Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Hoạt động của 5 con đường chị viện Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.17 KB, 27 trang )

STT Họ và tên
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Công việc

Chu Thị Hương Giang
Nguyễn Đăng Thu Hà
Nguyễn Ngọc Hà
Nguyễn Thị Thu Hà

Phần 1.2
Phần 2.1
Làm slide
Lập đề cương, Phần
1.1.1, hoàn chỉnh
word
Trần Thị Hà


Phần 1.1.2, phần 2.1
Lê Thị Minh Hằng
Phần 1.2
Phạm Thị Hằng
Phần 1.1.2
Vũ Thị Thúy Hằng
Lời cảm ơn
Hà Thị Hạnh
Phần 2.1
Ngô Hồng Hạnh
Phần 2.1
Nguyễn Thị Hạnh
Phần 2.2
Nguyễn Thị Phương Hạnh Kết luận, thuyết
trình
Nguyễn Thị Kim Hiền
Phần 2.2
Hà Hồng Hạnh
Phần mở đầu ( 1,2 )
Nguyễn Thị Mỹ Dung
Phần mở đầu ( 3,4 )

1

Mức độ
tham gia
B
A
A
A


Ghi chú

Nhóm
trưởng

A
A
A
B
A
A
A
A
A
A
A

Ds bổ sung
Ds bổ sung


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................3
1. Nội dung đề tài nghiên cứu............................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4
4. Kết cấu của bài tiểu luận...............................................................................4
PHẦN NỘI
DUNG....................................................................................................5

Chương I: Quá trình hình thành con đường chi viện của miền Bắc
cho miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước....................................5
1.1 Đôi nét về tình hình cách mạng những năm đầu kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, yêu cầu chi viện cho chiến trường..........................................5
1.2 Con đường chi viện được hình thành và hoàn thiện............................................8
Chương II: Hoạt động của con đường chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam,
vai trò của nó đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.................................14
2.1 Hoạt động của con đường chi viện....................................................................14
2.2 Vai trò của con đường chi viện đối với cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu
nước ..........................................................................................................22
Chương III: Kết luận...............................................................................................26
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................................27

2


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Nội dung đề tài nghiên cứu
Giai đoạn (1965 -1972) là khoảng thời gian, không gian mà cuộc đấu trí, đấu lực
giữa lực lượng cách mạng Việt Nam với đế quốc Mỹ và tay sai diễn ra quyết liệt
nhất trong toàn bộ cuộc chiến 21 năm chống Mỹ, cứu nước. Trong vòng 8 năm
(1965 -1972), miền Bắc hai lần chuyển hướng sang thời chiến để đối đầu với hai
cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân thiện chiến của Mỹ; đồng
thời thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng CNXH, vừa chiến đấu bảo vệ, vừa chi viện
không chỉ cho tiền tuyến miền Nam mà còn cho cả cách mạng Lào và Campuchia.
Việc đề ra và tổ chức thực hiện thành công một chiến lược hậu phương là nhân tố
quyết định giúp miền Bắc tích hợp, phát huy được sức mạnh chiến tranh nhân dân
đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, thực hiện chi viện ngày

càng nhiều sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, góp sức cùng miền Nam đánh
thắng giặc Mỹ. Đề tài nghiên cứu sâu về quá trình hình thành con đường chi viện
của miền Bắc cho miền Nam, hoạt động và vai trò quan trọng của nó ảnh hưởng
đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiện nay, trước những diễn biến phức
tạp, khó lường của tình hình khu vực, thế giới, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ
quyền biển đảo ở Biển Đông đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, không kém phần
thử thách, khó khăn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Những
kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương
miền Bắc trong 8 năm trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược vẫn còn
nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nội dung nhằm làm rõ chủ trương, đường lối và sự chỉ đạo xây
dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương miền Bắc của Đảng Lao Động
Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1972, sáng tỏ những thành tựu, hạn chế trong quá
trình Đảng lãnh đạo, qua đó rút ra những kinh nghiệm chủ yếu góp phần cho việc
3


thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước Tổ Quốc XHCN trong giai đoạn
hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phỏng vấn, tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích dữ liệu, suy nghĩ và
đưa ra những nhận xét, đánh giá... cho từng mục trong tiểu luận.
4. Kết cấu của bài tiểu luận
Bài tiểu luận của nhóm có kết cấu gồm 2 chương:
Chương I: Quá trình hình thành con đường chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Chương II: Hoạt động của con đường chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam, vai
trò của nó đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Chương III: Kết luận

Trong quá trình thực hiện đề tài nhóm chúng tôi xin chân thành cám ơn sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô Nguyễn Thị Lan Phương đã tạo điều kiện giúp
đỡ và có những lời khuyên bổ ích, giúp nhóm thực hiện tốt đề tài.

Hà nội, ngày 28 tháng 10 năm 2017
Nhóm 3

4


PHẦN NỘI DUNG

Chương I
Quá trình hình thành con đường chi viện của Miền Bắc cho Miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

1.1 Đôi nét về tình hình cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, yêu cầu chi viện cho chiến trường.
1.1.1 Tình hình cách mạng
Sau nhiều năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã giành những thằng lợi lớn lao trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, buộc Pháp phải ký kết hiệp định Giơne-vơ về Đông Dương. Song, với hiệp định này, mục tiêu thống nhất, độc lập vẫn
chưa được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai
miền Bắc, Nam. Trong khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn
gắn vết thương chiến tranh thì đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam,
dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Việc Mỹ can thiệp vào tình hình miền Nam Việt Nam là nhằm tiêu diệt
phong trào yêu nước của nhân dân ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới của Mỹ, căn cứ quân sự tiến công miền Bắc và ngăn chặn chủ nghĩa xã
hội lan tràn xuống khu vực Đông Nam châu Á.

