Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ở học viện khoa học quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.19 KB, 83 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, nền
kinh tế thế giới thực sự là một tổng thể chứa đựng nền kinh tế các quốc gia và
khu vực trên thế giới. Chúng tạo ra cơ hội lớn chưa từng có trong lịch sử,
nhưng cũng là thách thức lớn đối với sự phát triển của từng quốc gia, từng
khu vực. Với tư cách là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới, Việt
Nam là một nước đang phát triển ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, bước
vào thiên niên kỉ mới cùng với sự đổi mới của nền kinh tế xã hội đất nước.
Trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước trong xu thế hội
nhập toàn cầu đó, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ đóng một vai trò
đặc biệt quan trọng và được Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm. Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh “Phát triển khoa học và công
nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [1]..
Trong các trường đại học yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục đại học chính là lòng say mê học hỏi, năng lực sáng tạo, năng
lực tự nghiên cứu của sinh viên-những người chủ tương lai của đất nước. Mục
đích giáo dục đại học là đào tạo ra những sinh viên có tri thức, biết sử dụng và
làm chủ dược những thành tựu của KHCN hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển
của xã hội. Chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức
NCKH của sinh viên. Vì vậy, NCKH của sinh viên trong các trường đại học
nói chung và HVKHQS nói riêng là việc làm cần thiết. Thông qua hoạt động
NCKH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, góp
phần phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đồng thời phát huy năng
lực trí tuệ vốn có của sinh viên, hình thành kỹ năng, phương pháp NCKH và
giúp sinh viên có được thói quen tự học, làm việc độc lập, sáng tạo để củng cố
chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao trình độ và góp phần tạo ra tri thức, sản
phẩm mới cho xã hội.


Tuy nhiên, hiện nay, công tác quản lý hoạt động NCKH của sinh viên


2

tại HVKHQS còn gặp những khóa khăn, hạn chế như: Hệ thống phần mềm
quản lý còn chưa có sự đồng bộ, thống nhất; Hệ thống văn bản quản lý còn
thiếu tính hệ thống; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học
còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; Chế độ, chính sách chưa thực sự khuyến
khích, tạo động lực để sinh viên nghiên cứu khoa học...
Vì vậy, để tìm ra phương hướng khắc phục và góp phần nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng như nâng cao chất lượng đào
tạo, tôi chọn vấn đề ''Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên ở Học viện Khoa học Quân sự" làm đề tài nghiên cứu bởi nó mang
tính thiết thực và cấp bách đối với hoạt động quản lý GD-ĐT của Học viện
trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt
động NCKH của sinh viên và thực tiễn hoạt động NCKH của sinh viên ở
HVKHQS và đề xuất biện pháp quản lý đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên ở HVKHQS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
trường đại học.
- Tìm hiểu thực trạng của công tác quản lý hoạt động NCKH của sinh
viên tại HVKHQS
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên ở
HVKHQS.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài

* Khách thể nghiên cứu của đề tài là: Hoạt động NCKH của sinh viên
tại HVKHQS
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Biện pháp quản lý hoạt động
NCKH của sinh viên ở HVKHQS.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài


3

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động NCKH của sinh viên
từ năm 2012 đến nay và đề xuất các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
NCKH của sinh viên từ nay đến đến năm 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, công tác NCKH của sinh viên tại HVKHQS đã được quan
tâm, đầu tư và thu hút được nhiều đối tượng sinh viên tham gia. Tuy nhiên, vẫn
còn một số sinh viên ngại tham gia các hoạt động NCKH. Nguyên nhân có thể
là chế độ, hình thức và phong trào thi đua, khen thưởng chưa phù hợp, chưa tạo
được động lực để sinh viên tham gia hoặc do công tác quản lý chưa hiệu quả.
Nếu thực hiện tốt các biện pháp quản lý mà luận văn đưa ra sẽ giúp đẩy mạnh
hoạt động và nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên những quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý giáo dục và quản lý
nghiên cứu khoa học; các quan điểm tiếp cận: quan điểm hệ thống-cấu trúc,
quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử-lôgíc.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng một số nhóm phương
pháp như sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp các cơ sở, tài liệu lý luận về quản

lý giáo dục và lý luận quản lý nghiên cứu khoa học.
+ Phương pháp lịch sử nghiên cứu lịch sử vấn đề, tìm hiểu, khai thác
các công trình nghiên cứu về quản lý công tác NCKH trong trường và quản lý
nhà trường.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp thống kê số liệu các đề tài NCKH của sinh viên và các
nhận xét về kết quả nghiên cứu của các đề tài.
+ Phương pháp phỏng vấn (05 cán bộ, giảng viên đại diện cho 05
khoa; 15 sinh viên đại diện cho 15 lớp), điều tra thông qua các mẫu phiếu (60


4

cán bộ, giảng viên đại diện cho 10 khoa, 150 sinh viên, đại diện cho 15 lớp)
để thu thập những thông tin về hoạt động quản lý NCKH của Học viện.
+ Phương pháp quan sát sử dụng nhằm hỗ trợ cho các phương pháp
khác trong quá trình nghiên cứu để thấy rõ hơn hoạt động của sinh viên trong
quá trình tổ chức thực hiện hoạt động NCKH.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của sinh viên: các báo cáo khoa
học, bài tập, đề tài khoa học, khoá luận, luận văn tốt nghiệp.
- Nhóm phương pháp thống kê toán học: Sử dụng thống kê toán học xử
lý số liệu về quản lý hoạt động NCKH của sinh viên góp phần làm cho kết
quả nghiên cứu đảm bảo độ tin cậy chính xác cao.
7. Đóng góp mới của luận văn
Đề xuất các biện pháp khoa học, đồng bộ, có tính khả thi nhằm đẩy
mạnh hoạt động NCKH của sinh viên ở HVKHQS hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm 3 phần:
- Mở đầu
- Nội dung của luận văn gồm 3 chương:

+ Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động NCKH của sinh viên ở
trường đại học.
+ Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động NCKH của sinh
viên ở HVKHQS
+ Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên ở
HVKHQS
- Kết luận và khuyến nghị


