Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Biện pháp quản lý của hiệu trưởng về việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường THPT lê quý đôn đống đa, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.86 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CỦA HIỆU TRƯỞNG
VỀ VIỆC BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG
THPT LÊ QUÝ ĐÔN – ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CỦA HIỆU TRƯỞNG
VỀ VIỆC BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG
THPT LÊ QUÝ ĐÔN – ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. Nguyễn Mạnh Hùng

HÀ NỘI, 2016



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội của quốc gia, nguồn nhân lực được đào tạo với chất lượng cao
chính là năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế và là đảm bảo chắc
chắn cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục
với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
đã khẳng định “ Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục là khâu then chốt” và “ Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây
dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” . Chiến lược phát
triển giáo dục 2011 – 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hóa các chủ trương, định
hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
-2020 của đất nước.
Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ giáo viên giữ vị trí
vô cùng quan trọng; đây là lực lượng quyết định sự phát triển của sự nghiệp giáo
dục và đào tạo. Luật giáo dục được Quốc hội thông qua và ban hành năm 2005,
điều 14 đã khẳng định: " Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm
chất lượng giáo dục... Nhà nước tổ chức đào tạo,bồi dưỡng nhà giáo; có chính
sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực
hiện nhiệm vụ của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo
tôn vinh nghề nghiệp dạy học" [24; 13], Chính vì vậy, việc xây dựng đội ngũ
giáo viên đủ số lượng, phù hợp về cơ cấu và đảm bảo về chất lượng là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục - đào tạo nước ta. Quan điểm này đã
được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính

phủ: " ... đổi mới chương trình giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là các giải
pháp trọng tâm; đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá".

1


Nghị quyết Đại Hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng về phương hướng
nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo là chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục về chất lượng chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ nghề
nghiệp. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong
việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên . Đánh giá về thực trạng đội ngũ giáo
viên hiện nay chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ đã chỉ rõ:
" Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng
dần về chất lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng
yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo.
Đối với đội ngũ giáo viên các trường THPT trong những năm qua đã được
chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới hiện nay thì vẫn còn nhiều bất cập. Đánh giá về thực trạng
đội ngũ giáo viên các trường THPT hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) đã nêu rõ: " Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, vừa không
đồng bộ về cơ cấu chuyên môn chưa theo kịp được yêu cầu giáo dục nghề
nghiệp, cơ cấu chưa thật hợp lý". Do vậy, trong thời gian từ nay đến năm 2020,
mục tiêu nhiệm vụ cơ bản của giáo dục phổ thông là: chuẩn hóa trong đào tạo,
tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Chú trọng
nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo để
làm gương cho học sinh. Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo để đến năm 2020, 100% giáo viên phổ thông đạt chuẩn trình độ đào tạo
trong đó, 38,5% giáo viên THPT đạt trình độ trên chuẩn.
Thực trạng đội ngũ giáo viên các trường THPT hiện nay đang trong tình
trạng thừa về số lượng, hạn chế về chất lượng và cơ cấu chưa thật hợp lý; vẫn

còn nhiều bất cập so với tiêu chuẩn chức danh giáo viên mà Nhà nước đã quy
định.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo trước hết phải tìm cách nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên, đây là vấn đề được đặt ra từ nhiều năm nay đối với giáo
dục chuyên nghiệp, bởi chất lượng đội ngũ giáo viên trước hết phụ thuộc vào
chất lượng đào tạo ban đầu, tiếp đến là công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên trong suốt quá trình làm việc của người giáo viên. Đây là giai
2


đoạn dài, gắn liền với chủ trương học tập suốt đời trong " xã hội học tập" . Do
nhiều nguyên nhân, trong những năm vừa qua các chủ trương bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên chỉ là những giải pháp tình thế, không được thực hiện thường xuyên và
chưa có hệ thống, nội dung bồi dưỡng nặng về lý thuyết nhưng ít được bồi
dưỡng về đổi mới phương pháp, kiểm tra đánh giá, sử dụng phương tiện thiết bị
dạy học,...v.v. Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đáp ứng
yêu cầu phát triển giáo dục chuyên nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, một đòi hỏi tất yếu hiện nay là phải có sự đổi mới trong
hoạt động quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra
các giải pháp quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.
Đã có một số công trình nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên, song nhìn chung chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể về biện
pháp quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong hệ thống các trường THPT
trên cả nước với những đặc thù riêng của hệ thống giáo dục trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Với những lý do trên đây, chúng tôi xin chọn đề tài: "Biện pháp quản lý
của Hiệu trưởng về việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường THPT Lê Quý
Đôn – Đống Đa" làm đề tài của luận văn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng về việc bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa trong giai đoạn
hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý của hiệu trưởng đối với việc bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên Trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng về việc
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên của Trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa.

3


4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

4.1. Xác định cơ sở lý luận cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
4.2. Đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và công tác
quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa
trong giai đoạn hiện nay.
4.3. Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa trong giai đoạn hiện nay.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Một số biện pháp quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở trường phổ thông
có nhiều và là hệ thống biện pháp đồng bộ, do điều kiện triển khai nghiên cứu
hạn hẹp nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số biện pháp quản lý của
Hiệu trưởng về việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên của trường THPT Lê Quý Đôn

– Đống Đa trong giai đoạn hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phân tích, so sánh, tổng hợp các tài
liệu có liên quan để xác định cơ sở lý luận cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
6.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp chuyên gia, toạ đàm, trao đổi, lấy ý kiến,
6.4. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế (bằng Phiếu hỏi),
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN GỒM
Mở đầu Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên; Chương 2: Thực trạng đội ngũ giáo viên và công tác quản lý của hiệu
trưởng về việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Lê Quý Đôn –
Đống Đa ; Chương 3: Một số biện pháp quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên ở trường THPT Lê Quý Đôn – Đống Đa; Kết luận và khuyến nghị, danh
mục các tài liệu tham khảo và phụ lục.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm quản lý
Trong xã hội loài người, quản lý là một việc làm bao hàm lên mọi mặt của
đời sống xã hội. Nó ra đời khi xã hội có sự phân công lao động, đòi hỏi sự hợp
tác trong lao động tập thể trên một quy mô nào đó hoặc khi con người hoạt động
cùng nhau với mục đích chung. K. Marx từng coi việc xuất hiện của quản lý như
một dạng hoạt động đặc thù của con người được gắn liền với sự phân công và

hiệp tác lao động; như là kết quả tất yếu của sự chuyển những quá trình lao động
cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình lao động xã hội được tổ
chức lại: " Trong tất cả những công việc mà có nhiều người hiệp tác với nhau thì
mối liên hệ chung và sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong
một ý chí điều khiển và trong những chức năng không có quan hệ với những
công việc bộ phận, mà quan hệ với toàn bộ hoạt động của công xưởng, cũng
giống như trường hợp nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao
động sản xuất cần phải được tiến hành trong một phương thức sản xuất có tính
chất kết hợp" [16; 587].
Tác giả Nguyễn Bá Sơn cho rằng: " Có nhiều cách tiếp cận khái niệm
quản lý. Thông thường, để đơn giản hoá người ta hiểu quản lý dưới nhiều dạng
khác nhau đó là: chỉ huy, lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, cai quản, kiểm tra" [35;
14] và có thể định nghĩa một cách khái quát: " Quản lý là sự tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải pháp
nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối
cùng phục vụ lợi ích của con người…" [25; 15].
Tác giả Phan Văn Kha: " Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc
sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được mục tiêu đã định" [24; 6].
5


