
bắt phương pháp nắm kiến thức tức là phương pháp học theo đặc trưng bộ môn,
nếu không chỉ cho học sinh phương pháp nắm kiến thức thì học sinh sẽ lúng túng
và kém hiệu quả.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
5


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Do vậy việc hệ thống kiến thức một chương cần chuẩn bị chu đáo: Giáo viên
cần chọn lựa phương pháp hệ thống và chuẩn bị cho học sinh ôn lại kiến thức của
chương, hoàn thành một số biểu bảng, chuẩn bị nội dung trả lời một số câu hỏi của
các học sinh khác đặt ra và các dạng bài tập tổng hợp trong chương trình.
2. Thực trạng
2.1. Thực trạng và nguyên nhân
a. Thực trạng
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Toán ở các lớp tại trường THCS Lương
Thế Vinh huyện Krông Ana tỉnh Đắk Lắk tôi nhận thấy môn học đã được:
- Lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm thiết thực đến tất cả các bộ môn trong
nhà trường. Đầu tư phương tiện dạy học cho giáo viên khá đầy đủ nhằm phục vụ
tốt công tác giảng dạy.
- Học sinh đa số có sự đam mê trong học tập, có ý thức tự học khá tốt, một

số học sinh có năng khiếu, tố chất bộ môn rất tốt, lực học giỏi, có thể cùng các học
sinh ở nhiều bộ môn khác tạo nên chất lượng mũi nhọn của nhà trường.
- Sự phối hợp nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm, ban cán sự các lớp 9A1,
9A2, 9A5 năm học 2016 -2017 và lớp 9A1, 9A3, 9A4 năm học 2017 - 2018 trong
việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Kiến thức mà học sinh vận dụng để tự ra các câu hỏi và bài tập cho mình
qua mỗi bài học thực ra là các kiến thức mà các em đã được lĩnh hội từ giáo viên,
từ các bài tập tương tự sách giáo khoa và các em làm nhiệm vụ cụ thể hóa các kiến
thức đó thông qua các câu hỏi tự đặt ra cho mình và phương án trả lời mà học sinh
cần hướng tới là nội dung chính vừa được tiếp thu; tất cả kiến thức đều nằm trong
chương trình học tập và giáo dục.
- Đa số học sinh ngoan, có tinh thần học tập tốt nên dù việc tự đặt câu hỏi
cho bản thân là tương đối mới và bước đầu khó khăn nhưng các em đã chịu khó
tìm tòi qua sách vở, qua các trang thông tin và qua hướng dẫn của bạn bè, cô giáo.
- Trước khi thực hiện đề tài này tôi và hầu hết giáo viên đều tiến hành dạy
tiết ôn tập thường theo một định hướng đó là :
1. Yêu cầu học sinh làm việc ở nhà: trả lời các "câu hỏi tự kiểm tra" và
chuẩn bị các bài tập.
2. Mục "Tóm tắt những kiến thức cần nhớ" trong SGK nhằm mục đích để
cho học sinh tra cứu nếu cần thiết, ít khi giảng lại cho học sinh trong giờ học ôn
tập.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
6


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
3. Tiết ôn tập không phải là để giáo viên nhắc lại các kiến thức đã học, mà là

để giúp học sinh nhớ lại, làm lại và tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội dung
được học.
4. Thường có các bảng hệ thống kiến thức thể hiện mối liên quan giữa các
kiến thức trong chương.
5. Trong tiết ôn tập trên lớp, giáo viên chọn một vài bài tập có nội dung tổng
hợp liên quan đến nhiều kiến thức cần ôn tập và cùng làm việc với học sinh, qua đó
nhắc lại, khắc sâu, hệ thống và nâng cao các kiến thức cần nhớ và phương pháp
giải. Không nên đi sâu vào những tính toán cụ thể
6. Luôn luôn thay đổi hình thức ôn tập sao cho phong phú, đa dạng và hiệu
quả cho mỗi hình thức. Trong bất kì hình thức nào học sinh cũng phải được chủ
động tham gia vào quá trình ôn tập kiến thức.
Tuy nhiên nếu tiến hành tiết ôn tập rập khuôn theo cách trên thì học sinh sẽ
rất nhàm chán và việc định hướng cho học sinh tiếp cận với các dạng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan là rất khó vì nội dung được ôn tập mang tính chung chung và
khó khăn hơn nữa là các đối tượng học sinh có lực học yếu sẽ không xác định được
nội dung cơ bản cần lưu ý để hoàn thành tốt bài kiểm tra đánh giá sau mỗi chương,
mỗi học kỳ và không thể hình dung được cấu trúc đề kiểm tra mà giáo viên sẽ ra
trong bài kiểm tra sắp tới. Dẫn đến kết quả kiểm tra đánh giá không đạt mục tiêu
đề ra.
Do thời gian dành cho các câu trắc nghiệm là ít nên các học sinh thường vội
vàng suy nghĩ chưa kỹ đã vội khoanh vào đáp án sai nên dẫn đến chất lượng bài
kiểm tra không cao.
Vậy làm thế nào để cả giáo viên và học sinh đều có những phương pháp giảng
dạy và học tập bộ môn tốt nhất? Dựa trên thực trạng nghiên cứu của đề tài kinh
nghiệm năm học 2016-2017 của bản thân về việc sử dụng một số phương pháp
giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn tập môn Toán cấp
THCS tôi rút ra được một số nhận định cụ thể như sau:
Thứ nhất, không có một biện pháp nào là tối ưu trong dạy học để nâng cao
chất lượng bộ môn. Mặt khác, người giáo viên trong giai đoạn hiện tại là người
đóng vai trò hướng dẫn học sinh học tập, còn các em mới chính là trung tâm của

quá trình dạy học, là người trực tiếp phải học, phải lĩnh hội kiến thức tốt nhất. Do
đó, điều này phụ thuộc phần lớn vào học sinh chứ không phải là giáo viên trên lớp.
Từ đó có thể khẳng định khó khăn lớn nhất đòi hỏi người giáo viên muốn nâng cao
chất lượng bộ môn phải luôn tự học, tự rèn, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm từ
học hỏi đồng nghiệp, luôn có ý thức phấn đấu không tự bằng lòng với cái mình đã
đạt được, luôn rút kinh nghiệm, sáng tạo hơn trong dạy học và dần dần đúc kết lại
để trang bị cho mình những bài học cần thiết trong giảng dạy.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
7