Tình hình miền Nam càng trở nên căng thẳng hơn bởi hành động phá hoại
Hiệp định Giơ-ne-vơ, cự tuyệt hiệp thương của Mỹ- Diệm. Chúng dùng chính sách
trả thù, khủng bố dã man, tàn bạo những người kháng chiến cũ và những người yêu
nước, đặc biệt là những người cộng sản bằng các đợt “ tố cộng, diệt cộng” gây nên
5


bao đau thương tang tóc cho đồng bào miền Nam. Cách mạng miền Nam đứng
trước thử thánh mới phải trực tiếp đương đầu với Mỹ, một đế quốc có tiềm lực
quân sự, kinh tế mạnh, trở thành kẻ thù chính, kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta và
nhân dân Đông Phương.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời ra nghị quyết chuyển hướng cho
cách mạng miền Nam – Nghị quyết 15. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 ( 1/1959)
xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân.Đây chính là bước ngoặt lớn trong sự
phát triển của tình hình ở miền Nam.
1.1.2 Chủ trương của Đảng về công tác chi viện cho Miền Nam, con đường chi
viện được xác lập
Chủ trương của Đảng thể hiện ở nội dung cơ bản của hai Nghị quyết:
+ Trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường khi Mỹ đưa quân đội viễn chinh và
quân đội của các nước phụ thuộc Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền
Nam, Đảng ta nhận định: tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền
Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân
sự nhưng lại có nhiều chỗ yếu cơ bản, nhất là về chính trị.
+ Về phía ta, từ một nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh với mức
độ và hình thức khác nhau. Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt hơn nhưng ta đã
vững mạnh hơn hẳn trước, đã có sự chuẩn bị về tư tưởng và tổ chửc . Từ đó, Đảng
đưa ra kết luận:
Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Vì thế, ta vẫn giữ

vững và phát huy chiến lược tiến công.
Hai là, ta tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính trị
nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.
Ba là, ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại
giao, tăng cường tiếp xúc cả công khai và bí mật với nhiều nước trên thế giới, làm
rõ chính nghĩa và thiện chí của ta, góp phần hình thành trên thực tế một mặt trận
nhân dân chống Mỹ.
+ Hai Hội nghị Trung ương đã khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và kiên quyết đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào
nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
6


+ Nêu rõ nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: "Kịp thời chuyển hướng
tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc
phòng cho phù hợp với tình hình mới". Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương
cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc là: Kịp thời chuyển
hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển
của tình hình; ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an, bảo vệ miền Bắc, kiên
quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không
quân và hải quân; ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế dịch chuyển "chiến
tranh đặc biệt" ở miền Nam thành "chiến tranh cục bộ" và ngăn chặn địch mở rộng
"chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc, kip thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho
phù hợp với tình hình mới; đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh
thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với
cách mạng miền Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
+ Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
là: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố
gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những
cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian

tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
+ Phương châm đấu tranh là: kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh
vận), trong đó đấu tranh quân sự có tácdụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí
ngày càng quan trọng.
+ Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết
tiến công và liên tục tiến công.
+ Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí cách mạng của hai miền Nam - Bắc vì mối
quan hệ giữa hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn.
Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau thực hiện khẩu
hiệu chung của nhân dân cả nước là "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng
giặc Mỹ xâm lược".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương là những
văn kiện lịch sử quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc ta, có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn phát triển cao của cuộc chiến tranh.
+ Hội nghị lần thứ 11 đã chủ trương tiếp tục xây dựng miền Bắc thành một hậu
phương lớn với định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có chiến tranh. Đó là
một chủ trương thích hợp, bảo đảm miền Bắc tiếp tục làm tròn nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 11, cách mạng miền Bắc đã có bước chuyển hướng kịp thời về kinh
7


tế, quốc phòng, tư tưởng và tổ chức để tiến lên giành thắng lợi mới trong những
giai đoạn tiếp theo của cách mạng.
+ Hội nghị lần thứ 12 đã phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và
địch, khẳng định thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho cách
mạng hai miền, động viên quân đội và nhân dân cả nước giữ vững chiến lược tiến
công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bè
bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.

Sau khi có nghị quyết 15 của ban chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu
tranh của nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển mới. Đấu tranh vũ trang ngày
càng lan rộng. Yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường dây Thống Nhất
trên cơ sở đường giao liên bí mật xuyên Trường Sơn trong kháng chiến chống thực
dân Pháp không thể đáp ứng yêu cầu đó nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ và Nam
Trung Bộ.
1.2 Con đường chi viện được hình thành và hoàn thiện
1.2.1 Đường bộ
Để kịp thời đáp ứng yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam, giữa năm 1959,
Bộ chính ra chỉ thị:”tổ chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt mở đường đưa
cán bộ, tiếp tế vũ khí và những hàng cần thiết khác vào miền Nam. Đây là một việc
lớn có tính chiến lược, quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất nước nhà”.
Sau một thời gian nghiên cứu và chuẩn bị, ngày 19/5/1959, thường trực tổng quân
ủy Bộ quốc phòng triệu tập ban cán sự, chính thức giao cho Đoàn 559 chính thức
mở đường giao thông quân sự vào Nam, dọc theo dãy Trường Sơn, vận chuyển
hàng quân sự cho miền Nam, đưa đón cán bộ từ Bắc vào Nam và ngược lại mà
trước mắt là liên khu V. Binh đoàn Trường Sơn (Đoàn 559) thành lập, đánh dấu sự
khởi đầu của tuyến đường Trường Sơn. Mạng lưới giao thông quân sự này chạy
dọc dãy Trường Sơn, từ miền Bắc qua miền Trung, hạ Lào và Campuchia để chi
viện cho Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vào những
năm đầu, việc vận chuyển hàng chi viện được thực hiện bằng hình thức đi bộ, gùi
thồ. Trong ảnh là các chiến sĩ của trung đoàn 70 - đơn vị đầu tiên của bộ đội
Trường Sơn - đang thồ hàng trên tuyến Tây Trường Sơn tháng 9/1961.
8


Tuy giữ được bí mật nhưng việc vận chuyển bằng phương pháp thô sơ không đem
lại hiệu quả do quãng đường vận tải dài tới 2.000 km. Sau 2 năm như vậy, việc vận
tải bắt đầu chuyển sang cơ giới. Trong ảnh, đại đội 128 dân công tỉnh Thái Bình xẻ

rừng:

9


Mạng lưới đường cơ giới dần được hình thành lẩn khuất giữa núi rừng Trường Sơn
tạo điều kiện cho những đoàn xe quân sự vận chuyển lượng lớn binh lực, lương
thực và vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam. Cũng từ đây, lực lượng quân sự Mỹ ra
sức đánh phá hệ thống giao thông này bằng bộ binh và không quân, đường Trường
Sơn trở thành tuyến lửa - nơi diễn ra cuộc đấu gan, đấu trí ác liệt giữa hai bên.Bất
chấp bom đạn và chất độc hóa học, những đoàn xe vẫn tiến về miền Nam.
1.2.2 Đường biển
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu hết sức khó
khăn, đến năm 1959, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam có
bước phát triển nhảy vọt. Phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đấu tranh
vũ trang ngày càng lan rộng.
Trước tình hình đó, yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường vận tải
chiến lược Trường Sơn lúc này chỉ mới vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu 5,
còn các tỉnh thuộc miền Đông Nam và đồng bằng sông Cửu Long không đủ sức
đáp ứng yêu cầu, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Ngày 2310-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QĐ-QP thành lập Đoàn vận tải biển
759. Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức
trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của địch;
hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng các bến bãi
sẵn sàng tiếp nhận vũ khí.
Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đông 1”, do đồng chí
Lê Văn Một và đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn
(Hải Phòng) rẽ sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 19-10-1962,
tàu cập bến Vàm Lũng an toàn. Nhân dân đón nhận chuyến tàu chi viện vũ khí đầu
tiên cho cách mạng miền Nam với lòng phấn khởi vô hạn. Họ nhanh chóng khuân

vác vũ khí cất giấu vào những kho bí mật an toàn. Tiếp theo tàu Phương Đông 1 là
tàu Phương Đông 2, 3, 4 cũng lần lượt lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến
đã chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và
đấu lực căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn
thành nhiệm vụ xuất sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp
phần rất quan trọng tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ
trang giải phóng... Công việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn,
tuy số lượng chưa nhiều, nhưng đã góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh
10


đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực
mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.

Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương và Bộ
Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường vận
chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ - một chiến trường có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng. Vận chuyển bằng đường biển vào Nam Trung Bộ
tuy cung đường ngắn hơn nhưng lại hết sức khó khăn, nguy hiểm. Khó khăn lớn
nhất là tìm địa điểm tổ chức bến bãi. Địa hình vùng ven biển Nam Trung Bộ trống
trải, độ dốc lớn, không có nhiều kênh rạch và rừng ngập mặn như ở Nam Bộ. Các
cửa sông mà tàu của ta có thể vào để giao hàng dày đặc đồn bốt và căn cứ hải quân
của địch. Đây lại là vùng nằm dọc theo Quốc lộ 1 nên địch tổ chức tuần phòng rất
gắt gao.
Cũng giống như ở Nam Bộ, việc tổ chức xây dựng các bến bãi ở Nam Trung Bộ đã
nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ hết lòng của cấp ủy Đảng và nhân dân các địa
phương. Tính đến năm 1965, hàng chục bến bãi tiếp nhận vũ khí đã được bí mật
xây dựng ở một số tỉnh ven biển như: Vàm Lũng, Bồ Đề, Bến Cũ, Kiến Vàng, Cái
Bầu (Cà Mau, Bạc Liêu); Hố Lồng Đèn (Rạch Giá), Ba Động, Khâu Lầu, La Ghi,

Láng Nước, Rạch Cờ, Hố Tàu (Trà Vinh)... Chính hệ thống bến bãi kể trên đã góp
phần làm nên những chiến công của tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí
Minh trên biển.
1.2.3 Con đường xăng dầu
Đường ống dẫn xăng dầu ban đầu dài gần 1.400km, được xây dựng tháng 6/1968
từ Khe Hó đến Lộc Ninh, gồm 46 kho với sức chứa 17.050 tấn, 113 trạm bơm đẩy
và cấp phát. Bộ đội công binh thi công đường ống xăng dầu
Sau này con đường này được xây dựng thêm lêntới 5.000 km, để vận chuyển nhiên
liệu suốt từ biên giới Việt - Trung và các cảng biển miền Bắc vào đến tận Nam Bộ,
có chỗ vượt qua cả những độ cao tới gần ngàn mét là điều có vẻ là bất khả thi đối
với kỹ thuật đường ống. Con đường này người Mỹ dường như cũng biết rằng có và
cũng đã đánh phá được một số điểm. Nhưng nó có bằng cách nào và nó đã đóng
vai trò ra sao trong việc cung cấp nhiên liệu cho các đoàn xe vận tải vũ khí, cung
cấp nhiên liệu cho xe tăng trong các trận đánh lớn ở miền Nam, thì hình như trong
những tài liệu đã giải mật gần đây nhất cũng không có được những thông tin cụ
thể.
11


Bắt đầu từ hai ngả thuộc biên giới Việt - Trung là Lạng Sơn và Quảng Ninh, hai
tuyến đường ống cùng dẫn về trạm Nhân Vực, thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội.
Từ đây, có một đường ống chạy thẳng vào miền Trung qua Hà Nam, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đến đây lại chia làm hai ngả: Một vượt đèo Mụ
Giạ, sang Lào vươn tới Hạ Lào, rồi vượt qua biên giới Lào và Campuchia để vào
tới Nam Bộ. Ngả còn lại theo đường Đông Trường Sơn đi tiếp qua Quảng Trị,
Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Tây Nguyên, vượt Kontum, xuống
Bình Phước.
Hai hệ thống Đông và Tây Trường Sơn hội tụ tại trạm cuối cùng ở Bù Gia Mập,
thuộc tỉnh Phước Long, Đông Nam Bộ.
Từ đây xăng dầu được cấp trực tiếp cho các xe vận tải chở tiếp trên những tuyến

ngắn từ miền Đông đến miền Tây. Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào Nam đã cung
cấp cho hoạt động trên các chiến trưởng trong những năm đánh Mỹ, góp phần quan
trọng vào những trận chiến thắng lớn.
1.2.4 Con đường chuyển ngân
Là con đường vô hình, không có đường, không có lối trên đất liền, trên biển, trên
không, trên những đường ống... Nó đi theo hệ thống ngân hàng của chính các nước
phương Tây và hệ thống ngân hàng ở ngay Sài Gòn để chuyển tiền một cách hợp
pháp từ Bắc vào Nam, từ các nguồn tài trợ của các nước vào Sài Gòn, rồi từ Sài
Gòn rút ra tiền bản địa để chi tiêu cho những lực lượng Giải phóng.
Không cần ô tô, không cần máy bay, không cần tàu thủy, không cần gùi thồ, chỉ
những mật mã, những cú điện... là tiền từ Paris, Lon don, Hong Kong, Bangkok,
Moskva, Bắc Kinh... được chuyển qua Sài Gòn rồi lên các căn cứ địa ở khắp miền
Nam, được thanh toán cho những địa chỉ cần thiết ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ...
Con đường đó suốt hai mươi năm chiến tranh chỉ "ai làm thì biết", Mỹ không biết,
Chính quyền Sài Gòn không biết, nên không một ai bị bắt, không một vụ chuyển
ngân nào bị phát hiện...
Không riêng người Mỹ, không riêng những người nước ngoài, ngay cả những
người Việt Nam, thậm chí cả những chiến sĩ, những cán bộ và cả những người lãnh
đạo cấp cao trong hệ thống các con đường Hồ Chí Minh kể trên cũng không biết
hết được những gì ngoài phạm vi mình phụ trách. Người phụ trách đường bộ
không biết được bao nhiêu về hệ thống đường biển. Người phụ trách đường biển
không biết bao nhiêu về hệ thống đường hàng không.