Theo tác giả Trần Quốc Thành có nhiều cách khác nhau tiếp cận khái
niệm quản lý [11; 3].
Dưới góc độ kinh tế học: " Quản lý là tính toán sử dụng các nguồn lực
một cách hợp lý nhất để đạt tới hiệu quả kinh tế cao nhất" .
Dưới góc độ điều khiển học: " Quản lý là sự sắp xếp tối ưu nhất các phần
tử trong tổ chức sao cho hệ thống ấy có trật tự tối ưu" .
Dưới góc độ chính trị xã hội: " Quản lý là tổ hợp những cách thức, những
phương pháp tác động vào đối tượng quản lý để phát huy hết tiềm năng của đối

tượng nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn" .
Dưới góc độ hành động: " Quản lý thực chất là quá trình điều khiển những
đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu mong muốn" .
Như vậy, cần hiểu khái niệm quản lý bao hàm những khía cạnh sau:
- Đối tượng tác động của quản lý là một hệ thống hoàn chỉnh giống như
một cơ thể sống. Nó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố theo một quy
luật nhất định.
Ví dụ: một nhà trường, một bệnh viện, một doanh nghiệp…
- Hệ thống quản lý gồm có sự liên kết hữu cơ giữa chủ thể quản lý. Theo
tác giả Nguyễn Quang Uẩn thì đó là sự liên kết hữu cơ giữa chủ thể quản lý và
chủ thể bị quản lý. Quá trình đó tạo sản phẩm kép đó là sản phẩm mang tính chủ
thể (uy tín, năng lực, phẩm giá) và sản phẩm mang tính xã hội (kinh tế, chính trị,
quan hệ xã hội…) [59; 5].
Tác động quản lý thường mang tính chất tổng hợp, hệ thống tác động
quản lý gồm nhiều giải pháp khác nhau thường thể hiện dưới dạng tổng hợp của
một cơ chế quản lý.
Cơ sở của quản lý là các quy luật khách quan và điều kiện thực tiễn của
môi trường.
- Mục tiêu cuối cùng của quản lý là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi ích cho
con người. Mọi giải pháp quản lý đều không có hiệu quả nếu không chú ý đến
con người.
Như vậy, quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý nhằm điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người,
6


huy động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích của tổ chức và
phù hợp với quy luật khách quan.
Hoạt động quản lý rất đa dạng, phức tạp với nhiều chức năng khác nhau.
Các chức năng có sự liên kết hữu cơ trong một hệ thống nhất quán.

Chức năng quản lý cũng là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý. Vì vậy, thực chất các
chức năng quản lý chính là hình thức tồn tại của các tác động quản lý.
Có nhiều cách phân loại các chức năng quản lý:
Nếu xét theo sự vận động của các công việc trong quản lý và phân loại
theo hướng vận động thì có 2 chức năng là đối nội và đối ngoại.
Chức năng đối nội của quản lý là các tác động của nhà quản lý đối với nội
bộ tổ chức hay hệ thống, bao gồm từ mục tiêu, chiến lược giải quyết các mối
quan hệ, huy động nguồn lực, quá trình vận động của tổ chức bộ máy, lề lối làm
việc đào tạo nhân lực, chọn phương pháp hoạt động ...
Chức năng đối ngoại của quản lý là quá trình vận hành hệ thống trong
một môi trường biến động hết sức phức tạp của bên ngoài. Nó bao gồm các hoạt
động như phân tích các đối tác, tìm ra mặt mạnh, yếu của đối tác để đưa ra
chính sách đối ngoại hợp lý.
Nếu xét theo một hệ thống, thông thường chức năng tồn tại 5 hình
thức cơ bản:
Chức năng kỹ thuật: biểu hiện quá trình vận động theo công nghệ các hình
thức hoạt động của vật chất nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng.
Chức năng tài chính: là vấn đề cơ bản, nguồn tiếp xúc bảo đảm cho sự tồn
tại, vận động của hệ thống trong quá trình đạt tới mục tiêu cuối cùng.
Chức năng an toàn: nhằm bảo vệ sự tồn tại và hoạt động bình thường của
hệ thống.
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn quản lý có 8 chức năng: " Chức năng dự
đoán, chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, động viên, phối hợp, điều chỉnh, hạch
toán, kiểm tra" [35; 106].
Theo Trần Quốc Thành thì quản lý có 4 chức năng đó là: Lập kế hoạch, tổ
chức, điều hành - điều khiển, kiểm tra [21; 3].
7



Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: " Từ năm 1990 đến nay người ta
thường cho rằng quản lý có 4 chức năng đó là: kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo,
kiểm tra" [29; 2].
Mỗi chức năng quản lý là một hoạt động tất yếu khách quan và có tính
độc lập tương đối nhưng chúng lại có sự liên kết chặt chẽ, hữu cơ trong một hệ
thống nhất quán. Vì vậy, việc phân chia các chức năng quản lý theo những giai
đoạn tác động cũng chỉ là tương đối, thí dụ để lập kế hoạch được phải dự báo;
trong chức năng tổ chức có chức năng phối hợp động viên; trong lãnh đạo có
quản trị nhân sự, điều khiển . Trên thực tế, các giai đoạn diễn ra đôi khi không
tuần tự và không tách bạch được. Bởi vậy, mới dẫn đến việc phân chia không
giống nhau ở các tác giả khác nhau.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm chia các chức năng theo quá trình quản lý
thành 4 chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra.
Bốn chức năng của quản lý thể hiện mối quan hệ như sơ đồ sau:
Lập kế
hoạch

Tổ chức

Kiểm tra
đánh giá

Lãnh đạo,
chỉ đạo

Sơ đồ 1-2: Mối quan hệ giữa các chức năng của quản lý
Lập Kế hoạch: là xác định các mục tiêu chiến lược và các thời kỳ xây
dựng các phương án tổ chức, triển khai thực hiện, tính toán cân đối các yếu tố
vật chất; chọn giải pháp hợp lý; xác định bước đi cụ thể, hình dung tường tận
quá trình diễn biến từ mục tiêu chính sách, đường lối thành hiện thực. Kế hoạch

hoá bao gồm cả lập kế hoạch và đưa kế hoạch thành hiện thực.

