Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

“ Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.05 KB, 23 trang )

A.

MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, cùng với xu
hướng hội nhập quốc tế, đất nước ta đã có nhiều thay đổi đáng
kể, xã hội ngày càng phát triển, mức sống của người dân ngày
càng được cải thiện. Tuy nhiên, đi kèm với đó là rất nhiều vấn đề
phức tạp nảy sinh. Muốn xã hội phát triển ổn định, chúng ta
phải có nhiều phương pháp điều chỉnh hợp lý và cụ thể, trong
đó phải kể đến vai trò của gia đình trong xã hội hiện đại ngày
nay. Gia đình là tế bào của xã hội; gia đình có hạnh phúc, bình
đẳng thì xã hội mới có trật tự và phát triển đúng hướng. Từ đó
có thể thấy rằng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện
nay thì Luật hôn nhân và gia đình luôn là một trong những luật
quan trọng nhất và luôn phải mang tính thức thời để phù hợp
với tiến trình phát triển chung của xã hội, cũng như tạo thêm
động lực cho công cuộc hiện đại hóa đất nước.
Điều kiện kết hôn là một trong những chế định quan trọng
hàng đầu của luật hôn nhân và gia đình. Theo nhìn nhận và
đánh giá của nhiều luật gia, những quy định về điều kiện kết
hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 đã thể
hiện được sự tiến bộ của pháp luật nước ta trong suốt quá trình
hoàn thiện và phát triển. Để làm rõ và tìm hiểu kĩ hơn về quy
định này em chọn nghiên cứu đề tài số 1: “ Điều kiện kết hôn
theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014” .

1


B.
I.



NỘI DUNG
Khái quát chung
1. Luật hôn nhân và gia đình
a. Khái niệm
Với ý nghĩa là một môn học, luật hôn nhan và gia đình Việt
Nam là hệ thodng khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá
mang tính lý luận về pháp luật hôn nhân và gia đình và thực
tiễn áp dụng, thi hành pháp luật hôn nhân và gia đình.
Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể, luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam là văn bản pháp luật trong đó có chứa
đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.
Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam , luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình , bao gồm các quan hệ về
nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
con và giữa những thành viên trong gia đình.
Với ý nghĩa là một ngành luật , luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
riêng.
b.

Đối tượng điều chỉnh

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; cụ
thể là các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản phát sinh
2



giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con và giữa những người
thân thích ruột thịt khác. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của
Luật Hôn nhân và gia đình là quan hệ về nhân thân và về tài
sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình.
Quan hệ nhân thân là những lợi ích tinh thần, là yếu tố tình
cảm phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và giữa
những người thân thích ruột thịt khác trong gia đình. Quan hệ
nhân thân tự nó không mang nội dung kinh tế. Quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng là những lợi ích nhân thân mà mỗi bên vợ
chồng được hưởng khi họ xác lập quan hệ hôn nhân với nhau
như: Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau,
quyền được nhập quốc tịch theo quốc tịch của vợ hoặc chồng,
quyền về nơi cư trú... Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con là:
Tình yêu thương của cha mẹ đối với con, tình yêu và lòng kính
trọng của con đối với cha mẹ, quyền của con là được mang họ
của cha hoặc mẹ, quyền của con trong việc được xác định dân
tộc hoặc quốc tịch theo dân tộc hoặc quốc tịch của cha hoặc
của mẹ...
Quan hệ tài sản là những lợi ích về tài sản phát sinh giữa
vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và giữa những người thân
thích ruột thịt khác. Quan hệ tài sản luôn mang nội dung kinh
tế, là tiền bạc, tài sản... Đó là quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ
và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ
và chồng, giữa các thành viên khác trong gia đình; là các quan
hệ về sở hữu tài sản giữa vợ và chồng...
Đặc điểm đối tượng điều chỉnh
Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa
quyết định trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều đó có
3