12


Và tất cả những lực lượng đó hoàn toàn không biết đến hệ thống đường chuyển
ngân bí mật qua các ngân hàng. Sự "không biết" đó của cả bên này lẫn bên kia
càng chứng tỏ rằng ngoài những điều thần kỳ của ý chí, tài năng và cách tổ chức,
còn có một điều thần kỳ nữa: Sự bí mật?

Dù trong chiến tranh nhưng tiền vẫn là vấn đề đầu tiên. Từ tiền mua nhu yếu phẩm
cho binh lính đến tiền mua xe, làm thẻ căn cước hay cả bao thuốc lá cho những biệt
động nằm vùng trong nội thành. Xuất phát từ yêu cần quan trọng đó, mạng lưới
vận chuyển tiền được thành lập. Thời gian đầu, phương pháp “ dùng tiền mua tiền”
được sử dụng. Tiền miền Nam được mua từ các thị trường khắp khu vực mà chủ
yếu là ở Hong Kong, sau đó tiền được hoán chuyển tại nhiều chi nhánh với tỉ giá
hoán đổi là 1 đồng miền Nam = 46,02 đồng miền Bắc ( thời giá năm 1956 ). Nguồn
viện trợ từ các nước cũng được Hà Nội đàm phán chuyển sang viện trợ bằng ngoại
tệ, từ đó đổi sang USD hoặc tiền miền Nam.
1.2.5 Đường hàng không
Con đường chi viện cho miền Nam còn một phương tiện đặc biệt nữa là hàng
không quân sự và dân sự. Con đường này vừa tương đối an toàn, hiệu quả cao, tốc
độ nhanh. Cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp vào
Quảng Bình - Vĩnh Linh xem xét địa thế, tình hình và gợi ý mở tuyến đường hàng
không nhằm rút ngắn đường vận tải từ Bắc vào Nam. Nhiệm vụ này do Đoàn 919
đảm đương. Hàng hóa được máy bay quân sự thả dù xuống Làng Ho, về sau, mở
được sân bay ở Tà Khống - tỉnh Xêpôn Hạ Lào, hàng hóa, cán bộ, bộ đội được
Đoàn 559, Đoàn 17 chuyển vào các chiến trường miền Trung, Nam Trung bộ và
Nam Bộ… Từ năm 1960 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn 919 đã chuyển xuống Đông
Bắc Campuchia hơn 30.000 tấn vũ khí - hàng hóa quân sự, thuốc men, lương thực thực phẩm… và 60.000 lượt bộ đội, cán bộ. Con đường hàng không dân sự hoàn
toàn công khai nhưng lại tuyệt đối bí mật, rất an toàn. Ta sử dụng hãng hàng không
Cambodia và France. Máy bay dân dụng từ Hà Nội đi Phnom Pênh và ngược lại
hoặc từ Phnom Pênh đi Quảng Châu, Hồng Kông và ngược lại. Tuyến đường này
chuyên chở các cán bộ cao cấp, thương binh nặng, phụ nữ, trẻ em và hàng hóa đặc
biệt. Giấy tờ của hành khách, hàng hóa đi lại đều giả nhưng rất tinh vi. Nhân viên
hành nghề ở các sân bay quá cảnh là người Hoa, Khơ Me, Lào, Ấn kiều, Pháp… có
cảm tình với cách mạng Việt Nam và là những người giỏi, có tín nhiệm của các
hãng hàng không Cambodia và France.

13



Chương II
Hoạt động của con đường chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam, vai
trò của nó đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

2.1 Hoạt động của con đường chi viện
2.1.1 Vận chuyển bằng đường bộ
Đường mòn Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược vận chuyển
binh lực, lương thực và vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam.
Người Mỹ ghi nhận, đây là "một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật
quân sự ở thế kỷ 20".
Miền Bắc đã tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, cho cách mạng
Lào và sau đó, cho cách mạng Campuchia. Sự chi viện đó là to lớn, toàn diện, liên
tục, với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường. Năm 1959,
miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm 1964, con số đó tăng lên hơn
17.000 người. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968,
1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp
4 đến 5 lần so với trước. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực lượng dự bị
chiến lược, chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chỉ tính riêng số quân đưa
vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: Năm 1968 là 141.000 người, năm
1972 xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 là 117.000 người. Ngoài lực lượng trực tiếp
chiến đấu, các lực lượng vận tải, đảm bảo giao thông, mở đường và các lực lượng
bảo đảm khác gần hàng chục vạn người cũng được động viên từ miền Bắc.
Về vật chất, miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, vũ khí, phương
tiện kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên, cải tiến
nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn kilômét dưới bom
đạn đánh phá của địch tới các chiến trường, các vùng giải phóng. Trong những
năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 10
lần so với những năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong những năm chống chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh” còn tăng gấp nhiều lần.
14


Bên cạnh việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường, miền Bắc còn tiếp
nhận hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, con em miền Nam tập kết; đón tiếp gần
310.000 thương bệnh binh và hơn 350.000 lượt người từ tiền tuyến ra hậu phương
chữa bệnh, học tập... Với chế độ xã hội mới ưu việt được xây dựng và tỏ rõ sức
sống mãnh liệt trong khói lửa chiến tranh, miền Bắc thực sự là chỗ dựa vững chắc
về tinh thần cho những người ra trận, cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đang ngày
đêm chiến đấu ở miền Nam, đặc biệt trong những lúc cách mạng miền Nam bị tổn
thất, gặp nhiều thử thách, khó khăn... Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh,
trong 2 năm 1973 và 1974, 25 vạn thanh niên miền Bắc gia nhập lực lượng vũ
trang, 15 vạn quân từ biệt hậu phương vào Nam chiến đấu, hàng vạn cán bộ, nhân
viên kỹ thuật, thanh niên xung phong miền Bắc tới các vùng giải phóng ổn định
tình hình. Lực lượng công binh, bộ đội Đoàn 559, ngành vận tải miền Bắc cùng
hàng vạn dân công hỏa tuyến dồn sức sửa chữa, mở rộng đường Trường Sơn, đặt
thêm đường ống dẫn dầu. Trong hai năm này, 397.000 tấn vật chất từ miền Bắc
được chuyển tới mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất giao cho các chiến
trường trong suốt 16 năm trước đó. Trên miền Bắc, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương quyết định thành lập các quân đoàn chủ lực. Các quân chủng, binh chủng
cũng khẩn trương phát triển thêm nhiều đơn vị mới.
Được hậu phương miền Bắc chi viện mạnh mẽ, toàn diện, thế và lực cách mạng
miền Nam biến chuyển nhanh chóng, áp đảo quân địch. Trước tình hình đó, tháng
1/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh của cả nước mở
cuộc Tổng tiến công chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, cả miền Bắc hướng ra tiền tuyến,
dốc sức chi viện cho miền Nam. Các đoàn cán bộ của đảng, của Bộ Quốc phòng
lên đường tới các mặt trận để đôn đốc, kiểm tra công tác chuẩn bị. Bộ Chính trị
quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương do Thủ tướng

Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Trên mọi nẻo đường ra mặt trận, những đoàn xe vận
tải nối đuôi đi suốt ngày đêm, chuyển nhanh các binh đoàn chủ lực, các đoàn cán
bộ dân, chính, Đảng và hàng vạn tấn vật chất vào Nam, tạo ra thế và lực áp đảo
trước khi chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh bắt đầu. Nhờ đó, cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân 1975 toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt Nam.

15


Ảnh : Đoàn xe vận tải 238 vận chuyển hàng hóa cho chiến dịch Tây Nguyên
2.1.2 Con đường chi viện bằng đường biển
Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt
tổ chức đưa 88 chuyến tàu tới đích (không tính các chuyến trinh sát, mở đường)
vận chuyển được 4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến
trường (Cà Mau, Bạc Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà
Rịa 3 chuyến, Vũng Rô 4 chuyến, Bình Định 1 chuyến)
Qua con đường vận tải biển, hậu phương lớn miền Bắc đã tiếp tế kịp thời vũ khí,
đạn dược cho chiến trường miền Nam. Được trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự
tương đối đầy đủ, đồng bộ, năm 1964, Quân giải phóng mở chiến dịch tiến công
Bình Giã; năm 1965, mở chiến dịch Đồng Xoài và Ba Gia đánh bại hoàn toàn
“chiến lược chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Sau các chiến thắng có ý nghĩa
16


chiến lược này, năm 1965, khối chủ lực cơ động Quân giải phóng phát triển thành
5 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, cùng nhiều trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng
kỹ thuật, sẵn sàng bước vào cuộc đọ sức với quân Mỹ. Sự kiện này đánh dấu bước
trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam nhờ vào sự chi
viện tích cực của hậu phương miền Bắc qua 2 con đường chiến lược huyền

thoại: Đường bộ Trường Sơn và Đường vận tải biển.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào
hùng của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở
Vũng Rô (Phú Yên), bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta không
còn nữa. Công việc tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục,
nhưng ta chuyển hướng vận chuyển từ phương thức trực tiếp sang phương thức
gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này, trong một năm (từ 1-11-1968 đến
31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng sông Gianh 21.737 tấn vũ khí.
Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào Nam theo đường bộ. Đồng thời với đưa
hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân chọn một số tàu và thủy thủ có
kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo đường Hồ Chí Minh trên biển.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 còn tham gia chiến dịch
vận tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng
các lực lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương
thực, xăng dầu… từ Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến
chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559).
Trên con đường vận chuyển này, nhiều trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra, nhưng cán
bộ, chiến sĩ Hải quân làm nhiệm vụ vận tải biển không sờn lòng, nản chí, đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế cho miền Nam, góp phần tăng cường sức mạnh
chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại “chiến lược Việt Nam hóa
chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực
lượng và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật
chất các loại vào các chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí
và vật chất khác, cùng hàng ngàn lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến
trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội đặc công chiến đấu giải phóng các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ
quốc.
Theo số liệu đã được Quân chủng Hải quân công bố, tính chung trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên
17


biển đã trực tiếp và gián tiếp vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí đạn dược và các
vật chất khác cùng hơn 170.000 lượt cán bộ chiến sĩ chi viện chiến trường miền
Nam. Con số đó so với Đường Hồ Chí Minh trên bộ tuy ít hơn nhưng lại có ý
nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Vận chuyển đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, qua nhiều lực lượng phương
tiện... phải mất hàng tháng trời mới đến đích. Vận chuyển bằng đường biển tuy
gian nan, nguy hiểm vì phải độc lập đối phó với địch và sóng gió, nhưng nếu vượt
qua sự ngăn chặn của địch thì chỉ khoảng 5-6 ngày đã vào tới chiến trường Tây
Nam Bộ.
Trong giai đoạn từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, với 88 chuyến tàu, mỗi tàu có
từ 10-20 cán bộ chiến sĩ, tỷ lệ đến đích đạt 93% (trong khi tỷ lệ cấp trên cho phép
là 50%), tuyến chi viện chiến lược trên biển đưa tới các chiến trường được
4.919,636 tấn vũ khí và các mặt hàng thiết yếu. Với khối lượng đó, nếu dùng người
gùi thồ, mỗi người trung bình gùi 25kg thì phải huy động tới 196.785 người đi liên
tục trong 6 tháng (trong điều kiện đường sá bị địch đánh phá ngăn chặn). Mỗi
người mỗi tháng sử dụng 21kg, 6 tháng 126kg gạo thì phải cần tới 24.794.910kg
gạo (chưa tính các nhu yếu phẩm khác và tổn thất dọc đường). Còn nếu dùng ôtô,
trung bình 1 xe chở được 2,5 tấn thì phải huy động 1.968 xe đi trong 2 tháng, sử
dụng khoảng 4.000 tấn xăng dầu, chưa kể các chi phí bảo đảm khác và tổn thất dọc
đường. Trong mùa vận chuyển 1970-1971, tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn
bị tổn thất 2.842 xe (44,3%); mùa vận chuyển 1971-1972 bị tổn thất 4.228 xe,
chiếm 50,7% số xe được trang bị.
Tuyến chi viện chiến lược trên bộ được thành lập từ năm 1959 và ngay lập tức
được tiến hành soi đường, gùi vũ khí vào chiến trường. Nhưng những năm đầu do
bị địch ngăn chặn quyết liệt, do địa hình phía Đông Trường Sơn quá phức tạp và
hiểm trở nên hoạt động hết sức khó khăn. Chỉ sau khi mở đường sang phía Tây

