Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích cơ cấu và biến động nguồn vốn của công ty cổ phần BIBICA năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.83 KB, 4 trang )

Phân tích cơ cấu và biến động nguồn vốn của công ty CP BIBICA năm 2010
Khái quát tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp năm 2010( đơn vị triệu
VND). Bẳng xử lý số liệu:
( Bảng xử lý làm tròn đến phần nguyên)
Tổng nguồn vốn trong kỳ tăng 22.032 triệu VND tương ứng 2,99%,
trong đó Vốn chủ sở hữu cuối năm so với đầu năm tăng 21.321 triệu VND
tương ứng 4,07% và Nợ phải trả cuối năm cũng tăng so với đầu năm là
0,33% tương ứng 711 triệu VND, cho thấy việc tổng nguồn vốn tăng cuối
năm chủ yếu do việc tăng Vốn chủ sở hữu, mặt khác việc tỷ trọng Vốn chủ
sở hữu đầu năm cũng như cuối năm luốn chiếm tỷ trọng cao hơn so với Nợ
phải trả và có xu hướng tăng( Đầu năm: Vốn chủ sở hữu chiếm 71,02%, Nợ
phải trả chiếm 28,98% so với tổng nguồn vốn; Cuối năm: Vốn chủ sở hữu
chiếm 71,76% và Nợ phải trả chiếm 28,24% so với tổng nguồn vốn), điều đó
cho thấy doanh nghiệp đang mở rộng quy mô nguốn vốn chủ yếu thông qua
việc huy động Vốn chủ sở hữu, giảm sự phụ thuộc tài chính vào bên ngoài
bằng việc giảm tỷ trọng các khoản Nợ phải trả. Tuy nhiên tình hình nguồn
vốn của doanh nghiệp như vậy đã hợp lý hay chưa, nhận định như trên đã
liệu quá vội vàng? Chúng ta hãy cùng phân tích chi tiết
Nguồn vốn của chủ sở hữu chiếm tỷ trọng lớn( khoảng 70% trong cơ
cấu nguồn vốn của doang nghiệp) cho thấy tầm quan trọng của vốn chủ sở
hữu trong đó việc nguồn vốn chủ sở hữu tăng chủ yếu là do vốn và các quỹ
tăng trong đó việc quỹ đầu tư và phát triển tăng 4,64% (25.891 triệu VND)
chiếm đa số cho thấy việc doanh nghiệp chú trọng đến phát triển khoa học,
nghiên cứu sản phẩm mới để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đây
là chiến lược phát triển bền vững và lâu dài của doanh nghiệp, bên cạnh đó
quỹ dự phòng tài chính cũng tăng 0,49%( 2.864 triệu VND) cho thấy việc
doanh nghiệp chú trọng đến đề phòng, hạn chế rủi ro tài chính cho mình
trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước biến động, lạm phát tăng cao
(11,75%) là hợp lý. Tuy nhiên việc giảm tỷ trọng của vốn góp và thặng dư
vốn cổ phần( giá trị bằng tiền không thay đổi) cho ta suy nghĩ việc tăng vốn
chủ sở hữu không phải do việc góp thêm vốn từ các chủ sở hữu hay từ việc


phát hành thêm cổ phiếu mà do nguyên nhân khác, ở đây chúng ta thấy chủ
yếu là do việc tăng quỹ đầu tư và phát triển và quỹ dự phòng rủi ro tài chính.
Vậy tại sao lãi chưa phân phối lại giảm 5.931 triệu VND ( giảm 1,47%)? Lãi
chưa phân phối giảm có thể là do công ty làm ăn không phát triển dẫn đến
lợi nhuận sau thuế không để trả cổ tức cho cổ đông mà được giữ lại, nhưng
cũng có thể là do lợi nhuận sau thuế cao, sau khi trả cổ tức cho cổ đông còn
lại được nhập vào vốn chủ, do đó ta chỉ có thể khẳng định lợi nhuận sau thuế
của doanh nghiệp giảm nguyên nhân do biến động của thị trường cũng như
việc đầu tư vào tài sản cố định chưa mang lại nhiều hiệu quả( do các khoản
chi phí tăng cao như chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí khấu hao do
việc doanh nghiệp tăng số lượng các cơ sở bán lẻ và đưa dây chuyền sản
xuất mới vào hoạt động). Điều đó cho thấy doanh nghiệp đang chú trọng
phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như nâng cao chất lượng, chủng
loại sản phẩm phục vụ cho người tiêu dùng, tuy nhiên nếu việc lợi nhuận
chưa phân phối tiếp tục giảm cũng là vấn đề đáng lưu tâm khi các cổ đông
không thỏa mãn được sự kỳ vọng của mình vào doanh nghiệp. Bên cạnh việc
tăng của chỉ tiêu vốn và các quỹ là sự sụt giảm của chỉ tiêu vốn ngân sách
nhà nước và quỹ khác trong đó là chỉ tiêu quỹ khen thưởng, phúc lợi giảm
100% cuối năm so với đầu năm tương đương 1.674 triệu VND, điều này là
do lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp không đạt chỉ tiêu đã đề ra nên
không lập quỹ khen thưởng và phúc lợi. Do đó việc tăng lợi nhuận và phân
phối lợi nhuận sau thuế vào các quỹ cũng như cho các cổ đông cần được chú
trọng sao cho hợp lý, cũng như chiến lược phát triển thị trường nên quan tâm
đến chất lượng sản phẩm hơn là số lượng cửa hàng phân phối sản phẩm.
Nợ phải trả chiếm tỷ trọng vừa phải( khoảng 30% trong cơ cấu tổng
nguồn vốn) và có xu hướng giảm ở cuối năm so với đầu năm( giảm 0,75%
tương đương 711 triệu VND) cho thấy khả năng độc lập tài chính của doanh
nghiệp là tương đối tốt, việc giảm tỷ trọng nợ phải trả trong cơ cấu tổng
nguồn vốn cũng làm giảm việc phụ thuộc tài chính vào bên ngoài đối với
doanh nghiệp, đồng thời giảm sức ép vay nợ cho doanh nghiệp, tuy nhiên