nghĩa là khi các cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hôn
nhân và gia đình thì giữa họ phát sinh các quyền và nghĩa vụ về
nhân thân. Vì có mối quan hệ về nhân thân nên giữa họ mới
phát sinh quan hệ về tài sản.
Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là đặc điểm cơ
bản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Các thành viên trong
gia đình gắn bó với nhau trước hết là bởi yếu tố tình cảm. Đó là
tình yêu thương giữa vợ và chồng, tình thương yêu và sự kính
trọng giữa cha mẹ và con, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em
với nhau và giữa các thành viên khác trong gia đình. Đây là đặc
điểm mang tính đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình.
Quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình gắn liền với
nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác
được.
Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tồn
tại lâu dài và bền vững. Chẳng hạn, trong quan hệ vợ chồng,
chừng nào mà hôn nhân còn tồn tại thì vợ chồng vẫn phải thực
hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và về tài sản đối với
nhau. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con thì nghĩa vụ nuôi
dưỡng được thực hiện trong thời gian rất dài, nhiều khi là suốt
đời.
Quyền và nghĩa vụ về tài sản trong quan hệ hôn nhân và
gia đình không mang tính chất đền bù và ngang giá. Ví dụ: Vợ
chồng không thể tính công trong việc chăm sóc lẫn nhau, cha
mẹ không thể tính tiền nuôi dưỡng con để khi con lớn họ “đòi
nợ” con, bởi vì điều đó trái với tính chất của quan hệ hôn nhân
và gia đình và trái với đạo lý truyền thống, trái với đạo đức xã
hội.

4


c.

Phương pháp điều chỉnh

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là
những biện pháp, cách thức mà các quy phạm pháp luật hôn
nhân và gia đình tác động tới các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình, nhằm làm cho
những quan hệ này phát sinh, tồn tại, chấm dứt phù hợp với ý
chí của Nhà nước.
Xuất phát từ đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là quan hệ giữa
các chủ thể gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm, huyết thống
hoặc nuôi con nuôi nên Luật Hôn nhân và gia đình có phương
pháp điều chỉnh linh hoạt và mềm dẻo. Hầu hết các qui phạm
pháp luật hôn nhân và gia đình không quy định biện pháp chế
tài kèm theo.
Đặc điểm phương pháp điều chỉnh
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể luôn gắn bó mật thiết và tương ứng với nhau.
Quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại.
Hơn nữa, trong quan hệ hôn nhân và gia đình các chủ thể tham
gia vừa có quyền, vừa phải thực hiện nghĩa vụ.
Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải
xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Bởi vì, quyền hôn nhân
và gia đình được biểu hiện cụ thể trong gia đình, nếu gia đình
không còn tồn tại thì quyền hôn nhân và gia đình của các chủ

thể khó có thể tồn tại.
Các chủ thể không được phép bằng sự tự thỏa thuận để
làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy
5


định. Luật Hôn nhân và gia đình quy định quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình
xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội, của các
chủ thể khác và của chính bản thân các chủ thể. Việc các chủ
thể tự thỏa thuận để thay đổi các quyền và nghĩa vụ của họ sẽ
ảnh hưởng tới các lợi ích mà pháp luật bảo vệ.
Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình luôn gắn bó
mật thiết với các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán và lẽ
sống trong xã hội.
2.

Kết hôn

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi thực hiện
các quy định của pháp luật về kết hôn tại cơ quan đăng kí kết
hôn nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc. (Khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình
2014).
Đặc điểm của hôn nhân theo luật hôn nhân và gia đình :
Hôn nhân một vợ một chồng;
Hôn nhân là sự liên kết trên cơ sở tự nguyện của hai bên
nam nữ;
Các bên trong quan hệ hôn nhân hoàn toàn bình đẳng
trước pháp luật;

Các bên xác lập quan hệ hôn nhân nhằm cùng nhau sinh
sống và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ;
Các bên tham gia quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các
quy định của pháp luật.

6


Kết hôn là sự kiện pháp lý được tiến hành tại cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam
và nữ, khi hai bên nam nữ tuân thủ quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn.(khoản 5 Điều 3 luật hôn
nhân và gia đình 2014).
II.

Điều kiện kết hôn
Để nam, nữ trở thành vợ chồng của nhau trước pháp luật
thì việc kết hôn của họ phải hợp pháp. Theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình, khi nam nữ kết hôn phải tuân theo các
qui định về điều kiện kết hôn.
Theo Điều 8 luật hôn nhân và gia đình 2014:
1.

