Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

PHÂN TÍCH tác ĐỘNG của các yếu tố bên TRONG và bên NGOÀI đối với HOẠT ĐỘNG của NGÂN HÀNG SAIGONBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.23 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ BÊN TRONG VÀ BÊN
NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG SAIGONBANK

A. MỞ ĐẦU
Với các kiến thức đã thu nhận được từ môn học Quản trị sản xuất tác nghiệp
cùng với sự nghiên cứu tìm hiểu của bản thân, bài viết này sẽ tập trung phân tích
các vấn đề theo yêu cầu của bài tập tại tổ chức t¹i Ngân hàng thương mại cổ
phần Sµi Gßn c«ng th¬ng (SAIGONBANK) Theo đó, nội dung bài viết sẽ
tập trung vào các vấn đề:
- Tác động của bối cảnh nền kinh tế và thị trường đối với hoạt động của
SAIGONBANK trong giai đoạn hiện nay.
- Ưu tiên cạnh tranh tối ưu của SAIGONBANK
- Các điều kiện, nội lực cần thiết của SAIGONBANK cần có để đạt được ưu
tiên cạnh tranh tối ưu và đánh giá các rào cản có thể gặp phải khi triển khai
chiến lược cạnh tranh này.
B.PHÂN TÍCH
1. Tác động của bối cảnh nền kinh tế và thị trường đối với hoạt động của
SAIGONBANK trong giai đoạn hiện nay:
Trong thời gian gần đây (từ năm 2007 đến các tháng đầu năm 2009), cùng
với các tổ chức tín dụng khác tại Việt Nam, SAIGONBANK đã và đang hoạt
động trong bối cảnh có nhiều khó khăn và cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
1


Thø nhÊt: Việc gia nhập WTO của Việt Nam với cam kết mở cửa trong
lĩnh vực Ngân hàng với việc Chính phủ Việt Nam cho phép các Ngân hàng nước
ngoài được phép thành lập chi nhánh tại Việt Nam và được cung cấp toàn bộ các
dịch vụ Ngân hàng tại Việt Nam. Cam kết này tạo ra sự cạnh tranh rất gay gắt
trong lĩnh vực hoạt động Ngân hàng khi các Ngân hàng nước ngoài có thế mạnh
vượt trội và tính đa dạng các sản phẩm/ dịch vụ, hệ thống công nghệ mạnh theo
các chuẩn mực quốc tế và kĩ năng quản trị cao. Đồng thời, cùng với trào lưu


thành lập rầm rộ các Ngân hàng thương mại cổ phần đặc biệt là các Ngân hàng
mang tính chất ngành của các Tổng công ty/ Tập đoàn lớn trong năm 2007 đã
làm gia tăng đáng kể số lượng các Ngân hàng hoạt động trên thị trường Việt
Nam. Các yếu tố này đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng trong
lĩnh vực hoạt động tài chính tại Việt Nam và điều đó cũng làm cho thị phần hoạt
động của Vietcombank ảnh hưởng theo.
Thứ hai: Trong năm 2008 và các tháng đầu năm 2009, với các vấn đề hoạt
động của nền kinh tế và từ các chính sách quản lý vĩ mô của Chính phủ, Ngân
hàng nhà nước đã gây ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của SAIGONBANK. Với
mục tiêu kiềm chế lạm phát, giữ ổn định thị trường tiền tệ, trong năm tháng đầu
năm 2008, Ngân hàng nhà nước đã thực thi thắt chặt chính sách tiền tệ thông
qua các giải pháp như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng tất cả mức lãi suất cơ
bản, tái cấp vốn và chiết khấu để hạn chế tăng trưởng tín dụng, liên tục hút tiền
từ lưu thông về thông qua hoạt động thị trường mở, phát hành tín phiếu bắt buộc
và thực hiện lộ trình chuyển tiền gửi kho bạc từ hệ thống tổ chức tín dụng về
Ngân hàng nhà nước. Theo đó, Ngân hàng nhà nước chuyển sang điều hành
công cụ lãi suất cơ bản với nội hàm thay đổi từ lãi suất mang tính chất tham
khảo đối với các TCTD sang lãi suất phản ánh cung cầu thị trường làm cơ sở để
các tổ chức tín dụng xác định lãi suất huy động và cho vay đối với nền kinh tế.
Diễn biến bất lợi này đã làm cho các tổ chức tín dụng (trong đó có
SAIGONBANK) phải đối mặt với khó khăn trong cân đối nguồn vốn. Bên cạnh
việc áp dụng các pháp hạn chế đến mức thấp nhất sự gia tăng tín dụng, các tổ
2


chức tín dụng không ngừng chạy đua trong công tác huy động vốn nhằm đảm
bảo khả năng thanh toán của mình. Ttại thời điểm đó, khả năng thanh khoản của
SAIGONBANK vẫn đảm bảo hoạt động an toàn cho Ngân hàng. Tuy nhiên, với
mức lãi suất tăng cao trên thị trường, SAIGONBANK cũng phải liên tục điều
chỉnh nâng mức lãi suất để giữ chân khách hàng. Do đó, trong năm 2008, các