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Thứ hai, mặc dù giáo viên tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong giảng dạy
song hiệu quả chất lượng lại không như mong muốn. Bởi lẽ, theo lối mòn cũ, học
sinh chỉ biết tiếp thu trên lớp mà không có thói quen học bài cũ trước khi đến lớp,
học qua loa, đại khái không khắc sâu kiến thức , học đối phó để lấy điểm kiểm tra.
Mặt bằng chất lượng bộ môn phụ thuộc nhiều vào các em nên càng thấy nếu
học sinh tích cực học tập góp phần rất quan trọng chất lượng bộ môn. Do đó, phải
làm sao cho các em thích học, học chủ động, sáng tạo, học tự nguyện, học để nâng
cao kiến thức cho bản thân chứ không phải học vì điểm, vì để đối phó với thầy cô,
cha mẹ, mà học vì em muốn được học, được khẳng định ưu thế của mình trong
nhận thức bộ môn.
Trong quá trình học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tập huấn, trải nghiệm
thêm các phương pháp trong dạy học và xuất phát từ thực tế dạy học tại trường
THCS Lương Thế Vinh, bản thân tôi thấy cần bổ sung thêm một số kinh nghiệm
hướng dẫn của giáo viên giúp các em có thêm một số phương pháp tự học phát huy
tính tích cực học. Chính điều này làm cơ sở cho tôi tiếp tục mở rộng thêm nội dung

đề tài trước đó.
b. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân từ thực trạng nói trên nhưng có thể chia thành hai
nhóm chính đó là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là do Toán học là một môn học khó, đòi hỏi người
học phải có kiến thức xuyên suốt từ lớp dưới lên lớp trên thì mới đáp ứng được
những đòi hỏi cần đạt về kiến thức của bộ môn. Hoàn cảnh gia đình của một số em
học sinh còn tương đối khó khăn, bố mẹ đi làm xa nên việc giành thời gian quan
tâm nhắc nhở học sinh học tâp nghiên cứu, tìm tòi kiến thức chưa được quan tâm
đúng mức.
Do thời gian dành cho các câu trắc nghiệm là ít nên các học sinh thường vội
vàng suy nghĩ chưa kỹ đã vội khoanh vào đáp án sai nên dẫn đến chất lượng bài
kiểm tra không cao.
Nguyên nhân chủ quan là còn một số ít giáo viên tính sáng tạo trong dạy
học chưa nhiều, dạy học còn theo lối mòn cũ, kiểm tra đánh giá còn dễ dãi, chưa
chú ý hướng dẫn cho học sinh thói quen tự học và cách học đối với từng dạng bài,
từng kiểu bài lên lớp nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng bộ môn. Học sinh
chưa xác định được vai trò của bộ môn trong học tập cũng như chưa chủ động
trong việc lĩnh hội kiến thức còn học theo lối mòn, học thụ động, dựa dẫm, ỷ lại và
xem nhẹ bộ môn.
Do học sinh chưa quen với cách tự ra đề kiểm tra cho bản thân và vốn từ
của học sinh về bộ môn chưa nhiều nên tính chính xác khoa học trong bài thu
hoạch ôn tập chương thực sự chưa cao, vẫn có những sai sót.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
8


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk

Tư duy logic của học sinh còn hạn chế nên nhiều khi các em chưa biết vận
dụng những kiến thức đã biết để ra các câu hỏi vận dụng vào những bài tập tương
tự.
Kiến thức của một số học sinh về hình học nói riêng và về Toán học nói
chung còn hạn chế nên việc tự ra các câu hỏi kiểm tra và các bài tập vận dụng của
một số học sinh còn nhờ vào sự trợ giúp của các tài liệu tham khảo sẵn có trên thị
trường.
Thời gian dành cho các tiết ôn tập chỉ là hai tiết học nên việc sửa chữa các
sai lầm của học sinh đôi lúc chưa được triệt để.
2.2. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào đều gặp những thuận lợi và khó khăn
nhất định. Với đề tài này, tôi cũng gặp một số khó khăn khi nghiên cứu, tuy nhiên
những khó khăn này có thể khắc phục dần theo thời gian bằng nhiều cách thức
khác nhau:
Với những học sinh có lực học yếu, học sinh dân tộc thiểu số ta chỉ cần yêu
cầu các em nắm bắt được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa rồi tự đặt
cho mình các câu hỏi vừa với lực học của bản thân và mở rộng hơn nữa là những
bài tập có vận dụng kiến thức lý thuyết cơ bản của chương.
Với những học sinh có lực học khá trở lên thì yêu cầu các em từ kiến thức cơ
bản sách giáo khoa phải tư duy để khái quát hóa trở thành bài tập tổng quát từ dễ
đến khó và khi vận dụng cần nhận biết được đây là dạng bài tập nào để vận dụng
sơ bản vào làm bài tập một cách nhanh chóng, phát triển được trí thông minh, khả
năng vận dụng kiến thức, óc sáng tạo của học sinh. Đối với các câu hỏi trắc
nghiệm ngoài yêu cầu các học sinh này về độ chính xác khoa học cần khuyến
khích các em xây dựng các câu hỏi mang tính khái quát, vận dụng kiến thức từ cấp
độ thấp đến cao.
Và để khuyến khích học sinh học tập giáo viên có thể chấm điểm các bài thu
hoạch ôn tập chương vào điểm 15 phút hay điểm miệng.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp

Phát triển năng lực tự học, phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Phát triển kỹ năng ra đề trắc nghiệm khách quan phục vụ cho việc tổng hợp,
khắc sâu kiến thức và xây dựng cho mình một cấu trúc đề kiểm tra đáp ứng yêu
cầu cần đạt của giáo viên.
Giáo dục cho học sinh tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập.
Việc yêu cầu các học sinh hoàn thành bài thu hoạch và đánh giá bài thu
hoạch vào điểm kiểm tra thường xuyên nhằm kích thích học sinh tìm tòi, sưu tầm
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
9


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
các câu hỏi phù hợp với trình độ của cá nhân, ngoài ra các học sinh còn phải suy
nghĩ vận dụng kiến thức để đưa ra các phương án trả lời phù hợp.
Hình thức trao đổi giữa các học sinh hoặc nhóm học sinh tạo cho học sinh
lòng tự tin trình bày bài làm của mình và rút ra được các bài học còn thiếu trong
quá trình tiếp thu kiến thức.
Với nội dung bài thu hoạch được chuẩn bị sẵn học sinh thấy thích thú hơn
trong tiết ôn tập, phát huy được năng lực tự học của cá nhân.
Qua bài thu hoạch của học sinh giáo viên định hướng được mức độ tiếp thu
kiến thức của các học sinh để từ đó có phương án ra đề kiểm tra cuối chương, cuối
học kỳ một cách hợp lý phân loại được đối tượng học sinh.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Đề tài nghiên cứu của tôi tiếp tục hướng cho học sinh phát huy tính tích cực
học tập, nâng cao được sự tự giác, phát huy vai trò tự học môn, nâng cao vốn kiến
thức đã học, hiểu biết thêm về giá trị môn học trong chương trình cũng như trong
cuộc sống.
Thứ nhất, xác định được tâm lý đối tượng học sinh. Ở độ tuổi cấp THCS từ