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC CỦA SINH VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Giáo dục đại học được quan tâm hàng đầu vào giai đoạn những thập
niên cuối thế kỷ XX, khi khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ mạnh
mẽ. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, quá trình đào
tạo ở các trường đại học đã gắn chặt chẽ với NCKH, với thực tiễn cuộc sống.
NCKH đóng một vai trò, một sứ mệnh to lớn là căn cứ để các trường cập
nhật, đổi mới chương trình và nội dung đào tạo nhằm đưa nền giáo dục nước
ta hội nhập với khu vực và thế giới. Việc tìm ra các giải pháp hay các biện
pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên trong các trường đại học là một
trong những vấn đề được quan tâm của rất nhiều nhà chuyên gia, khoa học có
tâm huyết trong và ngoài nước.
1.1.1. Các công trình ở nước ngoài
Các trường đại học ở Liên Xô trước đây rất coi trọng các hình thức tổ
chức NCKH cho sinh viên, trong đó tổ chức cho sinh viên làm khóa luận, luận
văn tốt nghiệp được coi là quan trọng nhất.
Trong các công trình triết học, thiên tài Lênin đã xây dựng cơ sở

phương pháp luận khoa học của nền khoa học tự nhiên hiện đại và cũng theo
sáng kiến của Lênin lần đầu tiên trong lịch sử khoa học Liên Xô bắt đầu kế
hoạch hoá khoa học trong quy mô toàn quốc đề ra và thực hiện thành công
chính sách phát triển khoa học thống nhất trong toàn quốc.
Năm 1971, A.A.Gơroxepxki và M.T.Lubixưna trong chuyên khảo “Tổ
chức công việc tự học của sinh viên” [11]. cho rằng NCKH của sinh viên đại
học là một trong những hình thức hoàn thiện nhất về mặt đào tạo khoa học, có
hiệu quả thiết thực đối với việc nâng cao trình độ của sinh viên.
Năm 1972, P.T.Prikhodko trong tác phẩm “Tổ chức và phương pháp
công tác NCKH” [27]. đã giới thiệu những nét đặc trưng cơ bản của hoạt
động NCKH của sinh viên. Tác giả đánh giá tầm quan trọng của việc tổ chức


6

cho sinh viên làm đồ án, khóa luận tốt nghiệp, coi đây là những hình thức tập
dượt NCKH nhờ đó mà sinh viên có khă năng tự học suốt đời.
Trong tác phẩm “Research and Report Writing” [9]., tác giả Francesco
Cordasco và Elliots S.M.Gainer đã chỉ ra những hoạt động cụ thể để hình
thành kỹ năng NCKH cho sinh viên.
Tại Singapore năm 1983, hai tác giả Keith Howard và John A.Sharp đã
biên soạn tài liệu “The management of a student research project” [15]. nhằm
giúp sinh viên biết cách quản lý kế hoạch nghiên cứu. Các tác giả đã trình bày
những vấn đề về chọn lựa đề tài, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, tập hợp,
phân tích, xử lý và đánh giá kết quả NCKH.
Năm

1990,

Gary


Anderson

(New

York),

trong

tác

phẩm

“Fundamentals of educational research [10]., tác giả chú trọng đến việc tìm
tòi các nguyên tắc, phương pháp cũng như công cụ, kỹ thuật NCKH để huấn
luyện cho sinh viên.
Năm 1996, tác giả Brian Allison trong cuốn “Research skills for
students- National institute of education” [4]. đã giúp cho sinh viên những lý
thuyết về NCKH, cung cấp kỹ năng tiến hành một cuộc điều tra, thiết kế một
bảng hỏi và những kỹ thuật khi sử dụng phương pháp phỏng vấn.
Như vậy, ở nước ngoài qua nhiều công trình khoa học cho thấy các
tác giả quan tâm không chỉ về phương diện phương pháp luận mà còn đặc
biệt quan tâm đến các vấn đề về tổ chức và các kỹ năng cụ thể cần được
huấn luyện, trang bị cho sinh viên.
1.1.2. Các công trình ở trong nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến KHCN, Người cho rằng KHCN
có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Muốn
xây dựng và phát triển đất nước thì phải quan tâm tới KHCN, Người không
ngừng chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật để
phục vụ nước nhà.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, coi trọng sự phát triển KHCN, GD&ĐT, coi đó là nhận tố,


7

quốc sách hàng đầu. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối
đổi mới, trong đó KHCN được coi là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước; Nghị quyết TW2 khoá VIII (1996) đã khẳng định
quyết tâm của Đảng trong phát triển KHCN, coi KHCN là quốc sách hàng
đầu, khẳng định vai trò nền tảng động lực để thúc đẩy CNH-HĐH đất nước,
Nghị quyết đã nhấn mạnh “Các trường đại học phải là trung tâm NCKH,
công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sổng”.
Nghị quyết 37/TW của Bộ Chính trị khẳng định “Mọi trường đại học phải là
một cơ sở giảng dạy, đồng thời là một cơ sở nghiên cửu khoa học” cho thấy
sự quan tâm hơn nữa của Đảng về vai trò của khoa học công nghệ trong các
trường đại học. Nghị quyết 26/TW của Bộ chính trị tiếp tục nhấn mạnh “Các
trường đại học vừa là cơ sở nghiên cứu và ứng dụng KHCN và đảm bảo kết
hợp giữa viện nghiên cứu và trường đại học, gắn nghiên cứu triển khai với
sản xuất kinh doanh”.
Nghị quyết số 14/2005/NQCP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 có ghi “Gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo
dục với chiến lược phát triển kinh tể xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, nhu
cầu nhân lực trình độ cao của đất nước và xu thế của KHCN”.
Trong Điều 5 của Luật giáo dục Đại học có ghi rõ nhiệm vụ của trường
đại học đó là “Tổ chức triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ, hợp
tác quốc tế theo chiến lược và kế hoạch phát triển của nhà trường” [20]..
Ngày 01 tháng 6 năm 2012, Bộ Giáo dục-Đào tạo đã ban hành Thông tư
số 19/2012/TT-BGDĐT Quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên trong các cơ sở giáo dục đại học. Quy định có 4 Chương và 19 Điều,

gồm những quy định chung; xây dựng kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên; quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên; trách
nhiệm, quyền của sinh viên tham gia NCKH và người hướng dẫn.
Có thể nói rằng, các nghị quyết, nghị định, chỉ thị của Đảng và Chính
phủ đã khẳng định vai trò to lớn của KHCN trong công cuộc CNH-HĐH đất
nước. Đây cũng là các văn bản quan trọng định hướng sự phát triển của
KHCN, đặt ra các mục tiêu cụ thể về quản lý hoạt động KHCN trong các


8

trường đại học, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò quyết định của công tác quản lý hoạt
động KHCN và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động
NCKH ở các trường đại học, cao đẳng, các nhà khoa học đã tiến hành các
nghiên cứu về tính hiệu quả của nó với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau:
Năm 1991, trong đề tài “Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN và lao động sản xuất trong nhà trường”
[37]., tác giả Vũ Tiến Thành đã nghiên cứu và chỉ ra thực trạng của hoạt động
khoa học và công nghệ các trường, đồng thời đưa ra những biện pháp có tính
khả thi cao, đáp ứng được nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ trong
những giai đoạn nhất định.
Năm 1995, Viện nghiên cứu phát triển Giáo dục chủ trì đề tài cấp Bộ
“Điều tra đánh giá hiện trạng tiềm lực khoa học và công nghệ của các
trường đại học và cao đắng Việt Nam” [12]., do tác giả Thân Đức Hiền làm
chủ nhiệm. Đề tài này chỉ dừng lại ở khâu kiểm tra nguồn lực khoa học và
công nghệ ở các trường đại học, cao đẳng tại thời điểm đó mà chưa đề cập
đến giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ.
Năm 1992, giáo trình “Phương pháp luận và các phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục” [14]. của tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức đã