8


Tổ chức: là quá trình sắp xếp, liên kết giữa các yếu tố công việc - con
người - bộ máy sao cho phù hợp, ăn khớp với nhau, cả trong nội bộ từng yếu tố,
nhằm lựa chọn quyết định phương án cụ thể, hợp lý các phương tiện vật chất
(vật tư, vốn, lao động, ...).
Lãnh đạo: đó là việc định hướng và các tác động huy động, điều hành,
điều khiển cán bộ dưới quyền thực hiện những nhiệm vụ được giao. Hoạt động
lãnh đạo là làm việc với con người, cá nhân và tập thể, là xây dựng mối quan hệ
trong tổ chức, là khích lệ, động viên, tạo dựng bầu không khí tâm lý tích cực
trong đơn vị.
Kiểm tra: đó là việc quản lý xem xét, nắm được tình hình bộ máy, nắm
được tiến trình đạt đến mục tiêu để kịp thời điều chỉnh kế hoạch và các tác động
quản lý. Không kiểm tra là buông lỏng công tác quản lý. Kiểm tra đi liền với
đánh giá.
Như vậy, quản lý là thực hiện các chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra các hoạt động và việc thực hiện các mục tiêu đề ra.
Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả phải nắm vững và
vận dụng các quy luật khách quan. Nhịp cầu đầu tiên nối liền hoạt động của con
người với quy luật là hệ thống nguyên tắc. Nguyên tắc quản lý nối liền hoạt
động quản lý với các quy luật. Nguyên tắc quản lý cũng còn là những quy định
của Nhà nước mang tính pháp lệnh, làm cơ sở tiến hành và chỉ đạo mọi hoạt
động quản lý đi đúng quỹ đạo và tiến đến mục tiêu.
Nguyên tắc được hình thành dựa trên cơ sở khách quan. Thứ nhất là các
quy luật; thứ hai là điều kiện cụ thể của môi trường kinh tế xã hội, của trình độ
quản lý, của xu thế phát triển ...
Được hình thành trên các cơ sở khách quan song bản thân nguyên tắc vẫn

là sản phẩm chủ quan của con người. Do vậy, phải không ngừng đổi mới hoàn
thiện, nâng cao chất lượng hệ thống các nguyên tắc và phải có sự vận dụng sáng
tạo các nguyên tắc trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Hệ thống nguyên tắc quản lý rất phong phú, đa dạng được phân loại tuỳ
theo mục tiêu và căn cứ phân loại.

9


Trong quản lý nhà nước ở nước ta, thường hệ thống nguyên tắc bao gồm
các nguyên tắc cơ bản là: đảm bảo tính Đảng; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân
chủ; đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn; kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá
nhân và tập thể; đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động; nguyên tắc kết
hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương vùng và lãnh thổ.
- Nguyên tắc tính Đảng:
Nguyên tắc này yêu cầu mọi chủ trương, quyết định quản lý phải bám sát
và quán triệt mọi chủ trương chính sách của Đảng.
Cơ sở khoa học của nguyên tắc là sự thống nhất hữu cơ giữa 2 lĩnh vực
kinh tế và chính trị.
Đảm bảo tính Đảng phải quán triệt quan điểm của Đảng về ngành mình
phụ trách; xây dựng đội ngũ mạnh về tư tưởng, trong sạch về đạo đức, giỏi về
chuyên môn, luôn luôn tôn trọng và tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc rất cơ bản trên mọi lĩnh vực cũng như trên lĩnh vực
lãnh đạo, quản lý. Tập trung dân chủ là 2 mặt của một thể thống nhất. Một mặt
phải đảm bảo yêu cầu tập trung thống nhất vào một đầu mối - đảm bảo chế độ
một thủ trưởng, có như vậy mới rễ quy trách nhiệm cho cá nhân hoặc những
nhóm người cụ thể, tránh hiện tượng phân tán, rối loạn, triệt tiêu sức mạnh và
tiềm năng chung. Một mặt, dân chủ là đứng trên quan điểm phát huy, khai
thác mọi tiềm năng, tăng tính chủ động sáng tạo trong hành động của người

thực hiện.
Nguyên tắc tập trung dân chủ giúp cho người quản lý có nhiều nguồn
thông tin, tránh được sự quan liêu, đề cao được quyền làm chủ của nhân dân,
thoả mãn được nguyện vọng của quần chúng.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và thực tiễn:
Nguyên tắc này đảm bảo việc lãnh đạo, quản lý phải đúng các nguyên
tắc, các phương pháp. Các nguyên tắc, phương pháp phải phù hợp với thực
tiễn sao cho các bước đi của bộ máy phù hợp với quy luật khách quan.
Thực hiện nguyên tắc yêu cầu phải nắm vững được các xu thế phát triển
của ngành mình quản lý, nắm vững các quy luật tâm lý của cấp dưới, nắm vững
thực tiễn của địa phương, đơn vị, ngành mình phụ trách.
10


- Nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội.
Lợi ích là mục tiêu cuối cùng là vấn đề quan tâm hàng đầu của quản lý.
Lợi ích vừa là mục đích, yêu cầu, vừa là động lực mạnh mẽ nhất đối với hoạt
động của con người: " ở đâu không có sự thống nhất về lợi ích, ở đó không thể
có sự nhất trí về mục đích và hành động" . Có thể nói nguyên nhân thành công
hay thất bại của quản lý về cơ bản nhất bao giờ cũng bắt nguồn từ lợi ích. Nếu
không đảm bảo lợi ích, cá nhân sẽ không làm việc, nhưng nếu không đảm bảo
lợi ích tập thể thì tập thể không tồn tại. Mặt khác lợi ích cá nhân, tập thể không
được phủ nhận lợi ích chính đáng của xã hội. ở những giai đoạn phát triển khác
nhau của lịch sử xã hội, cơ cấu lợi ích của con người cũng thay đổi rất nhanh và
ngày càng phức tạp. Bởi vậy, cần có sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và tập
thể.
- Nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động:
Đây là vấn đề mang tính quy luật của mỗi chế độ kinh tế - xã hội. Hiệu quả
vừa là mục tiêu hàng đầu vừa là phương hướng, tiêu chuẩn đánh giá trình độ,

năng lực quản lý.
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội
là nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả cao. Thực ra, để đạt được hiệu quả tất yếu
phải tiết kiệm đến mức tối đa có thể được. Tiết kiệm cũng là một tiêu chuẩn để
đánh giá hiệu quả. Quản lý cần phải xây dựng tiêu chuẩn xem xét đánh giá hiệu
quả đúng đắn. Mặt khác, quan điểm đánh giá không chỉ dừng lại bó hẹp ở một
đơn vị riêng biệt mà phải dựa trên quan điểm toàn diện, tổng hợp; phải xét ở một
phạm vi không gian càng rộng càng tốt và trong một khoảng thời gian lâu dài;
tránh tình trạng vội vàng dẫn đến tình trạng nhầm lẫn.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương,
vùng và lãnh thổ:
Cơ sở hình thành của nguyên tắc là sự kết hợp chặt chẽ giữa phân bố các
cơ sở của ngành trên từng địa bàn thuộc phạm vi cả nước.
Quản lý cần có sự thống nhất giữa cơ sở với ngành, cơ sở với địa phương
cũng như cả nước.