11 - 14 các em có nhiều thay đổi về tâm sinh lý. Chính vì vậy, việc xác định tâm lý
thoải mái, ổn định trong học tập là điều rất cần thiết. Từ đây, các em dễ dàng tiếp
thu kiến thức, yêu thích môn học hơn, học tập có hiệu quả hơn. Người giáo viên
phải là người truyền cảm hứng cho học sinh, khơi dậy cho các em niềm đam mê,
yêu thích bộ môn.
Thứ hai, người giáo viên cần phải định hướng cho các em hiểu và xác định
đúng đắn động cơ học tập các môn học trong chương trình giáo dục.Để tiếp thu
được kiến thức bộ môn học sinh cần phải có thời gian nghiên cứu, học tập. Toán
học không chỉ là học thuộc lòng, là ghi nhớ máy móc mà là hiểu được nội dung
kiến thức một cách đúng đắn, vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập cụ thể.
Thứ ba, người giáo viên phải phân loại đối tượng học sinh để hướng các em
đến các cách tự học phù hợp, hiệu quả. Bởi lẽ, một học sinh khá giỏi sẽ không phải
mất nhiều thời gian để học như học sinh trung bình và học sinh yếu. Để phân loại
được đối tượng học sinh chúng ta phải quan sát, thăm dò qua giáo viên chủ nhiệm,
qua kết quả học tập của năm học trước cũng như kết quả kiểm tra thường xuyên
trên lớp để định hướng cho các em cách tự học phù hợp. Trên cơ sở này, học sinh
sẽ biết lựa chọn cho bản thân cách tự học hiệu quả nhất.
Sau khi đã nắm được tâm lý và phân loại được đối tượng học sinh, giáo viên
có thể hướng dẫn cho các em một số cách thức phát huy tính tích cực học tập tùy
theo đối tượng học sinh.
Để đạt được hiệu quả cao trong tiết ôn tập và giải quyết các khó khăn trên
tôi đã tiến hành các biện pháp và giải pháp sau:
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
10


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Giải pháp 1: Giáo viên hướng dẫn cách thức ra một câu hỏi trắc

nghiệm.
Do có nhiều đối tượng học sinh tham gia học tập khác nhau nên trong giải
pháp này tôi tiến hành hai bước.
Bước 1: Giáo viên định hướng cách học tập cho tất cả các đối tượng học
sinh.
Để giúp mọi đối tượng học sinh đều có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên
giao phó thì trong quá trình dạy học giáo viên cần làm mẫu một vài dạng câu trắc
nghiệm thường gặp khi học xong một đơn vị kiến thức. Làm được điều này giáo
viên cần xây dựng giáo án dạy học phù hợp, có lồng ghép các nội dung cơ bản cần
cung cấp đến học sinh.
Định hướng chung cách học tập cho mọi đối tượng học sinh để đạt hiệu quả
cao trong việc phát huy tính tích cực học tập:
+ Đọc, hiểu nội dung bài học trong sách giáo khoa trước khi soạn bài.
+ Soạn bài theo các câu hỏi ở từng mục trong sách giáo khoa.
+ Xác định và ghi nhớ những kiến thức chính trong từng mục, mục trọng
tâm của toàn bài.
+ Vẽ sơ đồ tư duy cho từng lượng kiến thức cả bài.
+ Ghi chép những kiến thức cơ bản, các công thức quan trọng trong sổ tay.
+Dựa vào các kiến thức cơ bản thu thập được từ đó xây dựng nên câu hỏi
khắc sâu kiến thức bài học
Sau khi định hướng được cho học sinh học tập tôi tiến hành làm mẫu một
vài câu trắc nghiệm thông qua các bài học cụ thể. Trong phân môn đại số để hướng
dẫn học sinh, trước hết tôi chuẩn bị giáo án: trong phần củng cố - luyện tập của tiết
2- đại số 9: CĂN THỨC BẬC HAI VÀ HẰNG ĐẲNG THỨC A 2 = A . Giáo viên
có thể chuẩn bị thêm nội dung cung cấp cho học sinh câu hỏi trắc nghiệm để khắc
sâu kiến thức và hướng học sinh học tập theo phương pháp dạy học tích cực:
Câu 1: −7a có nghĩa khi
A. a ≥ 0
B. a ≤ 0
C. a > 0

D. a < 0
Câu 2:
A. a ≥ 0

a
5

có nghĩa khi
B. a ≤ 0

C. a > 0

D. a < 0

Nội dung hai câu hỏi trên thực ra là tôi đã dựa vào bài tập 6 /10 sách giáo
khoa Toán 9 - Tập 1. Dựa vào các bài tập khác giáo viên có thể xây dựng nhiều câu
hỏi trắc nghiệm khác nhau ( nếu thời gian cho phép).

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
11


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Học sinh sẽ không mất nhiều thời gian cho việc chọn ra đáp án đúng vì các
em đã biết cách làm từ nội dung bài tập 6/10 sách giáo khoa Toán 9 –Tập 1.
Giáo viên chỉ cần đóng vai trò dẫn dắt học sinh đến nội dung kiến thức cần
có để xây dựng nên câu hỏi trên đó chính là điều kiện để căn thức có nghĩa: A
có nghĩa khi A lấy giá trị không âm.

Hay khi học đến bài “Hệ phương trình bậc nhất hai ẩn”, sau khi học sinh đã
nắm được nội dung bài học giáo viên có thể định hướng cho học sinh đến nội dung
câu trắc nghiệm như là:

x + y = 2
có :
3
x
+
3
y
=
2


Câu 1: Hệ phương trình 
A.Vô số nghiệm

B. Vô nghiệm

C. Có một nghiệm duy nhất

Giáo viên đặt ra một số câu hỏi nhằm khắc sâu kiến thức và định hướng cho
học trả lời:
Câu hỏi 1: Để chọn đáp án đúng em cần làm gì?
Câu hỏi 2: Dựa vào nội dung kiến thức nào để chọn ra đáp án đúng ?
Câu hỏi 3: Có cần giải hệ để chọn được đáp án phù hợp không ?
Sau khi giải quyết câu hỏi trên giáo viên cần hướng cho học sinh hiểu cách
thức để chọn ra hệ phương trình phù hợp với đáp án đưa ra: để chọn được hệ
phương trình phù hợp với đáp án đưa ra cần nắm rõ kiến thức sau


ax + by = c
(a, b, c, a ' , b ' , c ' ≠ 0)
Khi có hệ phương trình  '
'
'
a x + b y = c
a b c
Nếu ' = ' = ' thì hệ phương trình có vô số nghiệm hay hai đồ thị hàm
a b c

số trùng nhau.
Nếu

a b c
= ' ≠ ' thì hệ phương trình có vô nghiệm hay hai đồ thị hàm số
'
a b c

song song với nhau
Nếu
cắt nhau

a b
≠ thì hệ phương trình có nghiệm duy nhất hay đồ thị hai hàm số
a ' b'

Sau khi hướng dẫn cho học sinh giáo viên có thể cho học sinh thực hành tự
ra cho mình một câu hỏi phù hợp với nội dung kiến thức vừa học.


Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
12


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Từ định hướng đó học sinh sẽ dễ dàng tự ra cho mình câu hỏi tương tự và đã
định được đáp án trong đầu dựa trên hệ thống kiến thức đã học, ví dụ nội dung câu
hỏi 2: Vị trí tương đối của hai đường thẳng xác định bởi hai phương trình trong hệ
3x + y = 3
là:
2 x − y = 7

phương trình 

A. Song song

B. Cắt nhau

C.Trùng nhau

Để hướng mọi đối tượng học sinh có kỹ năng làm bài trắc nghiệm giáo viên
đặt ra hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh trả lời, ví dụ như:
1. Để chọn được đáp án đúng ta nên làm như thế nào?
2. Có cần vẽ đồ thị hai hàm số để xác định vị trí tương đối của hai đồ thị
hàm số không ? (áp dụng cho câu 2)
Hay khi dạy xong bài “ Tỷ số lượng giác của góc nhọn” giáo viên định
hướng cho học sinh xây dựng nội dung câu hỏi trắc nghiệm áp dụng kiến thức vừa
học như: Cho hình vẽ, độ dài x trên hình là

A. 4 3

B. 4

C. 8 3

D.

8 3
3

Giáo viên cần định hướng cho học sinh cách thức chọn đáp án
phù hợp đó là áp dụng kiến thức đã học để chọn đáp án đúng, tuyệt đối không sử
dụng phương pháp loại trừ hay đoán mò.
Sau khi học xong các bài học “ Góc ở tâm. Số đo cung”, “Góc nội tiếp”, “
Góc tạo bởi tia tiếp tuyến và dây cung” vì đây là các bài học liên quan đến nhiều
nội dung kiến thức nên khi học xong ba bài này giáo viên có thể định hướng cho
học sinh xây dựng câu trắc nghiệm theo hình thức tổng hợp kiến thức như:
Cho hình vẽ sau (áp dụng từ câu 1 đến câu 3):
Câu 1.(0,5 điểm) Số đo cung lớn BC là:
A. 300
B. 600 C. 900
D. 2400

A

B

O


Câu 2.(0,5 điểm): Số đo cung nhỏ AB là:
A. 300
B. 600 C. 900
D. 1200
Câu 3.(0,5 điểm) : Số đo góc ACB bằng:
A.
150 B. 300 C. 450
D. 900

x

C

Tôi tiến hành tổng kết lại tiến trình cụ thể để xây dựng nên nội dung câu trắc
nghiệm cần có sau mỗi bài học:
- Xác định nội dung kiến thức trọng tâm vừa được lĩnh hội là gì ?

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
13


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
- Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cần bám vào nội dung kiến thức đã học từ
đó vận dụng để xây dựng đáp án phù hợp. Giáo viên cần lưu ý học sinh, trong các
đáp án xây dựng để trả lời câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, các đáp án còn lại có
thể xây dựng dựa trên những sai lầm thường hay mắc phải của học sinh, ví dụ như
điều kiện A có nghĩa là A > 0 hay A < 0....
- Khi hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài tập trắc nghiệm giáo viên

lưu ý học sinh hạn chế ra dạng bài tập trắc nghiệm mà nội dung là để kiểm tra việc
nắm định lý hay các định nghĩa, hướng học sinh đến các dạng câu trắc nghiệm vận
dụng lý thuyết vào giải quyết các bài tập cụ thể.
Qua các phương án xây dựng câu hỏi trắc nghiệm nêu trên, tôi nghĩ học sinh
đã phần nào định hướng được cách thức và nội dung cơ bản cần bám sát để tạo ra
một bài tập trắc nghiệm.
Bước 2: Định hướng cho học sinh xây dựng bài tập vận dụng sau khi học
xong một chương hay một học kỳ.
Nội dung này thường khá khó với học sinh và và được thực hiện vào cuối
mỗi chương. Giáo viên hướng dẫn học sinh cần bám vào nội dung kiến thức vừa
học để ra các bài tập tượng tự như các bài tập sách giáo khoa.
Ví dụ sau khi học xong chương 1đại số 9 – Tập : Căn bậc hai. Căn bậc ba
giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tự ra cho mình các bài tập vận dụng sau


1

1 


Bài tập 1: Cho biểu thức : A = 
÷:
 x −2 x−4

1
x −2

a) Rút gọn A.
b) Tìm x để A = 2.
c) Tìm x ∈ Z để A ∈ Z.

d) Tìm GTNN của biểu thức A.

Hệ thống bài tập đa dạng do đó giáo viên không nên yêu cầu học sinh ra bài
tập ở mức độ phức tạp, chỉ cần yêu cầu học sinh tìm tòi ra được bài tập áp dụng
kiến thức vừa học của toàn chương.
Với mô hình dạy học theo chương trình giáo dục đại trà hiện hành, giáo viên
lựa chọn cách thức phân loại các đối tượng học sinh và vận dụng các phương pháp
hướng dẫn học tập cụ thể như sau:
* Đối với học sinh học trung bình:
+ Ngoài việc tiếp thu kiến thức trên lớp học sinh cần dành một phần thời
gian ở nhà để đọc lại nội dung phần bài học ở trên lớp vài lần trước khi đến lớp.
+ Học sinh phát huy tính tích cực học tự học bằng cách đọc từng mục nội
dung trong sách giáo khoa sau đó xây dựng .

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
14


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
+ Biết cách lập bảng, thống kê nội dung cơ bản của bài học, ghi nhớ nội
dung bài học trước khi đến lớp.
+ Khuyến khích học sinh mạnh dạn trao đổi với thầy cô, bạn bè nội dung bài
học còn chưa hiểu trên lớp.
* Đối với học sinh yếu, kém:
Động viên học sinh đi học chuyên cần, ghi chép bài đầy đủ trên lớp. Đây là
biện pháp để nâng cao chất lượng chung của bộ môn mà còn duy trì được sĩ số
tránh việc bỏ học giữa chừng của học sinh đặc biệt là đối với học sinh có hoàn
cảnh khó khăn phải dành thời gian đi làm giúp đỡ gia đình, học sinh là đồng bào