đưa ra những khái niệm chung về phương pháp luận khoa học giáo dục,
những nguyên tắc phương pháp luận và những giai đoạn nghiên cứu một đề
tài khoa học để trang bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết về NCKH.
Năm 1995, giáo trình “Logic học và phương pháp luận nghiên cứu
khoa học” [38]. của Lê Tử Thành, đã giải đáp những yêu cầu của sinh viên,
học viên cao học về kiến thức và cách tiến hành NCKH hiệu quả.
Tác giả Nguyễn Văn Lê trong tài liệu “Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học” [18]. đã hướng dẫn sinh viên cách chọn đề tài, chuẩn bị nghiên cứu
và có kiến thức về các phương pháp NCKH.
Năm 2001, giáo trình “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [39].
của Phạm Viết Vượng đã cung cấp cho sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh những phương pháp luận, cấu trúc công trình NCKH, các giai đoạn


9

tiến hành một đề tài NCKH để hỗ trợ họ thành công trong việc thực hiện các
công trình NCKH.
Năm 2006, trong giáo trình "Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục
của sinh viên sư phạm" [31]. của Phạm Hồng Quang đã giới thiệu hiện trạng
hoạt động NCKH của sinh viên, cung cấp các thông tin bổ ích và hướng dẫn
cách tiến hành NCKH nhằm đạt hiệu quả cao, ứng dụng thực tiễn đạt chất lượng.
Các giáo trình về phương pháp NCKH hay phương pháp luận NCKH
của các tác giả, như: Phạm Viết Vượng, Vũ Cao Đàm, Phạm Hồng Quang,
Lưu Xuân Mới,... đều nhằm cung cấp những kiến thức chung về phương pháp
luận, phương pháp cấu trúc công trình NCKH.
Trong những năm gần đây, có khá nhiều bài viết về hoạt động KHCN
của trường đại học, cao đẳng được đăng trên các tạp chí đều đề cập tới các
giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng KHCN với đào tạo và thực tiễn kinh
tế xã hội trong việc thực hiện các mục tiêu của các trường đại học.

Trong bài viết “Việc bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho
sinh viên đại học” [19]., tác giả Phan Huy Lê đã đề xuất cách bồi dưỡng
phương pháp nghiên cứu cho sinh viên khi giảng dạy là kết hợp giảng kiến
thức với phương pháp để họ không chỉ nâng cao kiến thức mà còn được rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp khoa học.
Trong bài viết “Công tác nghiên cứu khoa học với việc nâng cao chất
lượng đào tạo” [26]., tác giả Nguyễn Tấn Phát đã nhấn mạnh việc đưa
NCKH vào trường học sẽ thúc đẩy sự phát triển khoa học giáo dục, đem lại
những tiến bộ vững chắc cho việc dạy học và giáo dục đồng thời nâng cao
hiệu quả đào tạo ở các trường sư phạm.
Tóm lại, qua các văn bản và công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
có thể thấy các tác giả rất quan tâm tới các vấn đề phương pháp luận và
phương pháp tổ chức quản lý NCKH của sinh viên cũng như những kỹ thuật
và thủ tục tổ chức cho sinh viên NCKH. Những kết quả nghiên cứu trên đã
góp phần to lớn vào việc nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên trong các
trường cao đẳng, đại học.
1. 2. Các khái niệm cơ bản của đề tài


10

1.2.1. Quản lý và biện pháp quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Ngày nay, nhiều người nhận rằng quản lý trở thành một nh ân tố của
sự phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người dựa vào ba yếu tố
cơ bản, đó là tri thức, sức lao động và trình độ quản lý. Tri thức là sự hiểu
biết của con người về thế giới, lao động là sự vận dụng tri thức để tác động
vào thế giới đem lại của cải, vật chất, còn quản lý bao gồm cả tri thức và
lao động. Quản lý là sự tổ chức, điều hành kết hợp vận dụng tri thức với
việc sử dụng sức lao động để phát triển sản xuất xã hội

Khi bàn về quản lý, có rất nhiều quan điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào
cách tiếp cận của mỗi nhà nghiên cứu.
Có thể điểm qua một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu như sau:
Pau Hersey và Ken Blanc Hard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”
thì xem xét “Quản lý như là một quá trình làm việc cùng và thông qua các cá
nhân, các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục đích của
tổ chức” [25]..
Theo C.Mác, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính xã hội hoá lao
động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông
qua hoạt động của con người và thông qua quản lý của con người. Ông viết
“Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đổi lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều
hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khỉ quan độc lập của nó. Một người độc tẩu vĩ cầm tự mình điều khiển lẩy
mình, cỏn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Định nghĩa về quản lý, tác giả Phạm Viết Vượng đưa ra định nghĩa
như sau: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và
hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung phù hợp với quy
luật khách quan” [39]..
Theo tác giả Lê Tử Thành có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm


11

quản lý:
Dưới góc độ điều khiển học: “Quản lý là tỉnh toán sử dụng các nguồn
lực một cách hợp lý nhất để đạt tới hiệu quả kinh tể cao nhất” [38]..
Dưới góc độ chính trị xã hội: “Quản lý là tổ hợp những cách thức,

những phương hướng, phương pháp tác động vào đối tượng để phát huy khả
năng của đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội” [38]..
Dưới góc độ hành động: “Quản lý là quá trình điều khiển những đối
tượng quản lý để đạt được mục tiêu mong muốn”
Dưới góc độ kinh tế học: “Quản lý là tính toán sử dụng các nguồn lực
một cách hợp lý nhất để đạt tới hiệu quả kỉnh tế cao nhất”
Như vậy, khi bàn về quản lý, các tác giả đều có quan điểm thống
nhất chung là: Quản lý là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý
đối với khách thể (đối tượng quản lý) về mặt chính trị, văn hoá, kinh tế, xã
hội… bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và các biện pháp có thể nhằm tạo ra môi trường và đỉều kiện cho sự phát
triển của đối tượng.
Chức năng quản lý là hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Trong quản lý, chức năng quản lý là
phạm trù quan trọng mang tính khách quan và có tính độc lập tương đối. Chức
năng quản lý là kết quả của quá trình phân công lao động. Theo tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh và Mai Phương thì chức năng quản lý là các chức
năng gắn với hoạt động quản lý của chủ thể quản lý làm sao cho hoạt động của
từng đối tượng quản lý và của cả tổ chức quản lý đạt được mục tiêu đề ra.
* Chức năng kế hoạch: Chức năng kế hoạch là quá trình sắp xếp, dự
tính một cách khoa học, trình tự tiến hành các hoạt động, các công việc do
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thực hiện sẽ diễn ra trong một thời
gian và không gian nhất định, với sự bố trí các nguồn lực nhất định và tạo
lập các điều kiện thực hiện để đạt đến mục tiêu một cách hiệu quả nhất. Lập
kế hoạch là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là khâu
khởi đầu của chu trình quản lý. Lập kế hoạch có nghĩa là xác định mục tiêu
cho tổ chức; xác định chương trình hành động, biện pháp, nguồn lực, cách