11


Trong hoạt động quản lý, nhà quản lý có phương pháp quản lý là công cụ,
là bộ phận chủ yếu và năng động nhất của quản lý. Quản lý có đạt được hiệu quả
và mục tiêu hay không đều do phương pháp quyết định. Phương pháp trong
quản lý thường mang tính chất tổng hợp đồng bộ, nhất quán và ăn khớp với
nhau. " Phương pháp là công cụ quản lý, có đặc trưng cơ bản là luôn luôn tác
động lên con người" [27; 95].
Có rất nhiều phương pháp quản lý tuỳ theo cách phân loại khác nhau.
Phân loại thường dựa vào nội dung và tính chất hoạt động của quản lý. Theo cách
này, có các phương pháp chủ yếu như sau: phương pháp thuyết phục, phương pháp
kinh tế, phương pháp hành chính tổ chức, phương pháp tâm lý giáo dục.
- Phương pháp thuyết phục

Thuyết phục là dùng lý lẽ tác động vào đối tượng để làm thay đổi nhận
thức của đối tượng quản lý kiến đối tượng tự nguyện thừa nhận yêu cầu của nhà
quản lý từ đó thay đổi thái độ, hành vi cho phù hợp.
Cơ sở khoa học của phương pháp này là quy luật tâm lý của con người.
Nhận thức là cơ sở của hoạt động tâm lý. Khi con người có nhận thức đúng sẽ có
thái độ, hành vi đúng. Ngược lại, nhận thức sai dẫn đến thái độ, hành vi sai. Vì
vậy, tác động vào nhận thức là tác động vào cái gốc. Khi cái gốc tư tưởng mà
thông thì những mặt khác dễ được giải quyết. Tất nhiên thuyết phục có thể "
đánh vào" tình cảm, thái độ trước, nhưng cái chính vẫn là thay đổi nhận thức.
Có thể thay đổi nhận thức sai thành đúng qua một số biện pháp khác nhau.
Trong đó, thuyết phục là biện pháp có lợi nhất nó tránh được sự trả giá ở một số
biện pháp khác. Thuyết phục phải được coi là biện biện pháp đầu tiên, không
thuyết phục được mới phải dùng các biện pháp khác.
Về đặc điểm: đây là phương pháp cơ bản để giáo dục con người. Chủ thể
quản lý tác động vào đối tượng quản lý, không chỉ bằng lý lẽ của mình mà còn
bằng tình cảm, tấm gương, uy tín của mình. Cũng cần chú ý rằng phương pháp
này luôn gắn bó với tất cả các phương pháp khác.
Hướng tác động: có thể thuyết phục chung (thuyết phục một vấn đề gì đó
với mọi người); có thể thuyết phục riêng từng người hoặc từng nhóm người. Cần
lưu ý, thuyết phục dựa trên cơ sở tự nguyện không được ép buộc, phải dùng uy

12


tín, lý lẽ để thuyết phục, phải xoá bỏ hàng rào ngăn cách về mặt tâm lý giữa cấp
trên với cấp dưới. Thuyết phục phải kiên nhẫn, cố gắng vận dụng đến cùng, nếu
không thể thuyết phục được thì mới dùng phương pháp khác. Mục tiêu cuối
cùng phải thay đổi nhận thức, quan điểm thái độ, hành vi của đối tượng.
Về mặt kinh tế, con người bao giờ cũng hướng tới quyền lợi. Về mặt tâm
lý, bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xét đến cùng là quan hệ lợi

ích. Lợi ích là cái móc nối liên kết hoặc chia rẽ các thành viên. Trong cơ quan,
trong tập thể có bao nhiêu thành viên là có bấy nhiêu lợi ích. Lợi ích của con
người được thể hiện ở các nhu cầu. Trong đó, có nhu cầu vật chất, có nhu cầu
tinh thần. Vật chất tuy không phải là nhu cầu vô hạn như nhu cầu về tinh thần
song lại là nhu cầu số 1, là cơ sở của mọi nhu cầu khác. K.Marx đã khẳng định:
con người ta cần có ăn, ở, mặc trước khi cần có nhu cầu khác như hoạt động
chính trị, vui chơi giải trí.
Nội dung của phương pháp là đưa ra các lợi ích kinh tế cho đối tượng tự
lựa chọn từ đó phương pháp hành động tương ứng.
Hướng tác động của phương pháp:
Điều chỉnh hoạt động của các đối tượng quản lý bằng các hoạt động vật
chất khác để xác lập trật tự kỷ cương, gắn trách nhiệm cá nhân với quyền lợi vật
chất họ được hưởng, thưởng, phạt, phụ cấp, tiền lương...
- Phương pháp hành chính tổ chức
Hành chính tổ chức là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính.
Cơ sở của phương pháp là các qui luật về tổ chức. Bất kỳ một bộ máy nào
cũng phải được sắp xếp theo trật tự quan hệ trên dưới, ngang dọc. Chính cơ cấu
này xác lập trật tự và nhà quản lý điều hành. Lúc này, nhà quản lý không cần
dùng nhiều lý lẽ, biện pháp kinh tế mà dùng quyền lực. Không có phương pháp
này nhà quản lý không thể điều hành được.
Đặc điểm: đây là phương pháp mang tính chất cưỡng chế đơn phương.
Khi một quyết định ban ra cấp dưới chỉ chấp hành và mức độ cưỡng chế đó tuỳ
thuộc vào tính chất của từng cơ quan và tuỳ thuộc vào từng tình huống. Phương
pháp này khơi dậy động lực và sức mạnh của mỗi tổ chức. Nếu tổ chức đánh
mất quyền lực thì tổ chức đó không còn phát huy tác dụng.
13