Tuổi kết hôn
Trên cơ sở đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của

hôn nhân, căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người,
vào khả năng nhận thức của cá nhân, khả năng tự đảm bảo và
duy trì cuộc sống, cũng như căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội... nên pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy
định tuổi kết hôn tối thiểu.

Theo Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định tuổi kết hôn: “Nam từ đủ hai mươi tuổi trở
lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên được kết hôn”. Có nghĩa là
nam không được kết hôn trước khi từ đủ hai mươi tuổi, nữ không
được kết hôn trước khi từ đủ mười tám tuổi.
Quy định tuổi kết hôn tối thiểu thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước đối với sức khỏe của cả nam và nữ, bảo đảm cho nam
nữ có đủ khả năng về sức khỏe, nhận thức để đảm đương được
trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Đồng thời,
7


quy định này còn bảo đảm cho con cái sinh ra được khỏe mạnh
cả về thể lực lẫn trí tuệ, đảm bảo cho con cái được giáo dục
toàn diện để trở thành công dân có ích cho xã hội. Quy định độ
tuổi cho phép nam nữ kết hôn là tạo điều kiện cho việc xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Về cách tính tuổi kết hôn: theo luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì
được đăng kí kết hôn. Tức là nam bước sang tuổi 20, nữ bước
sang tuổi 18 thì được phép đăng kí kết hôn. Từ ngày
01/01/2015, khi luật hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi
hành thì nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 mà kết
hôn là vi phạm. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình
2014 thì nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở
lên mới được phép kết hôn.
Ví dụ: Theo luật hôn nhân và gia đình 2000, N (giới tính nam)
sinh ngày 10/5/1995 thì đến tháng 01/01/2015 N được phép kết
hôn. Còn theo luật hôn nhân và gia đình 2014 thì đến tháng
10/5/2015 N mới được phép kết hôn, tức là N phải đủ ngày,

tháng tròn 20 tuổi mới được kết hôn.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định
nâng độ tuổi kết hôn nhằm thống nhất với các quy định khác
của pháp luật. Mặt khác việc quy định nữ từ đủ 18 tuổi trở lên
mới được kết hôn để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người vợ sau khi kết hôn... cũng như đảm bảo lợi ích của cá
nhân, gia đình, xã hội.
2.

Sự tự nguyện khi kết hôn
Hôn nhân là sự liên kết lâu dài giữa một người nam và một

người nữ nhằm xây dựng gia đình, sinh đẻ và nôi dạy con cái.
8


Để đảm bảo cho hôn nhân tồn tại bền vững thì người kết hôn
phải hoàn toàn tự nguyện.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại điểm b Khoản 1
Điều 8 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết
định;”
Sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn phải
thể hiện rõ là hai bên nam nữ mong muốn được gắn bó, chung
sống với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm nên đã quyết
định kết hôn. Sự tự nguyện của nam nữ trong việc kết hôn là
yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân của họ có thể tồn tại
lâu dài và bền vững.
Hai bên nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn, không
chịu bất kì sự thúc ép hoặc áp lực nào. Hành vi cưỡng ép kết
hôn, lừa dối để kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ

đều bị coi là vi phạm sự tự nguyện của nam nữ khi kết hôn.
Theo luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cấm “cưỡng ép
hôn nhân, luậtừa dối kết hôn, cản trở kết hôn”. (Điểm b Khoản 2
Điều 5).
Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành
hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc
người khác phải kết hôn trái ý muốn của họ. (Khoản 9 Điều 3
Luật hôn nhân và gia đình 2014). Hành vi cưỡng ép kết hôn có
thể do một bên kết hôn buộc bên kia phải kết hôn với mình,
cũng có thể là do cha mẹ, người thân hoặc người mà một trong
hai bên bị lệ thuộc buộc hai bên nam nữ phải kết hôn trái
nguyện vọng của họ. Hành vi cưỡng ép hôn nhân phải mang
tính quyết liệt làm cho người bọ cưỡng ép kết hôn không còn
lựa chọn nào khác nên phải kết hôn trái với nguyện vọng của
9