12


thức để đạt được mục tiêu đề ra. Để thực hiện được chức năng lập kế hoạch,
nhà quản lý phải làm cho mọi thành viên trong tổ chức biết được nhiệm vụ
của mình, biết phương pháp hành động để thực hiện công việc hiệu quả
nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
*Chức năng tổ chức: chức năng tổ chức trong quản lý là việc xây
dựng vai trò, nhiệm vụ, cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận,
sắp xếp và phân bổ nguồn lực cho từng bộ phận, từng thành viên trong tổ
chức nhằm đảm bảo cho họ có thể thực hiện thành công nhiệm vụ của mình
góp phần thực hiện mục tiêu của tổ chức. Tổ chức là một công cụ, nhiệm vụ
của nó càng chuyên sâu thì khả năng hoạt động hiệu quả càng cao. Từ đó,
chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý một cách cụ thể, có hiệu quả
bằng cách điều phối các nguồn lực như: nhân lực, vật lực, tài lực để đạt
được mục tiêu. Quá tình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải đảm
bảo các yêu cầu về: tính tối ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế.
*Chức năng chỉ đạo: Là chức năng thể hiện năng lực của người quản
lý. Sau khi lập kế hoạch và sắp xếp tổ chức người quản lý phải điều khiển
cho hệ thống hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Đây là quá trình chủ
thể quản lý dùng quyền lực quản lý (quyết định, mệnh lệnh) để tác động đến
đối tượng quản lý (con người, bộ phận) một cách có chủ đích nhằm phát
huy hết tiềm năng của họ, hướng dẫn, động viên, thuyết phục, thúc đẩy họ
hoạt động hướng vào đạt mục tiêu chung của tổ chức.
*Chức năng kiểm tra: Đây là chức năng quan trọng của quản lý, là
chức năng xuyên suốt của quá trình quản lý và ở mọi cấp quản lý. Kiểm tra
là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý thông qua
một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám
sát kết quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh sai lệch nhằm thúc đẩy
hệ thống đạt được mục tiêu đã định. Để thực hiện được chức năng kiểm tra,
cần phải có tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra dựa trên các
nguyên tắc khoa học và mục tiêu của tổ chức để có hệ thống kiểm tra thích

hợp. Nhà quản lý dựa trên thông tin thu thập được để xem xét đánh giá ra
quyết định điều hành phù hợp. Đồng thời qua thông tin thu được, nhà quản


13

lý đánh giá những thành công, thất bại và nguyên nhân của nó để rút ra bài
học kinh nghiệm cho quá trình quản lý tiếp theo
Tóm lại, chức năng quản lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý
luận quản lý, giữ vai trò trọng yếu trong thực tiễn quản lý. Chính vì vậy,
trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành tiếp
cận theo 04 chức năng trên.
1.2.1.2. Biện pháp và biện pháp quản lý
Theo từ điển Tiếng Việt năm 1994 của tác giả Hoàng Phê thì “Biện
pháp là cách thức giải quyết một vấn đề nào đó nhằm hướng tới mục tiêu đã
lựa chọn hay là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Hay ta có thể
hiểu biện pháp là cách thức thực hiện để tiến hành giải quyết một công việc
hoặc một nhiệm vụ nào đó để đạt được mục tiêu đặt ra.
Từ cách hiểu trên về khái niệm biện pháp thì biện pháp quản lý là cách
triển khai thực hiện một hoạt động quản lý một đối tượng cụ thể trong
những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ: Biện pháp quản lý tài sản của Học viện
Khoa học Quân sự trong giai đoạn hiện nay.
Theo tác giả Bùi Văn Quân, nghiên cứu về các biện pháp quản lý tại
các cơ sở giáo dục được thực hiện theo nhiều mục tiêu khác nhau: Nhằm
phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, nhằm quản lý hoạt động dạy
học và quản lý hoạt động NCKH… Các biện pháp quản lý có thể được xác
định nhiều cách tương ứng với tiếp cận nghiên cứu đề xuất biện pháp như
xác định biện pháp tương ứng với các phương pháp quản lý; xác định biện
pháp tương ứng với các thành tốt cấu trúc của đối tượng quản lý; xác định
biện pháp theo các chức năng quản lý; xác định phức hợp các biện pháp

theo nhiều tiếp cận.
Trong luận văn này, tác giả đề cập đến biện pháp quản lý của Học viện
Khoa học Quân sự nhằm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên trong những năm tiếp theo.
1.2.2. Khoa học và nghiên cứu khoa học
1.2.2.1. Khoa học


14

Thuật ngữ “Khoa học” được hiểu theo nhiều góc độ và mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và các tiếp cận của mỗi tác giả.
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, quyển XIX, trang 241 đã nêu:
“Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về những quy
luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức
được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cư sở thực tiễn
xã hội”.
Theo Luật Khoa học Công nghệ thì “Khoa học là hệ thống tri thức về
các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy” [22]..
Theo tác giả Phạm Viết Vượng thì “Khoa học là một hình thái ý thức
xã hội phản ảnh hiện thực khách quan, tạo ra hệ thống chân lý về thế giới.
Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái niệm, phạm trù trừu
tượng, những nguyên lý khái quát, những giả thuyết, học thuyết… Khoa
học phản ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc biệt. Khoa học
không ngừng hướng vào giải thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế giới.
Khoa học làm cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên
phải phục vụ cuộc sống” [39]..
Tác giả Lưu Xuân Mới thì cho rằng “Khoa học là những tri thức
được hệ thống hóa, khái quát hóa từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm
nghiệm, nó phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng và khái quát những thuộc

tính, những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức
về những biện pháp tác động có kế hoạch đến thế giới xung quanh, đến sự
nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ lợi ích cho con người [23]..
Tóm lại, có thể nói rằng: Khoa học là những tri thức về các quy luật
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hay nói cách khác khoa học là một hoạt động
xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật của sự vật và hiện tượng và vận dụng
các quy luật ấy để sáng tạo ra các nguyên lý các giải pháp tác động vào các sự
vật hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
1.2.2.2. Nghiên cứu khoa học
Trong các tài liệu hiện nay có khá nhiều định nghĩa về NCKH, sau đây