dịch vụ huy động vốn được các Ngân hàng huy động với mức lãi suất tăng cao
(có thời điểm tăng 200% so với lãi suất cùng kỳ năm trước). Điều này đã tạo ra
một khoản chi phí lớn của Vietcombank trong việc chi trả lãi tiền gửi tiết kiệm
cho khách hàng. Trong khi đó, khoản cấp tín dụng phải hạn chế dẫn đến Ngân
hàng chỉ cấp được tín dụng cho khách hàng theo mức khống chế chỉ tiêu tăng
trưởn tín dụng do Ngân hàng nhà nước qui định. Động thái này đã ảnh hưởng
đáng kể tới thu nhập từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát tại Mỹ từ quý
III/2008 và đến Qúy IV/2008, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật và EU bắt đầu
rơi vào suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu có nhiều nguy cơ xảy ra. Tác
động này đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt
là lĩnh vực xuất nhập khẩu của các Doanh nghiệp Việt Nam. Khi các giải pháp
thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô,
từ tháng 07/2008, Ngân hàng nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ
bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ
động ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Ngân hàng nhà nước kịp thời điều
chỉnh lãi suất cơ bản, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, nâng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc…. Nhưng các chính sách này cũng không hỗ trợ được nhiều cho các tổ
chức tín dụng (trong đó có SAIGONBANK). Về phía khách hàng, do ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với tình hình sản xuất kinh doanh bị đình trệ,
khách hàng cũng không mặn mà với các sản phẩm tín dụng của Ngân hàng mặc
dù lãi suất vay của SAIGONBANK đã giảm một cách đáng kể và đặc biệt là từ
tháng 1/2008, các khách hàng có nhu cầu vay vốn kinh doanh có thể được xem
xét để hỗ trợ lãi suất (với mức hỗ trợ lãi suất là 4%/ tháng) theo chính sách hỗ
3


trợ của Chính phủ. Về phía Ngân hàng, với một lượng vốn khả dụng khá lớn từ
hoạt động huy động vốn trong năm 2008 với mức lãi suất cao thì nay phải cấp
tín dụng cho khách hàng với mức lãi suất vay giảm đáng kể so với cùng kì năm

2008. Điều này đã cho thấy hiệu quả hoạt động của SAIGONBANK bị giảm
một cách đáng kể khi chi phí đầu vào - chi phí từ hoạt động huy động vốn cao
hơn rất nhiều so với thu nhập - thu nhập từ hoạt động cho vay (do giá đầu vào
cao hơn so với giá đầu ra).
2. Ưu tiên cạnh tranh tối ưu của SAIGONBANK:
Trong bối cảnh hoạt động như trên, SAIGONBANK xác định lựa chọn ưu
tiên cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là chiến lược cạnh tranh về sự
khác biệt của dịch vụ (trong đó bao gồm chất lượng dịch vụ và tính đa dạng
hóa của dịch vụ). Trong lĩnh vực hoạt động tài chính-ngân hàng, các sản phẩm,
dịch vụ của các tổ chức tín dụng về cơ bản là tương đối đồng nhất, đặc biệt là
các dịch vụ được cung cấp theo phương thức truyền thống là kênh giao dịch
trực tiếp khi khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng. Do đó, để nâng cao năng
lực cạnh tranh của SAIGONBANK trên thị trường tài chính – ngân hàng hiện
nay, SAIGONBANK xác định sẽ tập trung vào hai vấn đề chính: (i) Đa dạng
hóa các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng; (ii) nâng cao chất lượng dịch vụ.
Với các mục tiêu trên, SAIGONBANK xác định:
- Đối với kênh phân phối truyền thống (giao dịch trực tiếp với khách hàng):
Tại SAIGONBANK cũng như các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, dịch vụ
huy động vốn và dịch vụ cho vay được coi là 2 dịch vụ cơ bản của kênh
phân phối truyền thống. Theo đó, Vietcombank chủ trương sẽ gia tăng thêm
các tiện ích của dịch vụ huy động vốn, dịch vụ cho vay và đa dạng hóa các
sản phẩm của hai dịch vụ này, cụ thể:
 Đối với dịch vụ huy động vốn, SAIGONBANK cần nghiên cứu để
đưa ra các sản phẩm thu hút được khách hàng và tạo được sự khác
biệt với các Ngân hàng khác từ mức lãi suất huy động, cơ chế linh
4


hoạt của việc gửi/rút, các chương trình khuyến mại/ chương trình
quay thưởng… đi kèm.