Hướng tác động của phương pháp: có thể tác động về mặt tổ chức bằng

việc ban hành các văn bản, quyết định mang tính chất pháp lý cho toàn bộ hệ
thống. Có thể tác động điều chỉnh bằng các mệnh lệnh cụ thể. Cần lưu ý: dùng
mệnh lệnh hành chính phải đúng mức, nếu quá sẽ nhờn, hiệu quả sẽ kém đi
và dẫn đến quan liêu mệnh lệnh vì gây cho cấp dưới tâm lý tiêu cực, tìm
cách đối phó.
- Phương pháp tâm lý xã hội
Đây là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng, sở thích của đối tượng, bằng dư luận xã hội, bầu
không khí tập thể...
Phương pháp dựa trên các cơ sở các quy luật tâm lý xã hội đối với con
người, tạo ra sự tự định hướng, điều chỉnh, điều khiển hoạt động của đối tượng
(cá nhân, nhóm, tập thể...).
Nội dung: dùng các phương pháp tác động đến đặc điểm tâm lý, truyền
thống văn hoá xã hội của người lao động để khai thác ý thức tự giác, tiềm
năng của người lao động, kích thích người lao động tự giác, tích cực hoàn
thành nhiệm vụ.
Hướng tác động: bản thân phương pháp không thể tác động độc lập mà
phải phối hợp với các phương pháp khác.
Trong thực tiễn quản lý, các phương pháp vừa nêu phải được sử dụng
tổng hợp, bởi vì:
Thứ nhất, mỗi phương pháp chỉ vận dụng một vài quy luật trong khi đối
tượng quản lý chịu sự tác động của hàng loạt quy luật;
Thứ hai, mỗi phương pháp chỉ điều chỉnh được một vài mối quan hệ nào
đó, còn hệ thống quản lý hết sức phức tạp, đồng thời diễn ra nhiều mối quan hệ
không thể tách rời nhau, gắn bó hữu cơ với nhau;
Thứ ba, đối tượng quản lý là những con người, nhóm người rất phức tạp
vừa có nhu cầu vật chất vừa có nhu cầu tinh thần, vừa muốn thể hiện, khẳng
định mình. Ở mỗi con người, nhóm người nhưng tồn tại thế giới riêng về tâm
hồn, tâm linh. Do vậy, chỉ có thể liên kết giữa các phương pháp mới điều chỉnh
tổng hoà các mối quan hệ phức tạp nói trên.


14


Bốn phương pháp quản lý vừa nêu, chúng ta thấy mỗi phương pháp đều
có mặt mạnh, mặt hạn chế. Các mặt mạnh của phương pháp này phần nào khắc
phục mặt hạn chế của phương pháp kia.
1.1.2. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng
a. Khái niệm đào tạo
Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Thân-Quản trị nhân sự, Nhà xuất bản Thống kê
năm 1996: Đào tạo là các hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề trong
kỹ năng của nhân viên đối với công việc hiện hành ngay trước mắt.
Theo tài liệu đề tài KX 07-14, Nguyễn Minh Đường định nghĩa như sau: "
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát
triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách mỗi
cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và
hiệu quả" . [24; 11]
Đào tạo là một trong những thuộc tính cơ bản của quá trình giáo dục,
nó có phạm vi, cấp độ, cấu trúc và những hạn định cụ thể về thời gian, nội
dung và tính chất.
b. Khái niệm bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để năng cao trình
độ trong một lĩnh vực hoạt động mà người lao động đã có trình độ chuyên môn
nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó. Bồi dưỡng là thêm vào, tăng cường
các yếu tố để người lao động làm cho tốt hơn, giỏi hơn những việc đang làm.
Theo tài liệu đề tài KX 07-14, Nguyễn Minh Đường định nghĩa như sau: "
Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc
hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp
theo các chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người lao động

có cơ hội để củng cố và mở mang một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng,
chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả
hơn và thường được xác định bằng một chứng chỉ" . [24; 13]

15


Như vậy bồi dưỡng là hoạt động nhằm nâng cao năng lực và phẩm chất
chuyên môn để người lao động làm việc có hiệu quả hơn những công việc đang
đảm trách chứ không vì mục đích để đổi nghề.
1.1.3. Khái niệm " Biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên"
a. Khái niệm Biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên
- Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề, một công việc cụ thể
nào đấy, để đạt được kết quả tốt nhất theo chủ trương, phương hướng đã định.
- Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết vấn đề quản lý để đạt
được kết quả tốt nhất theo chủ trương, phương hướng đã định.
Như vậy, biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên là cách làm, cách giải
quyết vấn đề quản lý bồi dưỡng giáo viên để đạt được kết quả tốt nhất theo chủ
trương, phương hướng đã định.
b. Các nhóm biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên
Có nhiều biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên nhưng thông thường các
giải pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên đề cập đến một số mặt sau:
- Nhóm biện pháp về chiến lược, kế hoạch mục tiêu,
- Nhóm biện pháp về tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra,
- Nhóm biện pháp về đảm bảo các nguồn lực,
- Nhóm biện pháp về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng
- Nhóm biện pháp về đổi mới, hoàn thiện chính sách.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TRIỂN VỌNG CỦA GIÁO DỤC HỆ THPT

1.2.1. Vị trí, vai trò của giáo dục hệ phổ thông

Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia, câu hỏi đầu tiên, và đột phá chú trọng đầu tiên bao giờ cũng nói tới
giáo dục phổ thông, vì giáo dục phổ thông là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo
dục quốc dân và chính nó sẽ là cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ thống giáo
dục. Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nước trên thế giới có những quan
điểm và mô hình giáo dục khác nhau, tuy nhiên về hệ thống giáo dục của từng
nước, chúng ta thấy có những điểm tương tự nhau là: giáo dục mầm non (hay
16


còn gọi là giáo dục tiền học đường), giáo dục phổ thông, giáo dục dậy nghề và
đại học…Giáo dục mầm non là giáo dục giành cho trẻ từ lọt lòng đến 5 tuổi, đây
là cấp học mở đầu cho quá trình phát triển của mỗi con người với nhiệm vụ chủ
yếu mang tính dẫn dắt giúp trẻ có được những kiến thức ban đầu để có thể làm
quen, thích nghi dần với cuộc sống và phát triển tiếp theo. Giáo dục phổ thông
giành cho lứa tuổi từ 6 đến 18 tuổi, cấp học này cung cấp những kiến thức phổ
thông, cơ bản ban đầu giúp tuổi trẻ có thể tiếp tục học nghề hoặc học lên và
cũng có thể đi vào cuộc sống tự nuôi sống mình và cống hiến cho xã hội. Giáo
dục dạy nghề và giáo dục đại học là giáo dục chuyên sâu và nâng cao, tiếp tục
vũ trang cho người học những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt giúp người học
trưởng thành một cách toàn diện, có thể chủ động đi vào cuộc sống theo nhiều
hướng phát triển phong phú, đa dạng để cống hiến cho xã hội… Như vậy có thể
nói, các cấp học trong hệ thống giáo dục là một chỉnh thể thống nhất, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một dòng chảy liên tục có chủ đích cho quá
trình phát triển của mỗi con người. Trong hệ thống này công bằng mà nói chúng
ta có thể khẳng định, giáo dục phổ thông có một vị trí hết sức quan trọng, nó là
chiếc cầu nối cơ bản, nó là cấp học mang tính nền tảng của cả hệ thống giáo dục
của mỗi quốc gia. Chất lượng của giáo dục phổ thông do vậy trước tiên ảnh
hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục dạy nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng
hơn, chính nó là nguồn gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng của