Trường Sơn (năm 1961), lấy vận tải cơ giới là chính (từ mùa khô 1964-1965) qua 7
tỉnh, 17 huyện của nước Lào anh em rồi vòng về Nam Tây Nguyên, thì đường
Trường Sơn mới thực sự trở thành tuyến vận tải cơ giới, tuyến chi viện chiến lược,
thực sự trở thành “động mạch chủ” của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân hai nước Việt - Lào. Còn Đường Hồ Chí Minh trên biển, ngay sau khi
chính thức được khai thông (tàu Phương Đông 1, tháng 10-1962) đã ngay lập tức
phát huy hiệu quả, trở thành tuyến chi viện chiến lược, tuyến chi viện chủ yếu cho
chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đây cũng là tuyến chủ yếu vận chuyển,
cơ động lực lượng giải phóng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

18


2.1.3 Con đường xăng dầu
Trên toàn bộ hệ thống chi viện xăng dầu dài 5.000km, đã có tới 316 trạm bơm
đẩy, 101 kho với sức chứa trên 300 nghìn m3. Bộ đội xăng dầu đã phát triển thành
9 trung đoàn đường ống, 2 trung đoàn công trình, 1 trung đoàn thông tin, 2 nhà
máy cơ khí, 3 tiểu đoàn xe vận tải. Trong vòng 7 năm, tuyến ống này đã vận
chuyển 5,5 triệu tấn xăng dầu cho các chiến trường.
Mạng lưới đường ống dẫn dầu dài hơn 5.000 km nêu trên là tính từ biên giới phía
Bắc nước ta, bắt đầu từ hai điểm đầu mối tiếp nhận thuộc tỉnh Quảng Ninh và tỉnh
Lạng Sơn; còn điểm khởi đầu là từ cảng Phòng Thành, Trung Quốc.
Những con tàu lớn chở xăng, dầu từ Liên Xô cập cảng Phòng Thành và nguồn
nhiên liệu từ đó sẽ theo hệ thống đường ống như những mạch máu chảy vào phía
Nam, cung ứng một nguồn vật chất hết sức thiết yếu cho những chiến dịch, cho
từng trận đánh ...
Trong thời chiến, hệ thống đường ống này vừa tăng nhanh khối lượng xăng, dầu
vận chuyển ra tiền tuyến, vừa giảm được rất nhiều hy sinh, tổn thất cho những
chiến sĩ lái xe và xe tải chở nhiên liệu.
Hệ thống đường ống tuỳ theo địa hình có đoạn nổi, đoạn chìm, có đoạn vắt qua

suối, luồn dưới dòng sông... nhưng phần lớn nằm trên địa bàn rừng núi hoang vắng
hoặc dân cư thưa thớt, khí hậu khắc nghiệt.
Với hệ thống đường ống đó, theo Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Binh
đoàn Trường Sơn "Đã thực sự thỏa mãn kịp thời cho vận tải, đảm bảo yêu cầu cơ
động cao của các quân và binh chủng với mọi quy mô, mọi thời gian, mọi địa
điểm, phục vụ đắc lực cho các chiến dịch'.
Đại tá Phan Tử Quang, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần - Bộ
Quốc phòng) kể rằng, trong một lần tôi được làm việc với Chu Ân Lai, Thủ tướng
nước CHND Trung Hoa nói: "Tôi không ngờ là Việt Nam lại làm được đường ống
xăng dầu dài đến 5.000 km" và ông đã cử một phái đoàn gần 20 kỹ sư và tiến sĩ về
đường ống xăng dầu đi tham quan từ Hà Nội theo đường ống đến Mụ Giạ (Quảng
Bình).

2.1.4 Con đường hàng không
Trong 3 năm từ 1960 đến 1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của Trung
đoàn 919 phối hợp với các phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận
19


chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng
xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào.
Tuy nhiên tuyến vận tải máy bay quá cảnh sang Lào chỉ tồn tại đến trước thời điểm
Chính phủ Liên hiệp 3 phái ở Lào bị xóa bỏ (1963). Những năm sau đó, do phái
cực hữu gây sức ép nên việc đưa máy bay sang đất Lào phải đình chỉ. Còn phần
trong nước, thì từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không
thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên Tây Trường Sơn
được nữa.
Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, nhiều vùng giải
phóng hợp pháp đã hình thành ở miền Nam, thì hình thức vận chuyển hàng không
quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi .

Tính từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 04/1975, Đoàn 919 đã vận chuyển
vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn dược,
khí tài, lương thực, thuốc men và các hàng hóa quân sự , ...
2.1.5 Con đường chuyển ngân
Trong 6 năm (1960-1965), Hà Nội đã chi viện cho miền Nam 1.104 triệu
đồng tiền Sài Gòn, tương đương với 18,4 triệu USD , chiếm 34,8 % tổng thu của
ngân sách miền trong các năm đó. Năm 1960, Hà Nội chi viện cho miền Nam là 14
triệu tiền Sài Gòn, tương đương 233.000 USD , chiếm 18% tổng số thu ngân sách
miền. Đến năm 1965 thì số chi viện của Hà Nội tăng lên tới 655 triệu, tương đương
với gần 11 triệu USD , chiếm 44% tổng số thu ngân sách miền (Lịch sử Tài chính
Việt Nam, tập 2, Hà Nội, 1995). Tổng thu của ngân sách miền cũng tăng lên từ
1.494 triệu tiền Sài Gòn năm 1965 đã tăng lên 5.827 triệu năm 1968, tương đương
582.700 tấn thóc. Phần chi viện của Hà Nội năm 1968 cho miền Nam (chưa kể
Khu V) đã lên tới 30 triệu USD , bằng 272% số tiền Trung ương chi viện năm 1965
(11 triệu USD ) và gấp trên 128 lần số chi viện năm 1960 .
- Bước sang giai đoạn 1965 khi Mỹ bắt đầu chiến tranh phá hoại miền Bắc, việc
chuyển ngân cho chiến trường miền Nam bị gián đoạn nên Hà Nội đã cho thành
lập một “Quỹ ngoại tệ đặc biệt” – B29. Lấy danh nghĩa hoạt động là Cục Ngoại hối
của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ( tiền thân của Ngân hàng Vietcombank) chịu
trách nhiệm chuyển ngân cho miền Nam bằng ngoại tệ. Từ 1965 đến 1975, B.29 đã
tiếp nhận 678.700.000 USD trong đó hơn 628 triệu là viện trợ đặc biệt, 24 triệu là
đóng góp của nhân dân và tổ chức phi chính phủ ,21 triệu là lãi từ việc kinh doanh
chuyển đổi là lãi ngoại tệ...7 triệu là tồn từ quân khu sau giải phóng. Tiền viện trợ
được đổi sang hầu hết các loại tiền trong khu vực ĐNÁ để tiện vận chuyển và sử
dụng. Tiền của "Quỹ Ngoại tệ đặc biệt" được cất giữ nghiêm ngặt tại tầng hầm
Ngân hàng Nhà nước Trung ương, số 49 Lý Thái Tổ. Hà Nội, do B.29 quản lý. Đến
20


thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn

vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng
thùng đặc chủng và chở đi.
Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng": Tiền
được đặt trong "vali ngoại giao", hoặc nếu nhiều thì đóng vào các thùng nghi trang
như đồ hộp xuất khẩu, đi theo tuyến hàng không Hà Nội - Phnom Penh hoặc Hà
Nội - Quảng Châu – Phnom. Đó là thời kỳ Campuchia của Sihanouk, một người rất
có cảm tình với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Con
đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận USD vẫn là tuyến đường
Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số,
cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường lịch sử Hồ Chí Minh trên biển.
Nhưng tổn thất, hy sinh xảy ra ở khâu này không hề nhỏ.
Giai đoạn 1972-1973 số tiền tổn thất do hoạt động bắn phá của Mỹ là 3.794.090
USD. Theo đà của cuộc chiến, phương pháp đưa tiền trực tiếp vào Nam đã dần dà
bộc lộ yếu điểm. Lãnh đạo B29 quyết định chuyển sang phương pháp mới –
Chuyển ngân trực tiếp, sử dụng hệ thống ngân hàng quốc tế và của Sài Gòn để viện
trợ tiền cho chiến trường. Nhiều phương pháp được áp dụng, trong đó có hợp tác
với các tay buôn vàng lậu của miền Nam để rửa tiền USD và từ đó gởi vào hệ
thống ngân hàng Sài Gòn cho mật thám. Đối với các nguồn viện trợ quốc tế tại các
nước Âu - Mỹ, bằng rất nhiều loại bản tệ khác nhau như bảng Anh, Franc Pháp,
Franc Thụy Sĩ, Lire Ý, Coụronne Đan Mạch... thì việc “chế biến" ra tiền mặt USD
được giao cho đại diện Vietcombank Paris tiến hành ngay tại Pháp và Thụy Sĩ, rồi
bằng "giao thông ngoại giao" đưa qua đường Moskva về Hà Nội.
--- Tới năm 1975 khi B29 hoàn thành sứ mệnh của mình, trong 10 năm số tiền được
quyết toán như sau:
- Trung Quốc viện trợ 626.042.653,52 USD.
- Cuba viện trợ 200.000 tấn đường trong 4 năm từ 1967-1970 bán được 9.131.280
USD.
- Nam Tư viện trợ 1.200.000 USD (một đợt năm 1970: 200.000 USD, một đợt năm
1973: 1.000.000 USD).
- Việt kiều Thái Lan ủng hộ trong các năm 1971, 1972, 1974 là 4.348.083 USD.


21


- Một nhân sĩ quốc tế ủng hộ miền Nam bị bão lụt trong hai năm 1970 và 1971 số
tiền là 2.021.616 USD. Đến cuối năm 1975 tồn quỹ đặc biệt là: 149.431.767,38
USD.Cộng với các nguồn tồn như:
- Tồn quỹ ngoại tệ từ các chiến trường nộp về (B.2 và K.5 thực hiện hết sức
nghiêm chỉnh): 53.803.36 USD
- Tổng cục Hậu cần quân đội giao lại 508.673,29 USD
- B.29 tiếp tục điều hành quản lý tác nghiệp quỹ đặc biệt, thu lãi tiền gửi ở nước
ngoài, và cả tiền gửi tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: 14.730.374,94 USD
Tổng cộng quyết toán thu 218.474.176,61 USD
2.2Vai trò của con đường chi viện đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước
Con đường Hồ Chí Minh lịch sử nói chung và năm tuyến đường (bộ, biển, xăng
dầu, hàng không, chuyển ngân) nói riêng đã thể hiện vai trò chiến lược không thể
phủ nhận trong sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ oai hùng của dân tộc
Việt Nam.
Trước tiên con đường Hồ Chí Minh mang tầm vóc lịch sử của thời đại Hồ Chí
Minh, cũng chính là biểu tượng ý chí sắt đá, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả
được hun đúc, kết tinh từ truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước trải qua hàng
ngàn năm lịch sử của dân tộc; truyền thống yêu nước và cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thứ hai, đường mòn Hồ Chí Minh đã thể hiện thành công vai trò cốt yếu trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là tuyến đường thực hiện vai trò hậu phương
của miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam thông qua đường bộ, đường biển,
đường xăng dầu, đường hàng không và đường chuyển ngân.
Con đường thứ nhất đường Hồ Chí Minh trên bộ - đường Trường Sơn.
Quân và dân ta bao gồm bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong, dân công

hỏa tuyến, đồng bào các dân tộc và nhân dân nước bạn, với tinh thần dũng cảm,
thông minh đầy mưu trí sáng tạo, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, ác liệt đã
đánh bại mọi thủ đoạn chiến tranh ngăn chặn của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ vận chuyển sức người, sức của từ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn, góp phần
rất quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến.


22


Trong 16 năm liên tục (1959 - 1975), lực lượng vận tải toàn tuyến đã vận
chuyển hơn một triệu tấn vũ khí và phương tiện vật chất, lương thưc, vận chuyển
cơ động 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, hộ tống 90 đoàn binh khí kỹ thuật, bảo đảm
hành quân cho hơn 2 triệu lượt người vào ra qua đường Trường Sơn cũng như các
chiến trường. Hàng chục ngàn ki lô mét đường dây thông tin, bảo đảm giao thông,
thông tin liên tục thông suốt trong mọi tình huống.
Bộ đội Trường Sơn đã đánh bại 2.500 trận càn quét, biệt kích, tập kích của địch,
tiêu diệt và bắt sống 17.740 tên; bắn rơi 2.455 máy bay các loại.
Con đường thứ hai đường xăng dầu.
Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào Nam đã cung cấp cho hoạt động trên các
chiến trưởng trong những năm đánh Mỹ, góp phần quan trọng vào những trận
chiến thắng lớn.
Cung ứng một nguồn vật chất hết sức thiết yếu cho những chiến dịch, cho từng
trận đánh ...
Hệ thống đường ống vừa tăng nhanh khối lượng xăng, dầu vận chuyển ra tiền
tuyến, vừa giảm được rất nhiều hy sinh, tổn thất cho những chiến sĩ lái xe và xe tải
chở nhiên liệu.
Với hệ thống đường ống đó, theo Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Binh
đoàn Trường Sơn: "Đã thực sự thỏa mãn kịp thời cho vận tải, đảm bảo yêu cầu cơ
động cao của các quân và binh chủng với mọi quy mô, mọi thời gian, mọi địa

điểm, phục vụ đắc lực cho các chiến dịch.”