với doanh nghiệp cổ phần sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng, đồ ăn như
doanh nghiệp này thì việc tỷ trọng nợ phải trả không quá cao sẽ chưa thực sự
tốt nếu doanh nghiệp làm ăn phát triển và không có các khoản nợ vay quá
hạn hay tín dụng xấu vì như vậy khả năng sinh lời vốn chủ sẽ thấp điều đó
làm giảm sức hấp dẫn của cổ phiếu doanh nghiệp, nhưng ngược lại nó cũng
sẽ giảm gánh nặng tài chính khi doanh nghiệp kinh doanh không như mong
đợi. Để đánh giá được chính xác chúng ta sẽ tìm hiểu các nhân tố tác động
đến sự thay đổi của chỉ tiêu này, đó là: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn
Chỉ tiêu nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong nợ phải trả ( đầu năm là
73,62% và tăng 12,11% lên 85,73% vào cuối năm tương đương 26.480 triệu
VND) là do sự tăng lên chủ yếu của các khoản phải trả nhà cung cấp ngắn
hạn tăng 4,57% ứng với 21.058 triệu VND cho thấy việc doanh nghiệp đang
gia tăng các khoản chiếm dụng, điều này là cần thiết trong việc tận dụng tối
đa các nguồn lực cho phát triển, giảm chi phí huy động vốn, tuy nhiên do
đây là các khoản ngắn hạn nên việc sử dụng phải hợp lý tránh tình trạng kéo
dài gây giảm uy tín với nhà cung cấp, áp lực cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó
việc tăng các khoản chi phí phải trả ( tăng 3,91% tương đương 11.109 triệu
VND) chủ yếu là chi phí bán hàng do doanh nghiệp mở rộng cơ sở phấn
phối sản phẩm được doanh nghiệp chiếm dụng trong thời gian chưa thanh
toán, ngoài ra chúng ta cũng phải đề cập đến việc tăng các khoản khác có tỷ
trọng nhỏ hơn trong nợ ngắn hạn như tạm ứng của khách hàng, các khoản
phải trả về thuế, phải trả người lao động trong đó có lẽ việc các khoản phải
trả cho người lao động tăng đột biến cũng khiến ta quan tâm, nguyên nhân
do chính sách tăng lương cho lao động của doanh nghiệp, điều này cũng cho
thấy chính sách quan tâm của doanh nghiệp tới lao động của mình. Ngoài
những chỉ tiêu tăng là những chỉ tiêu giảm đặc biệt là các khoản vay ngắn
hạn( giảm 8,32% hay 7.928 triệu VND) và các khoản phải trả khác giảm
3,12% tương đương 4.760 triệu VND điều đó chứng tỏ doanh nghiệp đang
pháp triển một cách đúng hướng và hiệu quả, giảm các khoản nợ ngắn hạn
giúp giảm áp lực trả nợ và phù hợp với xu hướng chung của các công ty hiện

nay, còn việc giảm các khoản phải trả khác cho thấy việc sử dụng nguồn vốn
của doanh nghiệp là hợp lý, hạn chế phát sinh các khoản phải trả không hợp
lý.
Bên cạnh việc tăng các khoản nợ ngắn hạn là việc giảm các khoản nợ
dài hạn, việc giảm 12,11% hay 25.769 triệu VND chủ yếu là do việc giảm
các khoản vay dài hạn ( giảm 30.000 triệu VND hay 17,35%) có thể là do
việc hoàn thành các công trình xây dựng cơ bản đưa vào sử dụng làm giảm
nhu cầu tài trợ dài hạn, điều này thực sự tốt đối với doanh nghiệp khi giảm
được chi phí vay vốn cũng như chi phí quản lý vốn vay. Việc tăng lên của
các khoản phải trả dài hạn khác ( tăng 4.230 triệu VND hay 16,06%) là do
việc ký quĩ, ký cược của khách hàng cho thấy việc sản phẩm của doanh
nghiệp có uy tín và chỗ đứng trên thị trường ngày một cao, tuy nhiên việc
này nếu kéo dài cũng là điều bất lợi với doanh nghiệp trong việc sử dụng
vốn hợp lý. Trước tình hình trên doanh nghiệp nên tận dụng hết những
nguồn lực nhàn rỗi của mình, đồng thời điều chỉnh chính sách với khách
hàng sao cho hợp lý có lợi cho doanh nghiệp và lòng tin của khách hàng.
Tóm lại qua bảng phân tích số liệu của công ty cổ phần BiBiCa trong
năm 2010 chúng ta có thể nhận thấy đây là doanh nghiệp có khả năng tự chủ
tài chính cao, cơ cấu và sự biến động về nguồn vốn so với tình hình thực tế
là hợp lý. Tuy nhiên chưa thể đánh giá liệu kết cấu và biến động như vậy đã
thật sự hiệu quả hay không. Giải pháp được đưa ra đó là việc đẩy mạnh huy
động vốn từ chủ sở hữu nhằm tăng nguồn vốn, việc quản lý các khoản nợ và
trích lập dự phòng là cần thiết. Cần có một kế hoạch phát triển thị trường
thiên về chất lượng hơn số lượng, tận dụng triệt để các khoản chiếm dụng,
tránh để các khoản nợ quá hạn hay tín dụng xấu, nâng cao uy tín doang
nghiệp.

×