nguồn lực lao động từng nước. Bởi vậy trong chiến lược phát triển giáo dục,
phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, câu hỏi đầu tiên, trọng tâm đột phá
đầu tiên là chú trọng chăm lo cho cấp học phổ thông. Nhận thức rõ vị trí quan
trọng này của giáo dục phổ thông, ngày từ khi mới giành được chính quyền,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống giáo dục
hoàn chỉnh và toàn diện. Hệ thống giáo dục do Nhà nước ta quản lý, bên cạnh
giáo dục mầm non, giáo dục bổ túc văn hóa cho người lớn tuổi không có điều
kiện học hết phổ thông, giáo dục dậy nghề và giáo dục đại học là giáo dục phổ
thông. Giáo dục phổ thông nước ta, đã qua nhiều thời kỳ cải cách và tổ chức dậy
học theo các mô hình chủ yếu như hệ giáo dục 9 năm trong kháng chiến chống
Pháp, hệ giáo dục 10 năm trong kháng chiến chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và hệ giáo dục 12 năm từ khi nước nhà thống nhất đến nay.
17


Quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng ta về phát triển giáo dục nói chung và
phát triển giáo dục phổ thông nói riêng, nhà nước ta, nhân dân ta nói chung và
ngành giáo dục nói riêng đã chăm lo không ngừng cho giáo dục phổ thông. Giáo
dục phổ thông đã tạo nên những thành tựu hết sức quan trọng và to lớn, cung
cấp cho xã hội nhiều lớp thế hệ trẻ, thông minh, sáng tạo, trung thành, dũng
cảm, giầu lòng nhân ái, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, vì dân tộc, hoàn thành xuất
sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần chiến đấu và xây dựng tổ quốc phát triển
như hôm nay…Tuy nhiên cùng với sự đổi mới và phát triển đất nước nói chung,
trước nhất là sự vận hành nền kinh tế thị trường, cùng với sự mở rộng hội nhập,
gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát triển của một xã hội
thực thi nền dân chủ mở rộng, hệ thống giáo dục của ta nói chung và cấp học
phổ thông nói riêng đang hết sức lúng túng trong sự chuyển đổi để thích nghi
với hoàn cảnh lịch sử mới của dân tộc và thời đại. Nói riêng về giáo dục phổ
thông, biểu hiện rõ nét nhất của sự lúng túng là xác định mục tiêu đào tạo chưa
rõ, từ đó kéo theo sự lúng túng về xác định nội dung dậy học, sách giáo khoa, tổ

chức quản lý dậy và học… Sự lúng túng này đã gây ra nhiều tác hại , làm cho
giáo dục phổ thông luôn luôn trong tình trạng phát triển thiếu ổn định, cộng với
những tác động do đặc điểm kinh tế xã hội trong quá trình chuyển đổi tạo ra,
khiến cho hệ thống giáo dục phổ thông một thời gian dài phát triển trong sự chật
vật…Trường lớp thiếu, giáo viên thiếu và có một bộ phận không đáp ứng, sự
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội thiếu gắn bó, dẫn đến giảm sút chất
lượng giáo dục ở một số mặt, trong đó nổi lên là bệnh hình thức, thành tích,
thiếu trung thực trong học tập, thi cử. Đạo đức của một bộ phận học sinh chưa
thật tốt… Hơn 20 năm đổi mới và đặc biệt những năm gần đây, giáo dục nói
chung, trong đó có giáo dục phổ thông đã có nhiều cố gắng khắc phục những
nhược điểm và lúng túng, vươn lên không ngừng, với mong muốn làm tốt vị trí,
vai trò của cấp học nền tảng trong hệ thống, góp phần đào tạo cho xã hội lớp
người mới, có phẩm chất đạo đức cao đẹp, kiến thức và năng lực thích hợp với
tiến trình phát triển mới của đất nước…Không ai có thể phủ nhận những cố gắng
kiên trì, và những thành tựu quan trọng đầy tính thuyết phục… Tuy nhiên, khách
quan, và thật sự cầu thị mà nói, những cố gắng đó vẫn chưa thể đem lại những
khát vọng mà cả dân tộc mong muốn và lẽ ra nó có thể còn đạt những thành tựu
18


cao hơn, nếu như chúng ta có được một chiến lược rõ ràng, cụ thể về phát triển
giáo dục phổ thông nằm trong chiến lược phát triển toàn bộ hệ thống giáo dục
nước nhà…Phải khẳng định các cấp quản lý giáo dục những năm qua đã liên tục
đưa ra các giải pháp đổi mới về phát triển giáo dục phổ thông nhưng rất tiếc vẫn
chưa có được những giải pháp đem lại những hiệu quả cơ bản. Bởi vậy giờ đây,
chúng ta cần xem xét, chủ động, tích cực đổi mới một cách toàn diện trong tổ
chức và quản lý phát triển giáo dục phổ thông. Hơn bao giờ hết,chỉ có nâng cao
chất lượng giáo phổ thông, chúng ta mới tạo ra được tiền đề cho nâng cao chất
lượng giáo dục dậy nghề và đại học và quan trọng hơn là nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước…Để làm được