15

xin được điểm tới những ví dụ tiêu biểu nhất:
Theo Luật Khoa học và Công nghệ “NCKH là một hoạt động phát hiện,
tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng
tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn” [22]..
Theo tác giả Nguyễn Trọng Hoàng, thì “NCKH là hoạt động nhận
thức có đặc trưng tạo ra giá trị nhận thức mới trước đó chưa ai biết... để
giải quyết những mâu thuẫn giữa một bên là những điều chưa ai biết mới
nảy sinh và một bên là những hiểu biết đã có. Những giá trị nhận thức mới
đó sẽ giúp loài người đi sâu vào bản chất, quy luật của thế giới và do đó
nâng cao năng lực nhận thức và cải tạo thế giới của loài người và năng lực
tập thể của xã hội. NCKH có tác dụng bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển
khoa học” [13]..
Theo tác giả Vũ Cao Đàm trong giáo trình “Phương pháp luận NCKH”
cho rằng: “NCKH là hoạt động hướng xã hội vào việc tìm kiếm những điều
mà khoa học chưa biết hoặc phát hiện ra bản chất sự việc, phát triển nhận thức

khoa học về thế giới quan và cách vận dụng chúng vào việc cải tạo thế giới”
[6]..
Theo tác giả Hà Thế Ngữ, “NCKH là một quá trình nghiên cứu hiện
thực khách quan, phát hiện ra những hiểu biết mới có tính quy luật, có tính
chân lý hoặc tìm ra được những quy luật mới, chân lý mới trong hiện thực đó”
[24]..
Tác giả Phạm Viết Vượng đã viết: “NCKH là hoạt động có mục đích,
có kế hoạch, được tổ chức chặt chẽ của các nhà khoa học nhằm khám phá ra
bản chất và quy luật của thế giới khách quan và vận dụng chúng vào việc cải
tạo thế giới" [39]..
Theo tác giả Lưu Xuân Mới thì “NCKH là quá trình nhận thức chân lý
khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu
nhất định để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những
điều mà con người chưa biết đến” [23]..
Theo PGS.TS Bùi Văn Quân “NCKH là nhằm tìm ra lời giải cho một
tình huống có vấn đề, lời giải đó có thể là một thông tin, một phương pháp...


16

mà trước đó chưa có” [28]..
Như vậy, từ các góc độ khác nhau, các tác giả đã trình bày những hiểu
biết hết sức phong phú về hoạt động NCKH. Mỗi tác giả nhấn mạnh một khía
cạnh, làm nổi lên một trọng tâm làm cho việc nhận thức về NCKH trở nên
sâu sắc hơn. Khi tổng hợp các định nghĩa đó ta có thể tìm thấy những điểm
tương đồng trong quan niệm của các tác giả về các đặc điểm của NCKH như
sau:
NCKH là một dạng hoạt động đặc biệt-đó là hoạt động nhận thức thế
giới có tổ chức, có kế hoạch do các nhà khoa học thực hiện.
Đối tượng NCKH là những sự kiện, hiện tượng của thế giới khách

quan mà loài người chưa đủ kiến thức để giải thích.
Mục đích của NCKH là phát hiện ra bản chất và các quy luật vận
động của thế giới để vận dụng vào việc cải tạo thế giới phục vụ cho cuộc
sống của con người.
Sản phẩm của NCKH là hệ thống tri thức mới, hệ thống chân lí
khách quan, đã được kiểm nghiệm được bằng các phương pháp khác nhau.
NCKH là hoạt động được tiến hành bởi một hệ thống các biện pháp,
thủ thuật, với những phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Từ những phân tích như vậy, có thể đề xuất một định nghĩa như sau:
“NCKH là hoạt động có mục đích, có kế hoạch của người thực hiện, bằng các
phương pháp và phương tiện đặc biệt để khám phá bản chất và quy luật vận
động của thế giới, nhằm tạo ra một hệ thống tri thức mới, để vận dụng cải tạo
thế giới, phuc vụ cho cuộc sống của con người”.
Việc thực hiện một NCKH đòi hỏi ở người nghiên cứu phải có một
trình độ kiến thức và kỹ năng nhất định, những kiến thức và kỹ năng
nghiên cứu này trong thời đại ngày nay nói chung đều được hình thành và
phát triển trong quá trình đào tạo trong nhà trường đại học.
1.2.3. NCKH của sinh viên và biện pháp quản lý hoạt động NCKH của
sinh viên
1.2.3.1. Nghiên cứu khoa học của sinh viên


17

Nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động có kế hoạch, có tổ
chức trong nhiệm vụ của sinh viên hướng vào việc tìm kiếm tri thức khoa học
hoặc phát hiện bản chất sự vật hoặc là sáng tạo phương pháp mới, phương tiện
kỹ thuật mới để phục vụ lợi ích của con người thông qua phương pháp, phương
tiện phù hợp.
Tại Mục 1, 2 Điều 16, Điều lệ Trường đại học 2010 quy định vê mục

tiêu, nhiệm vụ hoạt động khoa học và công nghệ như sau “Hoạt động khoa
học công nghệ nhằm tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp, sản phẩm mới, góp
phần hình thành và nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho giảng viên,
nghiên cứu viên và người học và nâng cao chất lượng đào tạo”
Theo tác giả Lê Yên Dung thì: “Hoạt động nghiên cứu khoa học là loại
hình lao động đặc biệt, được tiến hành bởi các nhà khoa học, thông qua hệ
thống các phương pháp, các phương tiện kỹ thuật phù hợp nhằm phát hiện
những hiểu biết mới mang tính quy luật, tạo ra sản phẩm mới phục vụ mục
tiêu hoạt động động của con người” [8]..
Như vậy, NCKH của sinh viên là một nội dung quan trọng trong chương
trình đào tạo ở trường đại học, qua đó hình thành tư duy và phương pháp
NCKH, đáp ứng yêu cầu: giảng dạy kết hợp với thực hành và NCKH, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện; Phát huy tính năng động, sáng tạo, khả
năng nghiên cứu khoa học độc lập của sinh viên, hình thành năng lực tự học
cho sinh viên; Góp phần tạo ra tri thức, sản phẩm mới cho xã hội. NCKH của
sinh viên cũng giống như NCKH nói chung nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của con người, nhằm tìm ra lời giải cho các tình huống có vấn đề, lời giải
đó có thể là một thông tin, một phương pháp...mà trước đó chưa có.
1.2.3.2. Sự cần thiết phải quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
Hoạt động NCKH của sinh viên đóng một vai trò quan trọng trong việc
hình thành kỹ năng nghiên cứu, tư duy khoa học cho mỗi nhà khoa học tương
lai. Mục đích của các trường đại học là đào tạo các nhà chuyên môn có phẩm
chất và năng lực, có khả năng tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh
tế, văn hoá, khoa học, công nghệ quốc gia. Trong thời đại ngày nay, trên con
đường phát triển của mỗi quốc gia, hội nhập toàn cầu, vấn đề nghiên cứu trở