mình. Do vậy, nếu một người bị đe dọa nhưng không đủ căn cứ
cho rằng sự đe dọa đó xảy ra hoặc một người bị dụ dỗ mà đã
đồng ý kết hôn... thì không coi là bị cưỡng ép kết hôn.
Lừa dối kết hôn là việc một trong hai bên đã có hành động,
lời nói nhằm che đậy sựu thật về tư cách hoặc lý lịch tư pháp
đặc biệt xấu, làm cho người kia tưởng lầm nên đã đồng ý kết
hôn.Việc xác định hành vi lừa dối kết hôn cần căn cứ vào mức
độ gây thiệt hại của sự thật bị che đậy. Hơn nữa, trong việc kết
hôn, mỗi bên kết hôn cần phải có trách nhiệm với bản thân, cần
phải biết rõ hoàn cảnh gia đình, nhân thân của đối phương. Đối
với trường hợp người kết hôn nói sai sự thật về vị trí công tác,
thu nhập của bản thân, tài sản của gia đình... thì không bị coi là
lừa dối kết hôn.

Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ,
ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người
khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết
hôn.(Khoản 10 Điều 3 luật hôn nhân và gia đình 2014). Cản trở
kết hôn là hành vi của người thứ ba nhằm làm cho việc tự
nguyện kết hôn của nam, nữ khó thực hiện, thậm chí là không
thể thực hiện được. Hành vi cản trở kết hôn có thể do cha mẹ,
người thân... của người kết hôn hoặc có thể do cơ quan đăng kí
kết hôn thực hiện.
Pháp luật đòi hỏi việc kết hôn do chính người kết hôn
quyết định trên cơ sở mong muốn của họ. Do vậy, pháp luật
không cho phép cử đại diện trong việc kết hôn. Để đảm bảo
việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, pháp luật quy định nam nữ
phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn khi làm tờ khai
đăng ký kết hôn và trong lễ đăng ký kết hôn để họ được tự do
10


thể hiện ý chí và tình cảm của mình trong việc kết hôn. Trường
hợp một trong hai bên vắng mặt trong lễ đăng ký kết hôn phải
có lý do chính đáng. Đối với trường hợp này, nếu trước khi tổ
chức đăng ký kết hôn họ đã nộp đầy đủ các giấy tờ hợp lệ để
xin đăng ký kết hôn và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực
sự về chung sống với nhau thì việc kết hôn của họ vẫn được
công nhận.
Việc kết hôn phải đảm bảo sự tự nguyện của các bên. Do
vậy, những hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đều bị coi là trái pháp luật.
Trong thực tiễn, hiện tượng kết hôn thiếu sự tự nguyện của nam
nữ vẫn xảy ra tại một số các địa phương trong toàn quốc. Hiện

tượng này đã gây ảnh hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp
của những người kết hôn, gây hậu quả xấu cho gia đình và xã
hội. Để góp phần xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ,
Nhà nước cần có thái độ dứt khoát, xử lý nghiêm minh đối với
các trường hợp vi phạm điều kiện về sự tự nguyện khi kết hôn.
3.

Người kết hôn phải là người không bị mất năng lực
hành vi dân sự
Theo điểm c Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình

năm 2014 thì người kết hôn phải là người “không bị mất năng
lực hành vi dân sự”
Người mất năng lực hành vi dân sự là “người do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình thì yêu cầu người có quyền, lợi ích
liên quan, Toàn án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định…” (Khoản 1
Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005)
11


Như vậy, khi Quyết định tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì người đó
không đủ điều kiện để kết hôn. Quyến định của Tòa án là cơ sở
để cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký kết hôn nếu người
đó có tờ khai đăng ký kết hôn. Pháp luật quy định người kết hôn
phải không bị mất năng lực hành vi dân sự là xuất phát từ việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng và của con cái,
của các thành viên trong gia đình. Sau khi kết hôn nam, nữ phải

thực hiện nghĩa vụ của họ đối với vợ, với chồng, phải thực hiện
nghĩa vụ đối với các con.
Những người đang bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì cũng
không thể nhận thức và thực hiện được trách nhiệm làm vợ, làm
chồng, làm cha, làm mẹ. Nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng tới quyền
lợi của vợ hoặc chồng và con cái họ. Hơn nữa, một trong những
điều kiện kết hôn quan trọng để đảm bảo cho hôn nhân có giá trị
pháp lý là phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ. Những
người đang bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì không thể thực
hiện được ý chí, đồng thời cơ quan đăng ký kết hôn cũng không
thể đánh gia được sự tự nguyện của họ. Vì vậy, họ không thể kết
hôn.
Đồng thời, theo quy định tại khản 2 Điều 22 Bộ luật dân sự
năm 2005 thì “giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi
dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện”. Như vậy, người mất năng lực hành vi dân sự thì không
12