dân tộc thiểu số.
Với đối tượng học sinh này cần đến rất nhiều sự quan tâm của giáo viên đến
các em, luôn động viên, khích lệ các em kịp thời để tạo sự phấn khởi, tự tin trong
học tập bộ môn. Không nên áp đặt việc hoàn thành nội dung bài thu hoạch là bắt
buộc mà động viên học sinh để các em dần quen với việc tiếp cận hình thức học
tập này. Luôn tạo mọi điều kiện trong các hình thức kiểm tra để học sinh cải thiện
tâm lý học tập. Ngoài ra, với đối tượng học sinh này việc ra đề kiểm tra của giáo
viên cũng phải phù hợp với học lực của các em, tránh gây áp lực để thu được kết
quả như mong muốn.
Bước 3: Giáo viên định hướng cách học tập cho các đối tượng học sinh khá
giỏi.
Ngoài định hướng chung dành cho tất cả các đối tượng học sinh thì các học
sinh khác giỏi cần chú ý tham khảo thêm những bài tập vận dụng kiến thức nâng
cao trong sách nâng cao nhằm khái quát kiến thức theo bài, theo chương.
Khi các đối tượng học sinh làm quen được cách thức học tập trên thì giáo
viên định hướng cho học sinh xây dựng các câu hỏi trắc nghiệm ở cấp độ vận dụng
cao, tăng thêm hứng thú học tập cho các học sinh khá giỏi.
* Đối với học sinh khá, giỏi, việc phát huy tính tích cực học tập có thể
hướng dẫn học sinh tự học bằng các hướng sau:
Với đối tượng học sinh này, giáo viên cần khuyến khích các em tự học theo
cách riêng của bản thân. Ngoài học theo nội dung kiến thức chốt trong vở, trong
sách giáo khoa, học sinh còn tìm hiểu thêm nội dung trong sách tham khảo, trên
các phương tiện internet, học sinh cũng có thể học trực tuyến trên internet để tăng
thêm hiểu biết bộ môn. Khuyến khích học sinh đọc sách tại thư viện để bổ trợ thêm
kiến thức.
Ví dụ trong phần củng cố - luyện tập của tiết 2- đại số 9: CĂN THỨC BẬC
HAI VÀ HẰNG ĐẲNG THỨC A 2 = A . Giáo viên có thể chuẩn bị thêm nội
dung có tính chất mở rộng, nâng cao thêm cho học sinh như :
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
15



Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk

2+ x
có nghĩa khi:
x−3

Câu 1:

A. x ≥ -2

B. x ≤ 3

C. x > 2 và x < 3

D. x > 3 hoặc x ≤ -

2
Câu 2: (2 + x)( x − 3) có nghĩa khi:
A. x ≥ -2
B. x ≤ 3
C. x > 2 và x < 3

D. x ≥ 3 hoặc x ≤

Câu 3: x 2 − x − 6 có nghĩa khi:
A. x ≥ -2

B. x ≤ 3
C. x > 2 và x < 3

D. x ≥ 3 hoặc x ≤

-2

-2
Câu 4:
A. x ≥ -2

2+ x
có nghĩa khi:
x2 + 1
B. x ≤ 3

C. x > 2 và x < 3

D. x ≥ 3 hoặc x ≤

-2
Các câu hỏi trên về kiến thức cơ bản áp dụng vẫn là điều kiện để căn thức có
nghĩa, tuy nhiên đã được mở rộng và yêu cầu học sinh cần chú ý thêm điều kiện để
tồn tại phân thức hay câu 3 để tìm được đáp án đúng cần áp dụng kiến thức về
phân tích đa thức thành nhân tử, những câu hỏi dạng này chỉ giành cho học sinh
khá giỏi, không phải vì nó quá khó mà vì thời lượng giành cho một câu trắc
nghiệm thường ít nên đòi hỏi học sinh cần có tư duy tốt mới tìm ra được nhanh đáp
án và giáo viên nên khuyến khích các em chứ không nên đặt ra yêu cầu cần đạt cho
tất cả các đối tượng học sinh. Vì vậy để định hướng cho học sinh xây dựng được
câu hỏi dạng mở rộng kiến thức như trên theo tôi trong quá trình dạy học giáo viên

cần lồng ghép ngay trong tiết dạy, đặc biệt là các tiết Luyện tập giáo viên cần xây
dựng các dạng bài tập được phát triển từ các bài tập cơ bản để định hướng cho học
sinh xây dựng (tùy vào các nội dung kiến thức để xây dựng). Với nội dung kiến
thức trên tôi đã dẫn dắt học sinh phát triển các câu trắc nghiệm từ nội dung câu hỏi
sau:

2 + x có nghĩa khi:
A. x ≥ -2
Hoặc

B. x ≤ 3

C. x > 2

D. x ≥ 3

C. x > 0

D. x ≥ 2

2x có nghĩa khi:

A. x ≥ 0

B. x ≤ 0

Tôi đặt ra cho học sinh tình huống: nếu biểu thức dưới dấu căn không phải là
đơn thức hay đa thức mà là phân thức hay phân thức với mẫu dương hay tích hai
đa thức.....thì sẽ có nội dung của các câu trắc nghiệm khác, để chọn được đáp án
đúng cần tổng hợp một vài đơn vị kiến thức đã học.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
16


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Hoặc giáo viên có thể rèn luyện tư duy logic cho học sinh và giúp học sinh
vận dụng thành thạo kiến thức đã học qua nội dung kiến thức bài hệ phương trình
theo cách sau:
Giáo viên cho phương trình 2x - y = 5 yêu cầu học sinh lấy thêm một
phương trình để tạo thành hệ phương trình vô nghiệm hay có một nghiệm hay có
vô số nghiệm. Học sinh sẽ dễ dàng tìm được phương trình thứ hai phù hợp với đáp
án đã định sẵn.
Với các bài tập nâng cao, mở rộng dành cho học sinh khá giỏi, việc định
hướng cho học sinh không dễ dàng và để phân loại chính xác đối tượng học sinh
tôi thường không yêu cầu học sinh xây dựng bài tập nâng cao mà chỉ khuyến khích
các em tìm tòi các dạng bài tập nâng cao thông qua các quyển sách nâng cao trên
thị trường hay học tập qua mạng Internet và tôi sẽ cộng thêm điểm vào bài thu
hoạch nếu bài tập đưa ra có tính ứng dụng cao, vận dụng được kiến thức và học
sinh giải được bài tập mà bản thân đưa ra.
Giải pháp 2: Giao nhiệm vụ cho từng nhóm học tập
Sau một vài câu hỏi trắc nghiệm do giáo viên hướng dẫn cho học sinh thông
qua các bài học thì học sinh sẽ quen dần với hình thức học này, lúc đó giáo viên có
thể giao nhiệm vụ trực tiếp cho từng nhóm học sinh.
Giáo viên cần nêu rõ nhiệm vụ để các nhóm thực hiện công việc được rõ
ràng, mang lại hiệu quả thiết thực.
Một là mỗi nhóm xây dựng một bài thu hoạch cuối chương gồm hai phần
(phần trắc nghiệm và phần tự luận).
Hai là về số lượng: sau mỗi bài học cần xây dựng được hai đến ba câu trắc

nghiệm liên quan đến nội dung vừa học.
Ba là: nội dung các câu trắc nghiệm cần xoay quanh các kiến thức đã học và
cơ sở để xây dựng các câu trắc nghiệm chính là nội dung cơ bản cần khắc sâu sau
mỗi bài học.
Bốn là nội dung phần tự luận sẽ xây dựng sau khi học xong một chương, có
thể bám sát nội dung các bài tập ôn tập cuối chương để ra bài tập cho nhóm hoặc
tham khảo các sách có trong thư viện nhà trường.
Năm là bài thu hoạch cần thỏa mãn điều kiện: khi nộp cho giáo viên yêu cầu
tất cả các thành viên trong nhóm đều hoàn thành được bài thu hoạch của nhóm,
nếu có thành viên chưa hoàn thành nội dung bài thu hoạch thì nhóm đó sẽ bị trừ
điểm, tùy vào mức độ mà giáo viên đặt ra chế tài phù hợp. Khuyến khích các nhóm
học sinh tự ra và giải được các bài tập ở cấp độ vận dụng cao.
Việc giao nhiệm vụ theo nhóm học tập giúp cho học sinh có cơ hội được học
tập thêm bạn bè, tăng thêm tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Những
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
17