18

nên yêu cầu hàng đầu đối với mỗi chuyên gia. Nghiên cứu không chỉ làm cho

công việc đạt chất lượng, hiệu quả cao mà còn làm cho các chuyên gia đứng
vững và làm chủ tốc độ phát triển của KHCN.
Sinh viên hôm nay chưa phải là nhà khoa học nhưng trong tương lai
gần họ sẽ có khả năng trở thành những chuyên gia năng động và sáng tạo. Họ
có thể là những cán bộ công tác trong các viện NCKH, hoặc làm các ngành
nghề liên quan đến nghiên cứu ứng dụng khoa học kỳ thuật vào thực tế cuộc
sống. Do đó, hoạt động NCKH đối với mỗi sinh viên đang ngồi trên ghế nhà
trường hiện nay được coi như là một hình thức học tập nhưng vô cùng cần
thiết cho tương lai.
Lợi ích của NCKH đối với sinh viên bao gồm một số yếu tố sau:
Tạo cơ hội cho sinh viên tìm tòi phát hiện tri thức mới, bằng sức lực, trí
tuệ của cá nhân để làm giàu tri thức và từ đó tri thức trở nên vững chắc hơn,
có nghĩa là học tập tốt hơn.
Giúp sinh viên tập vận dụng những phương pháp khoa học để giải
quyết những vấn đề thực tế, từ đó hình thành một hệ thống kỹ năng NCKH.
Biết sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào quá trình tìm tòi
khám phá trong học tập hiện tại và công tác sau này.
Qua tập dượt NCKH, ở sinh viên sẽ hình thành những phẩm chất của
nhà khoa học như tính kiên trì, trung thực, khách quan, thận trọng, biết hợp
tác trong cuộc sống và trong công tác.
1.2.3.3. Các hình thức NCKH của sinh viên
Bài tập nhỏ thuộc loại hình nghiên cứu, xử lý một số vấn đề khoa học
cụ thể, thường được thực hiện ngay từ năm thứ nhất và là dịp tổng kết những
kiến thức trọng tâm trong chương trình môn học. Ở những bài tập này có thể
liên hệ mở rộng thêm kiến thức ngoài nội dung giảng dạy và học tập được quy
định trong chương trình. Giảng viên hướng dẫn cho sinh viên tìm hiểu, tra
cứu tài liệu, nghiên cứu thêm một số vấn đề nhằm mở rộng tầm hiểu biết, vận
dụng và khai thác thêm tri thức mới. Thời gian tiến hành bài tập cùng với thời
gian học tập chương trình môn học. Yêu cầu sinh viên tham gia nghiên cứu ở
loại hình này chỉ là: phát hiện các vấn đề trọng tâm của môn học, có khi là tập



19

xử lý một đề tài mà người khác đã bàn tới hoặc tóm tắt các nội dung chính,
sưu tầm tài liệu, ứng dụng thực tế có liên quan đến môn học. Đưa ra những
đánh giá nhận xét với nhận thức chủ quan của mình trên cơ sở nắm bắt đầy đủ
lý thuyết. Vấn đề cốt lõi ở đây là để cho sinh viên hứng thú và có ý tưởng
mới, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu tạo phong cách của cá nhân trong quá
trình học tập tiếp theo.
Bài tập lớn là loại bài tập chính thức được quy định trong chương trình
đào tạo, sau khi sinh viên đã học kiến thức cơ sở ngành và kiến thức chuyên
môn. Với hình thức bài tập này, tất cả sinh viên đều phải làm dưới sự hướng
dẫn của giảng viên. Đây là loại hình nghiên cứu yêu cầu cao hơn bài tập nhỏ,
thời gian nghiên cứu dài hơn và có quy định cụ thể về nội dung, thời gian
hoàn thành, hình thức đánh giá. Việc tiến hành làm bài tập lớn thường gắn với
việc học tập chuyên đề từ năm thứ hai. Những chuyên đề hỗ trợ rất tốt về chất
lượng cho việc làm bài tập lớn của sinh viên. Mục đích chủ yếu của hình thức
nghiên cứu này là cho sinh viên thực hành với các thủ pháp NCKH, tìm hiểu,
tra cứu tài liệu, phát hiện ứng dụng, liên hệ thực tế chứ chưa làm giàu cho
khoa học bằng kết quả của các công trình nghiên cứu. Bài tập lớn được hoàn
thành có thể được bảo vệ trước bộ môn hoặc do hội đồng đặc biệt được bộ
môn thành lập. Kết quả được đánh giá bằng điểm số của môn học. Việc hoàn
thành bài tập lớn có ý nghĩa quan trọng đặt tiền để cho các hình thức nghiên
cứu cao hơn như: làm khoá luận, đồ án tốt nghiệp.
Khoá luận tốt nghiệp là hình thức nghiên cứu cao hơn làm bài tập lớn.
Đây là bài tập NCKH cuối khoá chỉ dành riêng cho những sinh viên có kết
quả học tập đạt từ loại khá trở lên đối với mọi sinh viên Đại học. Giá trị của
khoá luận được tính từ 3 đến 4 đơn vị học trình. Nếu sinh viên chọn đề tài
khoá luận thuộc học phần thi tốt nghiệp nào thì họ được miễn thi học phần đó

để làm khoá luận. Khi làm khoá luận, sinh viên phải đọc nhiều tài liệu có liên
quan nhất là những sách chuyên khảo và phải được một giảng viên chính
hướng dẫn trên cơ sở tinh thần chủ động, độc lập nghiên cứu của sinh viên là
chủ yếu. Việc đánh giá kết quả của khoá luận do một hội đồng do Giám đốc
Học viện quyết định thành lập. Sinh viên được dành khoảng thời gian 30 phút