Con đường thứ ba – đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí đạn dược
và các vật chất khác cùng hơn 17.000 lượt cán bộ chiến sĩ chi viện chiến trường
miền Nam. Con số đó tuy không thể sánh với khối lượng vận chuyển của đường
Hồ Chí Minh trên bộ, nhưng lại có ý nghĩa và tầm quan trọng rất đặc biệt.
Tuyến chi viện chiến lược trên bộ từ 1959 đến 1972 đặc biệt là từ năm 1959 đến
1965 chủ yếu mới vươn tới được các chiến trường Trị Thiên, Trung - Hạ Lào, Tây
Nguyên. Việc chi viện cho các chiến trường Nam bộ, Nam Trung bộ từ 1959 đến
1972 hết sức khó khăn. Tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển
ra đời đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu đó. Thành công của những chuyến vũ khí
đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, xây dựng và phát triển khối
chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ; góp phần làm nên những


23


chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn
Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài…Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ
khí tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh của
quân và dân ta, thay đổi tương quan lực lượng giữa địch và ta.
Ngoài cung cấp vũ khí và các vật chất khác cho các chiến trường xa, tuyến chi
viện chiến lược trên biển có ưu thế hơn đường bộ là thời gian nhanh hơn, kịp thời
hơn, vũ khí trang bị đồng bộ hơn do không bị nhầm lẫn, thất lạc.( Vận chuyển
đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, qua nhiều lực lượng phương tiện... phải mất
hàng tháng trời mới đến đích. Vận chuyển bằng đường biển tuy gian nan, nguy
hiểm vì phải độc lập đối phó với địch và sóng gió, nhưng nếu vượt qua sự ngăn

chặn của địch thì chỉ khoảng 5-6 ngày đã vào tới chiến trường Tây Nam Bộ.)
Con đường thứ tư là con đường hàng không. Bí mật trong công khai, đi từ Phnom
Penh, bay qua lãnh thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua chính Sài Gòn, tới
Hồng Kông hoặc Quảng Châu, rồi về Hà Nội. Con đường này đã từng vận chuyển
hàng ngàn lượt tướng tá của miền Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, vận chuyển
hàng triệu đô la cho cơ quan Kinh-Tài của miền Nam, vận chuyển rất nhiều thứ
máy móc, thuốc men và hóa chất quan trọng, vận chuyển thương binh, vận chuyển
vợ con những chiến sĩ và cán bộ của miền Nam ra Bắc để học tập và điều dưỡng…
góp phần cải thiện tình hình loạn chiến nước ta thời bấy giờ. Nhưng phía Mỹ và
Chính quyền Sài Gòn hình như cũng hoàn toàn chưa biết gì.
• Con đường thứ năm, con đường chuyển ngân. Đó là con đường vô hình, không có
đường, không có lối trên đất liền, trên biển, trên không, trên những đường ống...
Nó đi theo hệ thống ngân hàng của chính các nước phương Tây và hệ thống ngân
hàng ở ngay Sài Gòn để chi tiêu cho những lực lượng Giải phóng.Con đường đó
suốt những năm tháng chiến tranh chỉ “ai làm thì biết”, Mỹ không biết, Chính
quyền Sài Gòn không biết, nên không một ai bị bắt, không một vụ chuyển ngân
nào bị phát hiện…


Thứ ba, con đường Hồ Chí Minh thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần
đoàn kết, sáng tạo, ý chí chiến đấu quật cường của quân và dân ta và sự giúp đỡ
của quốc tế.
Chính tuyến đường là hiện thân của những hy sinh đóng góp trong hoàn cảnh
khó khăn vô cùng của nhân dân nơi hậu phương miền Bắc về cả sức người, sức
của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
24


Trong suốt quá trình hoạt động, đường Hồ Chí (trên bộ) đã chịu đựng trên 8
triệu tấn bom của Mỹ, trung bình, mỗi mét đường Trường Sơn chịu 5 quả bom. Ghi

dấu chân của không biết bao chàng trai, cô gái đã hiến dâng tuổi thanh xuân của
mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn 20.000 bộ
đội, thanh niên xung phong đã hi sinh, hơn 30.000 người bị thương, hàng vạn
người bị nhiễm chất độc da cam, phải tiếp tục gánh chịu những tổn thương kéo dài
nhiều thập kỷ sau khi chiến tranh kết thúc. Cùng với sự chiến đấu hi sinh quả cảm
của những chuyến tàu không số trên tuyến đường biển và vô vàn những sự hy sinh
thầm lặng của những con người Việt Nam.
Cuối cùng, đường Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, góp phần to lớn
kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, thu non sông về một mối.
Nhưng trong hiện tại nó cũng là tượng đài bất diệt đối với nhân dân ta; là con
đường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chính thức trở
thành một tuyến đường Quốc lộ Bắc - Nam hiện đại, phục vụ cho khát vọng vươn
lên của một dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước; mở
ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội của Tổ quốc, phục vụ cho sự phát
triển đất nước và củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng con đường Hồ Chí Minh lịch sử, sẽ mãi mãi là niềm tự
hào, niềm kiêu hãnh của lớp lớp cán bộ, chiến sỹ, văn nghệ sỹ, thanh niên xung
phong, dân công hỏa tuyến đường Trường Sơn năm xưa sẽ là biểu tượng sáng ngời
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là huyền thoại trong trường ca chống đế quốc
Mỹ xâm lược của dân tộc; là bài học và những giá trị lịch sử để lại cho thế hệ trẻ
không những hôm nay và mãi mãi về sau.
Từ thực tiễn trên, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: “Không thể nào có
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc
xã hội chủ nghĩa suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến
lược... Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh
của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa
cách mạng của cả nước.
Miền Bắc có tác dụng quyết định nhất gắn liền với miền Nam, giúp cách mạng
miền Nam vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ vững
trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp

trên cả ba vùng chiến lược. Hai miền chung sức đánh giặc, cả nước kháng chiến
25


×