thể bằng hành vi của chính mình để tham gia các giao dịch dân
sự nên người đại diện theo pháp luật của họ xác lập, thực hiện.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền kết hôn và ly hôn là
quyền gắn với nhân thân của mỗi cá nhân và phải do chính các
cá nhân thực hiện mà không thể do người đại diện thực hiện. Vì
vậy, người mất năng lực hành vi dân sự không thể kết hôn được.
Pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân sự không đủ
điều kiện để kết hôn là xuất phát từ tính nhân đạo và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự, cho gia đình và cho

xã hội.
Thực tế có nhiều người bị bệnh tâm thần không có khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình nhưng chưa bị Tòa
án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Khi có người tự
nguyện kết hôn với những người này thì giải quyết như thế nào?
Xét về lý luận, không thể chấp nhận yêu cầu đăng ký kết hôn
trong trường hợp này. Luật hôn nhân và gia đình quy định các
bên kết hôn phải tự nguyện kết hôn. Người bị tâm thần không
có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì không thể
thể hiện được ý chí của họ nên không đủ điều kiện kết hôn.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cấm người mất
năng lực hành vi dân sự kết hôn mà chỉ coi là họ không đủ điều
kiện để kết hôn để tránh tâm lý nặng nề cho người thân của
những người mất năng lực hành vi dân sự.
4.

Việc kết hôn không thuộc trường hợp cấm kết hôn
Theo điểm d khoản 1 Điều 8 và khoản 2 Điều 5 Luật hôn

nhân và gia đình năm 2014 thì có 4 trường hợp cấm kết hôn.
a.

Kết hôn giả tạo
13


“Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh,
nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước
ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục
đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình”.

Trên thực tế không có ít trườg hợp nam nữ kết hôn nhưng
không nhằm chung sốg để thỏa mãn như cầu tình cảm giữa hai
bên mà là nhằm đạt được các mục đích khác như xuất cảnh,
nhập cảnh, nhập quốc tịch… Vì vậy, dù kết hôn nhưng thông
thường các bên không chung sống với nhau, họ không tạo
thành một gia đình thực tế. Những trường hợp này gọi là kết
hôn giả tạo.
Kết hôn giả tạo làm mất đi tính chất tốt đẹp của hôn
nhân, biến hôn nhân là phương tiện để một bộ phận của người
hương lợi. Kết hôn giả tạo không chỉ phá vỡ bản chất của hôn
nhân mà còn có thể ảnh hưởng đến các vấn đề xã hộ – kinh tế
của các quốc gia. Vì vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam cấm kết hôn giả tạo.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện
kết hôn tại Điều 8. Theo đó, điểm d khoản 1 Điều 8 quy định:
“Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết
hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5”.
Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định
các hành vi bị cấm, trong đó điểm a cấm kết hôn giả tạo. Như
vậy, có thể khẳng định rằng kết hôn giả tạo là một trong các
trường hợp cấm kết hôn. Khi cơ quan đăng ký kết hôn có cơ sở
cho rằng nam nữ kết hôn là giả tạo thì có quyền từ chối đăng ký
14


kết hôn cho họ. Đối với các trường hợp đăng ký kết hôn, nếu
không có đủ căn cứ cho rằng họ kết hôn giả tạo thì những người
có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật yêu cầu của
Tòa án hủy việc kết hôn đó.
Có thể nói, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định

kết hôn giả tạo là một trong các trường hợp cấp kết hôn là một
căn cứ quan trọng để giải quyết những vướng mắc trên thực tế
trong những năm qua. Nhiều trường hợp sau khi đăng ký kết
hôn mới có sơ sở cho rằng nam nữ kết hôn chỉ để xuất cảnh,
nhập quốc tịch nước ngoài… nhưng lại không thể huy việc kết
hôn thì việc kết hôn đó không vi phạm điều kiện kết hôn.
b.

Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn
Một trong những nguyên tác cơ bản của Luật hôn nhân và

gia đình Việt Nam là hôn nhân phải được xây dựng trên nguyên
tắc một vợ một chồng. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này
cần phải có quy định cụ thể nhằm xóa bỏ chế độ đa thê (chế độ
nhiều vợ) của người đàn ông đã được pháp luật ở Việt Nam
trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 công nhận. Luật hôn
nhân và gia đình năm 1959 là đạo luật đầu tiên của Nhà nước ta
được xây dựng trên nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
nên đã quy định cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với
người khác.
Kế thừa và phát triển nguyên tắc đó, các đạo luật kế tiếp
cũng quy định cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác hoặc cấm người chưa
có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người đang có vợ, có chồng. Như vậy, trong việc kết hôn,

15


Luật hôn nhân và gia đình quy định cấm người đang có vợ hoặc

đang có chồng kết hôn.
Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn với
người khác theo đúng quy định của pháp luật mà quan hệ hôn
nhân của họ chưa bị chấm dứt do ly hôn hoặc do một bên chết
hoặc bị Tòa an tuyên bố là đã chết. Người sống và đang chung
sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được xác định là
người đang có vợ hoặc có chồng.
Đối với những người kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết
hôn thì việc kết hôn của họ là trái phap luật. Về nguyên tắc, hai
người kết hôn trái pháp luật không phải là vợ chồng trước pháp
luật, mỗi bên kết hôn không phải là người đang có vợ hoặc có
chồng nên họ không thuộc trường hợp cấm kết hôn. Tuy nhiên,
chỉ khi quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của Tòa án có
hiệu lực thì mỗi bên mới có quyền kết hôn với người khác. Do
vậy, khi chưa có quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của
Tòa an mà một trong hai bên (đã kết hôn trái pháp luật) yêu cầu
đăng ký kết hôn với người khác thì cơ quan đăng ký kết hôn có
quyền từ chối đăng ký kết hôn cho họ.
Nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng
ký kết hôn mà thời điểm chung sống với nhau là từ ngày 31-1987 đến nay thì pháp luật không công nhận họ là vợ
chồng. Về nguyên tắc, những người này không thuộc trường
hợp cấm kết hôn với người khác mà có đủ điều kiện kết hôn
thì cơ quan đăng ký kết hôn không thể từ chối đăng ký kết
hôn cho họ. Tuy nhiên, trên thực tế, cán bộ tư pháp hộ tịch
gặp nhiều khó khắn khi đăng ký kết hôn trong trường hợp
này. Khó khăn mà họ thường gặp là sự ngăn cản, đe dọa từ
16


phía người đã hoặc đang chung sống như vợ chồng với

người có có yêu cầu kết hôn. Vì vậy, đảm bảo quyền kết hôn
của nam, nữ trong trường hợp này là vấn đề phức tạp. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, người chung sống như vợ
chồng với người khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trên cơ sở đơn yêu cầu, Tòa án xem xét và tuyên bố không
công nhận hai bên chung sống là vợ chồng. Như vậy, quyết
định của Tòa án là cơ sở pháp lý để một trong hai bên chung
sống như vợ chồng có quyền được kết hôn với người khác.
Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình cấm người đang có vợ
hoặc có chồng kết hôn với người khác nhưng ở Việt Nam hiện
nay vẫn tồn tại trường hợp một chồng hai vợ hoặc một vợ hai
chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội miền nam đã có vợ hoặc
chồng ở miền Nam, tập kết ra Bắc (1954) lại lấy vợ hoặc chồng
khác. Theo hướng dẫn của Thông tư số 60/TATC ngày 22-2-1978
của Tòa án nhân dân tối cao về Hướng giải quyết các việc tranh
chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội có vợ, có
chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác thì đây
là những trường hợp đặc biệt, “là hậy quả của chiến tranh, một
vấn đề xã hội phức tạp, vấn đề tình cảm, hạnh phúc gia đình,
nhất là của các người vợ với con cái”. Do đó, quyền và lợi ích
của tất cả các bên đều được pháp luật quan tâm bảo vệ.
Hiện nay ở hầu hết các vùng miền trên toàn quốc vẫn xảy
ra hiện tượng người đang có vợ, có chồng chung sống như vợ
chồng với người khác. Việc chung sống đó có thể lén lút hoặc
17