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
học sinh có năng lực nhận thức chậm hơn sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn cách thức học
tập này thông qua hướng dẫn của nhóm trưởng.
Sản phẩm của nhóm học sinh được đính kèm sau trang 23(xin trình bày một
số bài điển hình có các câu hỏi sát với nội dung vừa học và thể hiện sự đầu tư)
Để công tác đánh giá mức độ tiếp thu của học sinh được chính xác tôi tiến
hành bước tiếp theo.
Giải pháp 3: Tiến hành giao nhiệm vụ cho cá nhân
Nhằm đánh giá học sinh được chính xác và tạo cho giáo viên cơ hội điều
chỉnh phương pháp dạy học phù hợp với mọi đối tượng học sinh, tôi tiến hành giao

nhiệm vụ cho mỗi học sinh với các nhiệm vụ cụ thể như đối với nhóm ở trên.
Để mọi đối tượng học sinh đều có bài thu hoạch nộp cho giáo viên thì tôi
yêu cầu học sinh hoàn thành bài thu hoạch đúng thời gian quy định và sẽ lấy vào
điểm kiểm tra thường xuyên.
Sẽ cộng thêm điểm cho các học sinh tự ra cho mình các bài tập tương tự
hoặc các bài tập nâng cao với điều kiện là học sinh đó hay nhóm học sinh đó phải
hiểu và giải thành thạo bài tập mà mình đã đặt ra.
Đối với các bài tập mang tính tổng hợp kiến thức của cả chương, của học kỳ
thì yêu cầu học sinh sau khi học xong các đơn vị kiến thức thì tiến hành ra các bài
tập tương tự, khuyến khích các học sinh tự ra cho mình các bài tập hoặc các câu
hỏi ở cấp độ vận dụng cao và có thể tăng hứng thú cho học sinh bằng các điểm số.
Sản phẩm của cá nhân học sinh được đính kèm sau trang 23(xin trình bày
một số bài điển hình có các câu hỏi sát với nội dung vừa học và thể hiện sự đầu
tư)
Giải pháp 4: Tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận, rút ra bài học
kinh nghiệm.
Để tăng tính hiệu quả của phương pháp học tập này và tạo môi trường học
tập tích cực cho mọi đối tượng học sinh trong các tiết ôn tập thì giáo viên tiến hành
tổ chức cho các em thảo luận trao đổi các vấn đề mà nhóm hay cá nhân đã chuẩn
bị. Lần lượt các cá nhân hay đại diện của các nhóm học sinh trình bày, các học sinh
khác tiến hành nhận xét đánh giá bài làm của bạn.
Trước khi học sinh trao đổi với nhau thì giáo viên cần kiểm duyệt bài làm
của các nhóm để tránh trùng lặp lại câu hỏi hay nội dung câu hỏi, đáp án đưa ra
không chính xác...
Sau khi các em đã đã hoàn thành bài thu hoạch thì giáo viên tiếp tục tổ chức
cho các em thảo luận, nếu gặp vấn đề gì vướng mắc thì tổng hợp và nhờ giáo viên
giải thích.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
18



Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Giáo viên có thể tận dụng các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ hoặc các tiết
luyện tập để tổ chức cho học sinh thảo luận, những buổi học này cần có sự góp mặt
của giáo viên để kịp thời sửa chữa những sai lầm cho học sinh.
Sau khi học sinh trao đổi thảo luận xong giáo viên chốt lại các kiến thức
trọng tâm và tiến hành nhận xét bài làm của các nhóm, các học sinh. Bước này
chúng ta có thể tiến hành trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ hay trong các
tiết ôn tập, các tiết dạy học phụ đạo.
3.1. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Do việc tự đặt cho mình câu hỏi củng cố kiến thức đối với mỗi học sinh còn
rất mới nên giáo viên cần phát huy tối đa vai trò của giáo viên trong việc hướng
dẫn học sinh tiếp cận với hình thức tự học, giúp cho học sinh nắm được cách thức
để tiến hành được giải pháp trên, đó là hướng dẫn cho học sinh thấy được kiến thức
trọng tâm trong bài học áp dụng vào nội dung câu hỏi này là gì và nội dung đáp án
cần hướng tới là gì ?
Vai trò là người hướng dẫn giáo viên định hướng cho học sinh sau mỗi bài
học cần đặt ra ngay cho mình các câu hỏi và phương án trả lời phù hợp như vậy
học sinh vừa tiết kiệm được thời gian làm bài thu hoạch và vừa khắc sâu được kiến
thức sau mỗi bài học.
Cần có sự đồng thuận hợp tác giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm
và ban cán sự lớp nhắc nhở học sinh học tập để hoàn thành các nhiệm vụ giáo viên
giao phó.
Để đạt được hiệu quả củng cố khắc sâu kiến thức, tạo cho học sinh cơ hội
trình bày ý kiến, trao đổi, thảo luận với bạn bè giáo viên cần có phương án kiểm
tra, đánh giá trong quá trình tổ chức hoạt động học và quan tâm đến hiệu quả hoạt
động trong việc tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động và quá trình thảo

luận của học sinh. Giáo viên nhận xét học sinh cần theo nguyên tắc nhận xét có ưu
điểm, có tồn tại và có biện pháp khuyến khích học sinh học tập kịp thời.
3.2. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Giáo viên muốn đạt được mục tiêu lấy người học làm trung tâm thì chính
giáo viên phải làm tốt vai trò là người truyền đạt kiến thức, hướng dẫn học sinh
hiểu và xác định được “chìa khóa” để xây dựng nên một bài tập trắc nghiệm là gì.
Để làm tốt điều này chính giáo viên cũng cần tìm tòi kiến thức, mở rộng kiến thức
theo nhiều cách khác nhau để học sinh khắc sâu kiến thức và vận dụng một cách
thành thạo các nội dung cần khai thác.
Giáo viên đã hoàn thành nhiệm vụ, tuy nhiên không phải tất cả các học sinh
đều tiếp thu vận dụng được do đó để mọi học sinh có thể vận dụng được cách học
này thì tôi tiến hành cho học sinh học theo bạn, vừa để khắc phục khó khăn trên
vừa tăng thêm tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
19