việc này, chúng ta phải tiến hành nhiều công việc, nhưng theo tôi trước mắt
chúng ta cần tập trung làm tốt các công việc sau đây. I. Chúng ta cần nhận thức
đầy đủ hơn về đặc điểm của giáo dục phổ thông, nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn về các quan điểm cơ bản của Đảng ta về phát triển giáo dục nói chung,
trước nhất là giáo dục phổ thông nói riêng. Như ta đã biết giáo dục là hoạt động
có chủ đích của con người, nó là một quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của môi trường xã hội nhằm phát triển toàn diện con người, vũ trang cho
con người những kiến thức và kỹ năng cơ bản để họ sẵn sàng bước vào cuộc
sống. Do vậy có thể nói giáo dục là một phạm trù luôn luôn có tính phổ biến,
phát triển liên tục, mãi mãi. Bởi lẽ đây là hoạt động riêng biệt của xã hội loài
người, ở đâu có con người tất ở đó có giáo dục, giáo dục tồn tại cùng với xã hội
loài người, nó là một trong những động lực để thúc đẩy sản xuất và phát triển xã
hội con người. Bên cạnh đó giáo dục lại mang tính lịch sử, bởi lẽ giáo dục luôn
luôn vận động và phát triển theo các giai đoạn lịch sử của xã hội loài người.
Cũng vì thế giáo dục luôn luôn mang tính giai cấp, các giai cấp trong xã hội luôn
lấy giáo dục làm nơi đào tạo con người theo hệ tư tưởng của mình, phục vụ cho
lợi ích phát triển của giai cấp mình…Có thể nói mỗi dân tộc, mỗi nhà nước có
một nền giáo dục riêng, mang bản chất giai cấp của nhà nước cầm quyền. Bài
học rút ra ở đây là một khi tình hình và nhiệm vụ thay đổi tất nhiên nền giáo dục
phải có những thay đổi, tuy nhiên thay đổi theo quan điểm nào, học tập và phát
triển theo mô hình nào, tất yếu chúng ta không thể tùy tiện…Giấo dục phổ thông
bên cạnh những đặc điểm chung ấy nó còn có những đặc điểm riêng cần lưu ý
19


là: Hoạt động giáo dục phổ thông trước nhất là một hoạt động liên quan đến tâm
sinh lý lứa tuổi, nó đòi hỏi toàn bộ hoạt động dậy và học của nhà trường, bên
cạnh phải đề cao mục đích giáo dục lại phải lưu ý tới tính vừa sức, ở đây mọi
hoạt động giáo dục không được phép hời hợt, không được phép sai lầm, tất cả
đều phải được chú ý chăm sóc tốt, đều phải được nêu gương tốt bởi vì tâm hồn

của các em đang là tờ giấy trắng mà ở đó nhà trường và thầy giáo bắt đầu đặt
những nét vẽ đầu tiên… Xuất phát từ nhận thức rõ các đặc điểm của giáo dục,
căn cứ vào lịch sử đấu tranh và phát triển của đất nước, qua từng thời kỳ cách
mạng Đảng ta luôn luôn có quan điểm và đường lối phát triển giáo dục một cách
đúng đắn và sáng tạo nhằm tạo ra những thế hệ công dân mới theo sự phát triển
của đất nước. Đảng ta khẳng định, giáo dục là một bộ phận không thể tách rời
trong toàn bộ mục tiêu, đường lối cũng như nhiệm vụ trong suốt tiến trình cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng, của đất nước. Giáo dục là sự nghiệp tự giác chung của quần chúng nhân
dân, giáo dục do vậy là một hoạt động mang tính xã hội hóa cao. Giáo dục phải
được tiến hành trong sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, xã hội và gia đình,
giáo dục kết hợp chặt chẽ với thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh phát triển
của xã hội… Trên nền tảng các quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, giáo
dục phổ thông cần được nhận thức và tổ chức phát triển theo các quan điểm cụ
thể sau. Trước nhất cần phải nắm vững mục tiêu đào tạo cụ thể của cấp học phổ
thông. Đề cập tới mục tiêu, thực chất chúng ta đề cập tới một vấn đề có ý nghĩa
chiến lược. Mục tiêu cấp học là một khái niệm, một phạm trù khoa học giáo dục
quy định toàn bộ quá trình giáo dục phải hướng tới. Để xác định rõ mục tiêu của
giáo dục phổ thông trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, chúng ta phải
phân tích cụ thể đặc điểm lịch sử phát triển của đất nước hiện nay, cần phải căn
cứ vào đường lối phát triển kinh tế - xã hội, đường lối phát triển giáo dục của
Đảng, cần phải thừa kế tốt những thành tích, kinh nghiệm giáo dục đã có, kết
hợp học tập có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế…Trên nền nhận thức đó phải
chăng mục tiêu của giáo dục phổ thông trong giai đoạn mới là: góp phần trang bị
cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kỳ mới những cơ sở ban đầu hết sức quan trọng của
con người mới, con người lao động thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển toàn diện…Nhận thức đúng cơ sở ban đầu là hết sức quan trọng, bởi ở cấp
20



học này chúng ta chưa thể trang bị kiến thức, kỹ năng sống và lao động hoàn
thiện cho người học, cũng do vậy đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đáp ứng nhu
cầu của thị trường, phải đào tạo theo đơn đặt hàng của thị trường là không hợp
lý, và vì nhu cầu của thị trường mà chúng ta vội vàng nhồi nhét hàng núi kiên
thức của loài người vào cấp học này thì tất yếu quá trình dậy và học sẽ quá tải,
dẫn đến một sự đào tạo áp đặt không nên có. Cơ sở ban đầu chưa phải là tất cả,
chưa phải là hoàn thiện, và cũng không thể đơn thuần liệt kê những phẩm chất
và năng lực của con người mới mà đó là sự khái quát những phẩm chất và năng
lực cơ bản nhất của con người mới, những tổ hợp phẩm chất và kỹ năng sống và
lao động có văn hóa, với tinh thần chủ động, sáng tạo, bước đầu biết ứng dụng
khoa học, kỹ thuật, có trách nhiệm và kỷ luật cao…,những tổ hợp phẩm chất và
năng lực của lòng yêu thương cao cả con người, đất nước và xã hội chúng ta
đang sống…,những tổ hợp phẩm chất và kỹ năng của tinh thần đấu tranh bảo vệ
công bằng và lẽ phải... Nắm vững mục tiêu đào tạo của cấp học giúp chúng ta
vững vàng trong tiến trình tổ chức, quản lý tốt quá trình phát triển cấp học đạt
hiệu quả cao. Lịch sử phát triển giáo dục phổ thông ở nước ta cho hay toàn bộ
hoạt động dạy và học ở nhà trường phổ thông phải được tiến hành đồng bộ,
thống nhất trong sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động cụ thể sau: Giáo dục phải
gắn chặt với lao động sản xuất và đấu tranh phát triển xã hội; học phải đi đôi với
hành và nhà trường phải gắn liền với xã hội, nhà trường luôn luôn là pháo đài
tỏa sáng những giá trị văn hóa và trí tuệ ... Chất liệu để thực hiện được mục tiêu
chính là nội dung đào tạo. Nội dung đào tạo của giáo dục phổ thông chính là hệ
thống tri thức, kỹ năng mà nhà trường phổ thông có trách nhiệm truyền thụ cho
thế hệ trẻ. Để xác định chuẩn xác hệ thống tri thức, kỹ năng này đúng với nục
tiêu đào tạo, gữi được sự ổn định tương đối theo sự phát triển từng giai đoạn
chung của đất nước, tránh được sự lạc hậu theo thời gian và tiến trình phát triển
của nhân loại, tránh được sự quá tái… chúng ta cần nắm vững quan điểm giáo
dục toàn diện. Tức là bảo đảm 5 nội dung giáo dục : Giáo dục đạo đức; giáo dục
văn hóa (tức các kiến thức khoa học, kỹ thuật phổ thông) lâu nay ta vẫn gọi là trí
dục; giáo dục thể chất lâu nay thường gọi là thể dục, vệ sinh; giáo dục lao động