công khai. Hiện tượng này là nguyên nhân tan vỡ của không ít
gia đình, ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây dựng chế độ hôn
nhân và gia đình tiến bộ. Luật hộ nhân và gia đình quy định

cấm người đang có vợ, có chồng chung sống như vợ chồng với
người khác nhưng lại thiếu cơ chế giám sát và xử lý đối với
trường hợp vi phạm. Cần có biện pháp xử lý nghiêm đối với hiện
tượng chung sống trái pháp luật này.
c.

Cấm những người cùng dòng may về trực hệ hoặc những
người có họ trong phạm vi ba đời kết hôn với nhau
Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định cấm kết hôn giữa
những người có cùng dòng máu về trực hệ và những người có
họ trong phạm vi ba đời với nhau là xuất phát từ cơ sở khoa
học, phong tục, tập quan và thuần phong mỹ tục.
Như vậy, pháp luật cấm những người có quan hệ huyết
thống gần kết hôn với nhau để đảm bảo cho con sinh ra được
khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh. Đồng thời, cấm kết
hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ và giữa
những người có họ trong phạm vi ba đời còn nhằm làm lành
mạnh các mối quan hệ gia đình, phù hợp với đạo đức xã hội,
đảm bảo thuần phong, mỹ tục, đảm bảo lợi ích gia đình và lợi
ích xã hội.
“Những người có cùng dòng máu về trực hệ là những người
có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia
kế tiếp nhau” (khoản 17 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014). Do đó, những người có cùng dòng máu về trực hệ bị cấm
kết hôn với nhau là: cha, mẹ với các con; ông, bà với các cháu
nội, cháu ngoại; cụ với các chắt nội, chắt ngoại…

18



Những ngừoi có họ trong phạm vi ba đời bị cấm kết hôn với
nhau. Cách tính như sau: Những người có cùng một gốc sinh ra
thì cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ hoặc cùng
cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha (sau đây gọi là anh chị em
ruột) là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con
cậu, con dì là đời thứ ba. Do đó, những người có họ trong phạm
vi ba đời bị cấm kết hôn với nhau cụ thể là: anh chị em ruột;
bác ruột, chú ruột, cậu ruột với các cháu gái; cô ruột, dì ruột với
cháu trai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì.
d.

Cấm người là cha nuôi hoặc mẹ nuôi với con nuôi hoặc
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của
vợ, mẹ kế với con riêng của chồng kết hôn với nhau
Cấm kết hôn giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với
con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng
với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng là quy định
mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014 so với các luật trước đó.
Pháp luật cấm những người có quan hệ cha, mẹ nuôi với
con nuôi hoặc đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng
với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ,
mẹ kế với con riêng của chồng kết hôn với nhau nhằm làm ổn
định các mối quan hệ trong gia đình, ngăn chặn hiện tượng lợi
dụng mối quan hệ phụ thuộc mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép
kết hôn.
Quy định này đảm bảo thuần phong, mỹ tục trong quan hệ
hôn nhân và gia đình. Xét về khía cạnh đạo đức, người ta không
thể chấp nhận quan hệ hôn nhân giữa nhưng người trước đây là

19


“cha con” hoặc “mẹ con” (dù không cùng huyết thống), nay lại
là vợ chồng.
Những người đã từng làm cha, mẹ nuôi với con nuôi là
những người trước đây đã tồn tại quan hệ nuôi con nuôi hợp
pháp nhưng việc nuôi con nuôi của họ đã được Tòa án ra quyết
định chấm dứt. Những người đã từng là cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng là những người đã tồn tại quan hệ cha – con,
mẹ – con trên cơ sở của quan hệ hôn nhân nhưng nay quan hệ
hôn nhân đó đã chấm dứt do họ ly hôn hoặc một bên chết hoặc
bị tuyên bố chết.
5.