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Để cho học sinh phát huy được năng lực tự học, tự tìm tòi sáng tạo, không ỷ
lại tập thể và cũng để kiểm tra mức độ tiếp thu kiến thức bài học và cách thức vận
dụng phương pháp học tập mới này của từng cá nhân học sinh như thế nào thì hình
thức giao nhiệm vụ cho từng cá nhân sẽ đáp ứng được yêu cầu.
Tránh sự rập khuôn, tạo hứng thú trong học tập, kiểm tra đánh giá được học
sinh qua quá trình lĩnh hội và tiếp thu kiến thức giúp giáo viên xây dựng được một
ma trận đề kiểm tra phù hợp với mọi đối tượng học sinh đáp ứng điều kiện cần có
của một trường chuẩn quốc gia.
Khi học sinh trao đổi bài thu hoạch với nhau là học sinh đã khắc sâu được
kiến thức rất nhiều tránh lối học vẹt, học trước quên sau, không áp dụng được lý

thuyết vào giải bài tập.....Đây chính là chìa khóa để học sinh hoàn thành tốt bài
kiểm tra năng lực cuối mỗi chương.
Các đối tượng học sinh trong một lớp có trình độ nhận thức khác nhau, vì
thế những học sinh có lực học tốt sẽ cảm thấy nhàm chán khi phải ôn lại trong tiết
ôn tập những kiến thức giành cho học sinh đại trà mà không được nâng cao hay mở
rộng thêm vì thế giáo viên cần định hướng để học sinh xây dựng thêm nội dung
kiến thức ở cấp độ vận dụng cao dành cho các đối tượng học sinh khá giỏi.
3.3. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài tôi thực hiện ở các lớp 9A1;
9A2, 9A4 năm học 2016– 2017 và áp dụng trong học kỳ I năm học 2017- 2018 đối
với lớp 9A1, 9A3, 9A4 trường THCS Lương Thế Vinh đã thu được một số kết quả
như sau:
• Chất lượng học sinh khi chưa thực hiện đề tài:
- Đối với một số học sinh yếu, học sinh đồng bào và học sinh có ý thức học
chưa cao để hoàn thành bài ôn tập chương bằng cách trả lời câu hỏi ôn tập thì các
em thường lật lại các bài học cũ để chép câu trả, có những chương kiến thức nhiều
thì các em trả lời chỉ để đối phó với việc kiểm tra của giáo viên chứ lượng kiến
thức khắc sâu trong đầu là rất ít.
- Những học sinh có lực học yếu khi đến giờ ôn tập chương thường có thái độ
chán nản vì đây là tiết học tổng hợp kiến thức và khi áp dụng làm các bài tập
thường lúng túng do việc nắm kiến thức cũ còn mơ hồ.
- Sau khi học sinh được ôn tập xong các em sẽ tiến hành làm bài kiểm tra định
kỳ và theo hướng dẫn của Phòng giáo dục đào tạo huyện Krông Ana chúng tôi tiến
hành xây dựng đề kiểm tra gồm phần trắc nghiệm và phần tự luận, lúc này học sinh
thường lúng túng trong việc chọn đáp án đúng hay dễ bị đánh lừa và chọn phương
án trả lời không đúng với yêu cầu của đề bài vì học sinh không nắm vững kiến
thức, cách thức làm bài tập trắc nghiệm ngoài ra các phương án trả lời gần tương tự

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
20



Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
nhau, đòi hỏi học sinh cần có kỹ năng làm bài, vận dụng được lý thuyết vào giải
bài tập.
• Chất lượng học sinh khi thực hiện đề tài:
- Học sinh có ý thức hơn trong học tập, có cơ hội trình bày những hiểu biết
của mình trước tập thể tạo cho học sinh sự tự tin, lòng yêu thích học tập bộ môn và
cảm giác vui mừng khi đạt được điểm cao trong bài kiểm tra định kỳ.
- Nhiều em đã có kỹ năng trong việc làm các bài tập trắc nghiệm, tự ra các
câu hỏi khắc sâu kiến thức cho mình thông qua quá trình tìm tòi lời giải và các
phương án trả lời học sinh đã khắc sâu được kiến thức và linh hoạt hơn trong việc
chọn đáp án.
- Rèn cho học sinh cách sử dụng chính xác từ ngữ trong câu hỏi tránh lẫn lộn
giữa các từ ngữ mang hàm ý hỏi trong câu trả lời.
- Những học sinh có lực học khá giỏi sẽ có cơ hội thể hiện trí thông minh, óc
sáng tạo khi tìm tòi các bài tập vận dụng ở cấp độ cao vì không những các em nhận
được điểm cao khi hoàn thành bài thu hoạch mà các em còn có cơ hội nâng cao
kiến thức, phát huy sự hiểu biết, tính tích cực trong học tập.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
* Kết quả trước khi thực hiện:
Khi chưa áp dụng phương pháp học tập này ở các lớp 9A1, 9A3, 9A4 thì kết
quả chọn đáp án đúng cho câu trả lời trong phần trắc nghiệm của các lớp 9A3, 9A4
là tương đối thấp, các em chỉ đạt từ 0,5 điểm đến 2,5 điểm/3 điểm trong phần trắc
nghiệm, riêng lớp 9A1 là lớp có chất lượng đầu vào cao hơn so với các lớp khác
nên khi gặp đề thi này vẫn có những em không đạt được điểm tối đa trong phần
trắc nghiệm. Kết quả dưới đây được thống kê theo chất lượng bài làm của học sinh

kể cả trắc nghiệm và tự luận theo thang điểm 10, kết quả cụ thể:

Lớp

Số học sinh

9A1

Học sinh trên trung bình

Học sinh dưới trung bình

Số lượng

%

Số lượng

%

36

30

83

6

17


9A2

28

17

61

11

39

9A5

27

18

66,7

9

33,3

Cộng

91

65


71

26

29

Kết quả trước khi thực hiện đề tài đối với lớp 9A1, 9A2, 9A5 năm học 2016
– 2017:
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
21


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
Lớp
Số học sinh Học sinh trên trung bình Học sinh dưới trung bình
9A1
9A3
9A4
Cộng

37
28
28
93

Số lượng
32
22

20
74

%
86
78
71
80

Số lượng
5
6
8
19

%
14
22
29
20

* Kết quả sau khi thực hiện:
Sau khi xây dựng cho học sinh cách thức làm bài thu hoạch ôn tập chương
và tiến hành áp dụng ôn tập chương theo các biện pháp đã nêu ở trên tôi đã thu
được những kết quả sau:
Về phía học sinh: đa số các em đã nắm được kiến thức cơ bản của chương,
biết áp dụng kiến thức để lựa chọn đáp án đúng và giải các bài tập vận dụng ở các
cấp độ khác nhau. Sau khi các em hoạt động theo nhóm cộng với sự hướng dẫn
kiểm duyệt bài thu hoạch ôn tập của giáo viên thì chất lượng bài thu hoạch được
cải thiện nhiều và khắc phục được phần nào những khó khăn mà khi chưa áp dụng