20

để báo cáo tóm tắt khoá luận. Sau khi phản biện đọc nhận xét, người hướng
dẫn đánh giá kết quả và thái độ làm việc của sinh viên. Toàn thể hội đồng thảo
luận kết quả kể cả việc chất vấn tác giả, cuối cùng là phần bỏ phiếu kín cho
điểm theo thang điểm 10. Điểm của khoá luận là điểm trung bình của các
thành viên hội đồng được công bố công khai ngay trong buổi nghiệm thu.
Đồ án tốt nghiệp về tính chất và mức độ các yêu cầu của đồ án tốt
nghiệp cũng như yêu cầu của khoá luận. Song việc làm đồ án tốt nghiệp được
thực hiện bởi sinh viên các ngành kỹ thuật. Đồ án tốt nghiệp được xem như
chương trình nghiên cứu cuối cùng, khi sinh viên đã hoàn thành tất cả các
môn học và chương trình học tập khác. Nội dung của đồ án tốt nghiệp đối với
các khối ngành kỹ thuật là những hình thức nghiên cứu hướng tới mục đích là
để sinh viên thực hiện NCKH. Đây là cơ sở nền móng giúp cho những chuyên
gia sau này không những giỏi về chuyên môn, mà còn tham gia NCKH có
hiệu quả, chủ động sáng tạo trong công việc. Sinh viên làm đồ án tốt nghiệp
tự chọn đề tài hoặc giảng viên hướng dẫn gợi ý đề tài nghiên cứu. Quá trình
thực hiện đề tài sinh viên phải tra cứu tài liệu, tìm hiểu sâu phần kiến thức
chuyên ngành, có ý tưởng, mô hình cụ thể để ứng dụng các nghiên cứu. Đồ án
tốt nghiệp gồm thuyết minh, số liệu tính toán, so sánh tính kinh tế kỹ thuật lựa
chọn phương án, bản vẽ, mô hình và sản phẩm ứng dụng. Đồ án tốt nghiệp
được bảo vệ trước hội đồng do Giám đốc Học viện ra quyết định thành lập,
kết quả được tính là điểm tốt nghiệp của sinh viên.

Luận văn tốt nghiệp là bài tập NCKH có yêu cầu cao hơn khoá luận tốt
nghiệp chỉ có sinh viên đạt loại giỏi mới có quyền chọn làm luận văn tốt
nghiệp. Nội dung luận văn do sinh viên đề xuất hoặc do giáo viên hướng dẫn
gợi ý, được hội đồng khoa học của khoa phê duyệt. Nếu được làm luận văn tốt
nghiệp sẽ được miễn tất cả các môn thi tốt nghiệp. Như vậy, giá trị của luận
văn được coi là kết quả của phần thi tốt nghiệp bằng 5 đơn vị học trình. Yêu
cầu của luận văn phải thể hiện rõ tính sáng tạo của người nghiên cứu. Việc
đánh giá và xếp loại kết quả luận văn cũng được thực hiện theo phương thức
tổ chức hội đồng nghiệm thu như đánh giá xếp loại khóa luận tốt nghiệp
nhưng yêu cầu cao hơn.


21

Ngoài các hình thức NCKH thuộc chương trình đào tạo trên, các sinh viên
còn tham gia nhiều hình thức NCKH khác như: tham gia viết báo khoa học,
chuyên đề khoa học hoặc tham gia đề tài NCKH cấp khoa, cấp trường,... do
giảng viên hướng dẫn.
1.2.3.4. Biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
Khi nói đến quản lý hoạt động NCKH của sinh viên trường đại học,
chúng ta có thể nói đến một quy trình tác động mang tính pháp lý, tính khoa
học, có mục tiêu rõ ràng của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý nhằm
chỉ huy và điều hành đối tượng bị quản lý và hoạt động NCKH của họ theo
đúng mục tiêu của hoạt động NCKH đã đề ra đó là: Nâng cao chất lượng đào
tạo đại học, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho
CNH - HĐH của đất nước; kết hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học với các
nhiệm vụ đào tạo của nhà trường, ứng dụng các thành tựu khoa học, các tiến
bộ kỹ thuật phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển sự nghiệp
GD&ĐT, phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng và phát triển tiềm lực NCKH
của trường, từng bước hội nhập với nền KHCN hiện đại của khu vực và trên

thế giới. Vì vậy, để quản lý hoạt động NCKH có hiệu quả, Hiệu trưởng (Giám
đốc) thông qua cơ quan chức năng cần thực hiện tốt các biện pháp quản lý.
Biện pháp quản lý hoạt động NCKH là cách triển khai các nội dung
quản lý của Giám đốc (Hiệu trưởng) thông qua cơ quan chức năng về NCKH
đề thực hiện hiện nhiệm vụ, hoàn thành mục tiêu của hoạt động NCKH trong
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Trong hoạt động quản lý, nhà quản lý phải
năm được khoa học và nghệ thuật quản lý, không được áp đặt quyền lực thuần
túy và phải kết hợp nhiều biện pháp quản lý khác nhau:
Biện pháp hành chính
Hoạt động NCKH sinh viên được triển khai theo hệ thống văn bản của
Phòng KHQS mang tính pháp lý. Chính vì vậy, đòi hỏi giảng viên hướng dẫn,
sinh viên NCKH phải tuân thủ những quy định mang tính hành chính về quy
trình đăng ký xét duyệt đề tài, tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu, đánh giá kết
quả nghiên cứu.


22

Biện pháp kế hoạch hoá
Hoạt động NCKH của sinh viên được tiến hành theo kế hoạch phù hợp
với kế hoạch năm học. Tính kế hoạch trong hoạt động NCKH của sinh viên
được thể hiện qua các khâu trong tổ chức xét duyệt đề tài, tổ chức nghiên cứu
và đánh giá kết quả nghiên cứu.
Biện pháp tâm lý-giáo dục
NCKH của sinh viên là một hoạt động đầy khó khăn, thử thách. Đòi hỏi
sinh viên phải kiên trì tập trung trí tuệ, sức lực, thời gian cho công trình nghiên
cứu. Vì Vậy, cơ quan quản lý giáo dục, giảng viên cần phải có những biện pháp
động viên thuyết phục để sinh viên tập trung sức lực cho hoạt động nghiên cứu,
không nản chí hay bỏ giữa chừng, nhằm tạo động lực cho người học hoàn thành
nhiệm vụ nghiên cứu.

Biện pháp tổ chức
Hoạt động NCKH của sinh viên được triển khai theo một thiết chế của
tổ chức với những quy định chặt chẽ, được tiến hành theo định hướng NCKH
của nhà trường, của các khoa và của giảng viên hướng dẫn.
1.3. Quy trình, chức năng quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
1.3.1. Quy trình quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
Để công tác quản lý được chặt chẽ, thống nhất, đòi hỏi mỗi nhà trường
cần phải có quy trình quản lý phù hợp. Theo Quy định về hoạt động nghiên
cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học ban hành kèm
theo Thông tư 19/2012/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đà0 tạo
thì Quy trình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên gồm các
bước sau:
Bước 1: Xác định danh mục đề tài, đăng ký đề tài, lựa chọn người hướng dẫn
Trên cơ sở kế hoạch thời gian chung của Học viện, trường, các khoa, bộ
môn phối hợp với cơ quan quản lý sinh viên lựa chọn những sinh viên có đủ
tiêu chuẩn để tiến hành đề tài nghiên cứu khoa học và báo cáo cáo danh sách
về Phòng quản lý KH vào tháng 9 hàng năm.
Bước 2: Giao đề tài và triển khai thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
của sinh viên.