Hai người kết hôn phải không cùng giới tính

Hôn nhân là sự liên kết giữa một người nam và một người
nữ nhằm xây dựng gia đình. Gia đình phải thực hiện các chứng
năng xã hội, một trong những chức năng đó là chức năng sinh
đẻ nhằm duy trì nòi giống. Nếu hai người cùng giới tính kết hôn
với nhau thì trái với quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
Trên quan điểm lập pháp mới, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 không cấm những người cùng giới tính kết hôn với
nhau nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới tính. Do vậy, khi hai người cùng giới tính yêu cầu đăng
ký kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký. Trong
trường hợp hai người cùng giới tính chung sống với nhau mà sau
đó chấm dứt việc chung sống, nếu có tranh chấp về tài sản thì

giải quyết như đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng.
Trên thế giới hiện đang tồn tại hai xu hướng: Thừa nhận và
không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
20


Quan điểm của nhà làm luật ở đa số các quốc gia là không thừa
nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới tính. Với việc
không thừa nhận hôn nhân của những người cùng giới tính, một
số quốc gia để ngỏ khả năng những người cùng giới tính có thể
chung sống với nhau.
Bên cạnh đó, một số quốc gia khác công nhận họ chung
sống với nhau, việc chung sống đó chịu sự điều chỉnh của pháp
luật (luật về việc chung sống giữa những người cùng giới tính).
Có quốc gia quy định cấm kết hôn giữa nhưng người cùng giới
tính. Cơ sở của việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới
tính là nhằm đảm bảo tính tự nhiên của quan hệ hôn nhân và
gia đình, giữ gì đạo đức, thuần phong, mỹ tục trong gia đình và
cộng đồng.
Ngoài ra, việc không thừa nhận hay cấm kết hôn giữa
nhưng người cùng giới tính còn có thể chịu ảnh hưởng của tôn
giáo. Ngược với quan điểm trên, một số nước cho phép những
người cùng giới tính kết hôn với nhau. Quan điểm này dựa trên
lập luận rằng: Kết hôn là quyền tự do cơ bản của công dân, là
một trong các quyền cơ bản của con người, công dân có quyền
lựa chọn kiểu hôn nhân phù hợp với mình, pháp luật tôn trọng
và bảo vệ các quyền đó. Mặt khác, cho phép những người cùng
giới tính kết hôn với nhau có thể sẽ giảm những ảnh hưởng tiêu
cực về mặt xã hội hơn là việc ngăn cấm. Đại diện cho quan

điểm này là các nước Hà Lan, Thụy Điển, Na Uy, Bỉ, Thụy Sĩ,
Canada, một số bang của Hoa Kỳ… Hiện các nước thừa nhận
việc kết hôn giữa những người cùng giới tính đang có xu hướng
ngày càng tăng.

21


C.

KẾT LUẬN
Gia đình là hạt nhân cốt lõi của xã hội, là cái nôi nuôi

dưỡng con người, là môi trường quan trọng để hình thành và
giáo dục nhân cách, góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình lại
càng tốt hơn. Sự tác động và chi phối lẫn nhau giữa gia đình và
xã hội được khẳng định rõ nét trong hôn nhân. Bởi lẽ, nền tảng
vững chắc để xây dựng gia đình chủ yếu là xuất phát từ quan
hệ hôn nhân.
Hôn nhân là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành
của mỗi người. “ Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng” đó là qui luật
tự nhiên của con người và của tạo hóa. Hôn nhân và gia đình
luôn là một vấn đề quan trọng đối với mỗi con người. Ngày nay,
với sự du nhập văn hóa nước ngoài, thế hệ trẻ dường như dễ dãi
hơn trong tình yêu và hôn nhân. Qua đó, việc tìm hiểu về: “ Luật
hôn nhân và gia đình” và “ Điều kiện kết hôn” là việc làm bổ ích
không chỉ giúp cho mọi người tránh phải những ý niệm sai lầm
mà còn tạo cơ sở để có một kiến thức vững chắc trước khi quyết


22


định kết hôn và bước vào hôn nhân cũng như bước vào cuộc
sống.

MỤC LỤC
C. KẾT LUẬN…………………...……..……….
…………………………….18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình luật hôn nhân và gia đình – trường ĐH Kiểm Sát

2.
3.
4.
5.

Hà Nội.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Trang web: luatduonggia.vn
Trang web: Chinhtriyenbai.gov.vn

23




×