đề tài đã đặt ra, đó là giảm tải được việc dồn ép kiến thức trong tiết ôn tập chương,
khắc sâu được kiến thức cho học sinh, giúp học sinh thành thạo hơn với cách làm
bài tập trắc nghiệm, học sinh có được tư duy linh hoạt trong việc đề ra đáp án và
lựa chọn đáp án đúng.
Về phía giáo viên: tôi đã hoàn thành kế hoạch bài dạy theo thiết kế của
mình, ngoài ra tôi còn có thể mở rộng thêm được kiến thức cho học sinh các lớp có
lực học khá giỏi, tạo được không khí thân thiện gần gũi giữa giáo viên và học sinh
khi trao đổi các vấn đề xung quanh nôi dung ôn tập.
Kết quả mà tôi thu được qua các bài thu hoạch ôn tập chương của học sinh
(minh chứng kèm theo sau trang 15)
Thông qua các bài thu hoạch của học sinh tôi tiến hành ra đề kiểm tra theo
chuẩn kiến thức kỹ năng phù hợp với mức độ nhận biết của đại đa số học sinh.
Tôi giới thiệu một số đề kiểm tra áp dụng cho học sinh trường tôi như sau:

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
22


Mt s kinh nghim giỳp hc sinh phỏt huy tớnh tớch cc hc tp thụng qua tit ụn
tp mụn Toỏn lp 9 ti trng THCS Lng Th Vinh Huyn Krụng Ana Tnh
k Lk
PHềNG GD-T KRễNG ANA
TRNG THCS LNG TH VINH

KIM TRA NH K S 1
Nm hc 2016- 2017
Mụn: Toỏn 9 (Tit PPCT:18)
Thi gian lm bi: 45 phỳt

H v tờn :.........................................

Lp 9A .....

I :
I.
TRC NGHIM: (3 im)
Câu 1: Nếu căn bậc hai số học của một số là 4 thì số đó là:
A. - 2
B. 2
C. 16
D. - 16
Câu 2: Căn bậc hai số học của (- 4) 2 là:
A. 4
B. - 4
C. - 4 và 4
D. 8
Câu3: 2 x 7 có nghĩa khi:
A. x

7
2

B. x

7
2

C. x

2
7


D. x

2
7

Câu 4: Kết quả của phép tính:
(1 2) 2 - (1 + 2) 2 là:
A. 2
B. - 2
C. - 2
D. 2
Cõu 5: Tt c cỏc giỏ tr ca x x Ê 4 l:
A. x > 16
B. 0 Ê x Ê 16
C. x < 16
D.
0 x < 16
Cõu 6: Kt qu ca phộp tớnh 3 27 3 125 l:
A.2
B.-2
C. 3 98
D. 3 98
II. T LUN (7 im)
Bi 1 : (3 im) Tớnh:
a) 12 . 12a10 (a 0 )

(

)


c) 2 5 3 + 125 ì 5 + 15

20
20
+
7 5
7+ 5
1
1
1

Bi 2 :(3 im) Cho biu thc : A =
:

x 1
x 1 x 1

b) 3 2 + 5 8 18

e)
f)
g)
h)

d)

Rỳt gn A.
Tỡm x A = 2.
Tỡm x Z A Z.

Tỡm GTNN ca biu thc A.

Bi 3: (1 im) Chng minh rng :

1 1 1
1
1
+ + + ... +
<
2
2
5 13 25
2017 + 2018
2

Bựi Th nh Tuyt - Trng THCS Lng Th Vinh - Krụng Ana - k Lk
23


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
PHÒNG GD-ĐT KRÔNG ANA
ĐỀ KIỂM TRA CHƯƠNG I
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH Năm học 2016- 2017
Môn: Hình Học 9 (Tiết PPCT:19)
Họ và tên :.........................................
Thời gian làm bài: 45 phút
Lớp 9A .....
ĐỀ I :

I.

TRẮC NGHIỆM: (3 điểm)

Câu 1: Dựa vào hình 1 hãy chọn câu đúng nhất:
A. AC2 = BC. CH
B. AC2 = BC. BH
C. AC2 = BC2 + AB2
D. AB . AH = AC . BC.
Câu 2: Dựa vào hình 1. Biết BH = 4cm, HC = 9cm, độ dài của AH bằng:
A. 6cm
B. 13 cm
C. 6 cm
D. 2 13 cm
Câu 3: Cho tam giác ABC vuông tại A. Hệ thức nào sau đây là đúng:
A. AB = BC. cosC
B. AC = BC . sin B
C. AB = AC . tanB
D. AC = AB.cotB
0
Câu 4: Tam giác ABC vuông tại A có Bˆ = 30 và BC = 18. Độ dài AC là:
A. 18
B. 12
C. 9 3
D. 9.
Câu 5: Dựa vào hình 2, sin α bằng:
A.

4
3


B.

3
4

C.

4
5

D.

3
.
5

sin 40 0
Câu 6: Giá trị của biểu thức
bằng
cos 50 0

A. 0
B. 1
C. – 1
D. 2.
II. TỰ LUẬN (7 điểm)
Bài 1: ( 6 điểm) Cho ∆ ABC vuông tại A Biết AB = 3cm, BC = 5cm.
a) Giải tam giác vuông ABC.( số đo góc làm tròn đến độ)
b) Từ B kẻ đường thẳng vuông góc với BC, đường thẳng này cắt đường thẳng

AC tại D. Tính độ dài các đoạn thẳng AD, BD.
c) Gọi E, F lần lượt là hình chiếu của A trên BC và BD .
Chứng minh : BF.BD = BE.BC
d) Tính: cos6B + sin6B + 3sin2 B cos2B
Bài 2: ( 1 điểm) Cho tam giác ABC nhọn.
Chứng minh rằng: AB2 = AC2 + BC2 – 2 AC.BC. cosC
Kết quả sau khi chấm bài học sinh:

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
24


Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn
tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh
Đăk Lăk
- Nhận xét chung: đa số học sinh các lớp đều hoàn thành tương đối tốt nội
dung phần trắc nghiệm, biết lý luận để vận dụng kiến thức vào giải các bài tập
mang tính chất tổng hợp kiến thức của cả chương.
- Kết quả cụ thể, kết quả này tôi tổng hợp thông qua bài kiểm tra định kỳ số
1 phần đại số môn toán 9 năm học 2016 -2017:
Lớp
9A1
9A2
9A5
Cộng

Số học sinh
36
28
27

91

Học sinh trên trung bình
Số lượng
36
23
18
77

%
100
82
67
85

Học sinh dưới trung bình
Số lượng
0
5
9
14

%
18
33
15

Kết quả học kỳ I năm học 2017 -2018 là:
Lớp
9A1

9A3
9A4
Cộng

Số học sinh
37
28
28
93

Học sinh trên trung bình
Số lượng
37
23
22
82

%
100
82
79
88

Học sinh dưới trung bình
Số lượng
0
5
6
11


%
18
21
12

Các bài kiểm tra định kỳ tiếp theo tôi vẫn tiến hành theo các biện pháp trên
và kết quả thu được cũng rất khả quan, có những lớp có sự tiến bộ rõ rệt, chất
lượng đại trà được cải thiện.

III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
25


×