23

Sau khi có danh sách tên đề tài, người thực hiện và giáo viên hướng dẫn,
Phòng quản lý KH soạn thảo văn bản đề nghị Giám đốc Học viện (Hiệu trưởng)
ra Quyết định giao đề tài hoặc ký hợp đồng và tổ chức triển khai thực hiện. Thời
gian bắt đầu thực hiện từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau.
Bước 3: Tổ chức đánh giá đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở cấp
khoa/bộ môn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của sinh viên, Hội đồng khoa học Khoa lựa

chọn nhân sự để thành lập Hội đồng nghiệm thu cấp khoa.
Bước 4: Tổ chức đánh giá đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở cấp
trường
Sau khi Hội đồng cấp khoa đã nghiệm thu, sinh viên chỉnh sửa hoàn chỉnh
và nộp về Phòng quản lý KH để Phòng quản lý KH tổng hợp báo cáo Giám đốc
Học viện (Hiệu trưởng) ra quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu cấp Học
viện (trường).
Bước 5: Tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết công tác nghiên cứu khoa
học của sinh viên
Đây là nội dung quan trọng của cơ quan chức năng, bởi đây là cơ hội
để trao đổi, đóng góp ý kiến, từ đó rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục
để nâng lượng nghiên cứu khoa học cho những năm tiếp theo.
Bước 6: Tổ chức triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào
thực tiễn
Trên cơ sở kết quả sơ bộ của đề tài, Phòng quản lý KH triển khai nhân bản,
đưa vào áp dụng trong toàn Học viện (trường).
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của phòng (ban) khoa học công nghệ của
trường đại học về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Theo Điều 15 Thông tư số 19/2012/TT-BGDĐT ban hành Quy định về
hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại
học: Phòng (ban) khoa học công nghệ của trường đại học về quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên có chức năng, nhiệm vụ như sau:
Giúp Giám đốc Học viện chỉ đạo, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên.


24

Chủ trì, phối hợp với các phòng/ban, các khoa/bộ môn, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội sinh viên và các tổ chức, đoàn thể khác để tổ

chức triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Theo Điều lệ công tác Nhà trường Quân đội Nhân dân Việt Nam thì chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan khoa học quân sự là:
Chức năng: Là cơ quan tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám đốc, Ban
Giám hiệu, Hội đồng khoa học và đào tạo; chịu sự lãnh đạo của đảng ủy nhà
trường, sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, Hiệu trưởng và hướng dẫn
nghiệp vụ của cơ quan khoa học cấp trên trong tổ chức, điều hành hoạt động
khoa học và công nghệ của nhà trường.
Nhiệm vụ:
Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp
quản lý và thực hiện công tác khoa học và công nghệ; xây dựng kế hoạch phát
triển khoa học công nghệ hàng năm, 5 năm và những năm tiếp theo; tổ chức
thực hiện kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ, biên sọan giáo trình, tài
liệu, ứng dụng khoa học công nghệ vào GD&ĐT.
Là cơ quan thường trực của hội đồng khoa học và đào tạo, có chức
năng đề xuất với đảng ủy và hội đồng khoa học và đào tạo nhà trường về việc
xét duyệt chức danh sỹ quan chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ; xét đề nghị
công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư cho nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục của nhà trường.
Phối hợp với cơ quan đào tạo tổ chức các hội nghị khoa học và đào tạo;
xét đề tài, đề án, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ
vào công tác giáo dục, đào tạo của nhà trường theo quy định của Nhà nước,
Bộ Quốc phòng.
Quản lý, sử dụng vật chất, kinh phí phục vụ công tác nghiên cứu khoa
học, phát triển khoa học và công nghệ, thư viện, hệ thống dữ liệu thông tin số,
kết quả nghiên cứu của tổ chức, cá nhân; tổ chức hợp tác với các trường, cơ
quan, đơn vị về hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học và công
nghệ, chuyển giao công nghệ phục vụ giáo dục, đào tạo và phát triển kinh tế
theo quy định của pháp luật và quy định của Quân đội.



25

Tổ chức các hoạt động thông tin khoa học, xuất bản tạp chí khoa học
của trường, hội thi, triển lãm khoa học và công nghệ.
Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn
diện, hoàn thành tố nhiệm vụ chính trị và các nhiệm vụ khác được giao.
1.3.3. Chức năng quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
Như đã nói ở trên: quản lý hoạt động NCKH của sinh viên là việc thực
hiện các chức năng quản lý của cơ quan chức năng trong quá trình lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên nhằm đạt mục tiêu nghiên cứu khoa học và chất lượng
đào tạo của nhà trường. Như vậy, quản lý hoạt động NCKH sinh viên được
triển khai theo hệ thống văn bản và mang tính pháp lý cao. Chính vì vậy,
trong quá trình tổ chức thực hiện đòi hỏi giảng viên hướng dẫn, sinh viên
NCKH phải tuân thủ những quy định mang tính hành chính về quy trình đăng
ký, xét duyệt đề tài, tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu, đánh giá kết quả
nghiên cứu theo sự chỉ đạo thực hiện của những người có trách nhiệm quản
lý: Trưởng khoa, Trưởng phòng quản lý khoa học, Chủ tịch Hội đồng khoa
học trường.
1.3.3.1. Xây dựng kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên hàng năm
Lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý.
Trong các trường đại học công lập thường áp dụng mô hình quản lý chính quy,
định nghĩa mô hình này do Tony Bush đề xuất, cùng với những đặc trưng chủ
yếu của các mô hình chính quy. “Những mô hình chính quy giả định rằng các
tổ chức là những hệ thống có tôn ti, thứ bậc trong đó người quản lý sử dụng
những biện pháp duy lý để theo đuổi những mục tiêu đã được thoả thuận.
Những người đứng đầu có thẩm quyền được hợp pháp hoá bằng vị trí chính
thức của họ bên trong tổ chức và họ có trách nhiệm trước những thực thể bảo

trợ về hoạt động của các thiết chế của họ”.
Hàng năm, trên cơ sở định hướng phát triển khoa học và công nghệ,
nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp của trường; nhu cầu thực tế của xã
hội, của doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực đào tạo của


×