kỹ thuật tổng hợp; giáo dục thẩm mỹ…Năm nội dung giáo dục này có mối quan
hệ mật thiết hữu cơ với nhau, bổ trợ cho nhau cho nên cần phải được tiến hành
21


thực hiện một cách hài hòa, hợp lý, tôn trọng như nhau, không coi nhẹ nội dung
nào…Xung quanh nội dung giáo dục của cấp học phổ thông, lâu nay vẫn còn
nhìeu tranh luận và trên thực tiễn có lúc, có nơi, thậm trí khi xây dựng chương
trình đào tạo, khi biên soạn sách khoa chúng ta mắc phải những thiếu sót đáng
tiếc ví dụ như việc giáo dục đạo đức, trước nhất là giáo dục chính trị, tư tưởng
và phẩm chất cách mạng, lối sống văn minh lành mạnh còn bị coi nhẹ, việc giáo
dục trí dục không cân đối, lúc nhấn mạnh khoa học tự nhiên, đưa tăng thêm kiến
thức tự nhiên một cách vội vã, khi coi nhẹ khoa học xã hội, trong đó đặc biệt
giáo dục chưa đầy đủ truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc...Nhận thức về
giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thông còn đơn giản, do đó chỉ được
quan tâm giảng dậy đơn thuần qua bộ môn nhạc họa chứ chưa được lồng ghép.
phối hợp chặt chẽ thông qua tất cả các hoạt động, các môn học trong nhà trường,
để xây dựng cái đẹp trong tâm hồn tuổi trẻ, đó là cái đẹp trong học tập và lao
động, cái đẹp trong quan hệ ứng sử, cái đẹp môi trường thiên nhiên, cái đẹp của
nghệ thuật…Việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cũng chưa được quan tâm một
cách khoa học và vừa sức…Kỹ thuật tổng hợp được dậy ở nhà trường phổ thông
không phải là tất cả các kiến thức kỹ thuật vốn có của loài người, mà ở đây là
những kiến thức khoa học cơ sở của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nó
được biên soạn, dẫn giải để thúc đẩy học sinh vào đời, thành người lao động
mới, nó cần cho tất cả mọi người sống văn minh và hạnh phúc. Do vậy có thể
nói giáo dục kỹ thuật tổng hợp trong nhà trường phổ thông phải bảo đảm là kiến
thứccơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn phát triển của Việt Nam. Giáo dục
kỹ thuật tổng hợp trong nhà trường phổ thông là xu thế chung của tất cả các
trường phổ thông trên thế giới, với nước ta trước tiến trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, giáo dục kỹ thuật tổng hợp trong nhà trường phổ thông là

hết sức cần thiết và quan trọng. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp trong nhà trường
phổ thông nếu được tổ chức tốt, tức là chúng ta đã chuẩn bị những tiền đề hướng
nghiệp tốt nhất cho tuổi trẻ chuẩn bị bước vào đời. Cần có chiến lược giáo dục
phổ thông trong chiến lược phát triển giáo dục . Vừa qua Bộ giáo dục đã dự thảo
chiến lược phát triển giáo dục thời kỳ phát triển mới của đất nước. Dự thảo
chiến lược này khá toàn diện, nhiều vấn đề mới có tính đột phá…Tuy nhiên
riêng ở chiến lược này, giáo dục phổ thông vẫn chưa được quan tâm phát triển
22


đúng với vị trí nền tảng của nó, cũng như đặc điểm phát triển của nó. Do vậy
chúng ta có thể dự báo nếu như chiến lược này được chấp thuận thì giáo dục phổ
thông vẫn chưa thể nhanh chóng thoát khỏi những khiếm khuyết mà một thời
gian dài nó đang chịu đựng…Theo chúng tôi, trên nền tảng quán triệt sâu sắc kết
luận của Bộ chính trị ngày 15-4-2009 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết TƯ2
khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2022, chúng ta
cần khẳng định và làm rõ hơn nữa mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông
trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa, có vậy những giải pháp về nội
dung dậy học, về thời gian đào tạo, về sách giáo khoa, về các hoạt động xã hội
hóa, về cơ sở vật chất, về đội ngũ thầy giáo, về nguồn lực tài chính mới có thẻ
có những lời giải hợp lý và hiệu quả… III. Trong khi chuẩn bị chiến lược phát
triển, chúng ta cần chủ động, khẩn trương lựa chọn những việc làm ngay để khắc
phục dần những khiếm khuyết của giáo dục phổ thông. Hoan nghênh 3 năm trở
lại đây, ngành giáo dục đã mạnh dạn đưa ra nhiều nhiệm vụ mang tính đột phá
như: nói không với tiêu cực trong học tập và thi cử, khắc phục bệnh thành tích
trong giáo dục, ban hành chính sách tài chính trong giáo dục…Đó là những đột
phá đã đem lại những kết quả tốt, lấy lại chất lượng đúng của giáo dục, lấy lại
niềm tin của nhân dân với nhà trường. Tuy nhiên những đột phá đó vẫn là những
đột phá chung của cả hệ thống giáo dục, chứ chưa tập trung vào giải quyết
những khó khăn lúng túng của giáo dục phổ thông. Phân tích những ưu điểm và

khó khăn của giáo dục phổ thông thời gian qua, đẻ tiếp tục tạo ra sự chuyển biến
bền vững cho giáo dục phổ thông, ngành giáo dục nên tiếp tục đi vào các đột
phá về quản lý và chỉ đạo sau. Trước nhất cần tổng kết đánh giá chính xác những
thành tựu và tồn tại của giáo dục phổ thông trên 20 năm đổi mới, cần đỏi mới
phương pháp nghiên cứu và tổng kết các hoạt động giáo dục sao cho việc nghiên
cứu đảm bảo tính khoa học, tính thiết thực,thông qua việc phân tích định tính và
định lượng các hiện tượng giáo dục để đánh giá sản phẩm giáo dục, để chỉ ra sự
vận động của tiến trình giáo dục, rút ra những quy luật khách quan của quá trình
dậy và học trong tình hình đất nước đang biến đổi…Đi liền với sự tổng kết ấy là
điều chỉnh để có sự hợp lý của chưong trình, biên chế từng cấp học và từng năm
học, cũng như sách giáo khoa. Sự điều chỉnh cần chú trọng bảo đảm kế thừa,
bảo đảm tiết kiệm chi tiêu của ngân sách nhà nước cũng như đóng góp của nhân
23


×