 Đối với dịch vụ cho vay, SAIGONBANK sẽ phát triển tín dụng theo
hướng đón đầu các giải pháp của Chính phủ về thúc đẩy sản xuất, kích
cầu cũng như định hướng về chính sách tài khóa, tiền tệ. Đồng thời,
SAIGONBANK chủ động tiếp cận cho vay các lĩnh vực, đầu mối
triển khai/ liên quan đến chương trình kích cầu đầu tư như: cho vay
bắc cầu ngân sách, các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm…
 Ngoài ra, SAIGONBANK cũng chủ trương nâng cao chất lượng dịch
vụ tài trợ thương mại, đây là một lĩnh vực mà SAIGONBANK có thế
mạnh trong những năm qua với mạng lưới quan hệ tài khoản với các
Ngân hàng đại lý lớn trên thế giới cũng như kỹ năng chuyên môn cao
của các cán bộ nghiệp vụ trong lĩnh vực thanh toán quốc tế tại
SAIGONBANK. Điều đó được thể hiện qua thị phần Vietcombank
nắm giữ đối với hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu đứng đầu trên
thị trường so với các Ngân hàng hoạt động tại Việt Nam. Do vậy, mục
tiêu hoạt động của SAIGONBANK là phải tiếp tục đứng đầu thị
trường trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và phải gia tăng được thị
phần của hoạt động này trên thị trường. Bên cạnh đó, chất lượng dịch
vụ cũng được SAIGONBANK quan tâm để nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ cho khách hàng thông qua việc đào tạo các cán bộ nâng
cao kĩ năng giao tiếp với khách hàng và nâng cao kĩ năng xử lý tác
nghiệp để khách hàng nhận thấy được giao dịch tại một Ngân hàng
với phong cách hoạt động rất chuyên nghiệp.
- Đối với kênh giao dịch điện tử: SAIGONBANK chủ trương đầy mạnh việc
phát triển các dịch vụ được cung ứng qua kênh giao dịch điện tử giữa Ngân
hàng và khách hàng. Với lợi thế là một Ngân hàng đi đầu về việc triển khai
và ứng dụng các hệ thống công nghệ mới mang tiêu chuẩn quốc tế để hỗ trợ
5


cho việc xử lý tác nghiệp của Ngân hàng, trong những năm qua,

SAIGONBANK đã luôn đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đưa ra các dịch
vụ Ngân hàng được cung cấp qua các phương tiện điện tử, điểm hình là dịch
vụ VCB-Money (Dịch vụ Home Banking) của Vietcombank và các dịch vụ
được cung cấp qua kênh Internet Banking, SMS Banking, Phone Banking,
ATM. Trong những năm gần đây, văn hóa giao dịch Ngân hàng của khách
hàng cũng đã được thay đổi. Khách hàng, đặc biệt là khách hàng từ độ tuổi
25-40 có trình độ học vấn cao, sẵn sàng và rất hưởng ứng trong việc sử dụng
các dịch vụ của Ngân hàng thông qua các kênh giao dịch điện tử. Đánh giá
được nhu cầu của khách hàng và với khả năng đáp ứng về công nghệ của
Ngân hàng, Vietcombank có chủ trương sẽ tập trung phát triển các dịch vụ
mới cung cấp qua kênh giao dịch điện tử của Ngân hàng đặc biệt là các dịch
vụ về thanh toán chuyển khoản và hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ để
phát triển các dịch vụ thanh toán hóa đơn, dịch vụ bán hàng qua
mạng….Việc nghiên cứu, triển khai các dịch vụ này sẽ tạo nên thế mạnh
vượt trội cho SAIGONBANK, bởi khác với các dịch vụ truyền thống có thể
bị “copy” một cách nhanh chóng giữa các Ngân hàng do tính chất quản lý
các dịch vụ truyền thống tương đối đơn giản, nếu không có sự hỗ trợ của hệ
thống công nghệ thì tổ chức tín dụng có thể theo dõi thủ công các công việc
trong quá trình cung cấp và quản lý các dịch vụ đó. Ngược lại, đối với các
dịch vụ Ngân hàng điện tử, các Ngân hàng không thể cung cấp dịch vụ được
khi không có sự hỗ trợ đầy đủ của hệ thống công nghệ cũng như không
khẳng định được khả năng bảo mật cao nhất của hệ thống thì việc cung cấp
các dịch vụ này sẽ mang lại rủi ro rất cao cho Ngân hàng.
- Mở rộng lĩnh vực hoạt động sang hoạt động Ngân hàng bán lẻ. Từ trước tới
nay, SAIGONBANK hoạt động chủ yếu trong việc cung cấp các dịch vụ
Ngân hàng bán buôn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thị trường khách
hàng thể nhân trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng – tài chính đã và đang
được các Ngân hàng chuyển hướng sang khai thác. Đây được coi là một thị
6



trường rất tiềm năng trong thời gian tới. Do đó, để gia tăng khách hàng từ đó
mang lại doanh số hoạt động cao, Vietcombank cần phải tập trung nhiều hơn
nữa vào việc cung ứng các dịch vụ của hoạt động Ngân hàng bán lẻ.
- Bên cạnh đó, SAIGONBANK chủ trương hoàn thiện hoạt động quản trị rủi
ro để đảm bảo phát triển bền vững. Cụ thể, SAIGONBANK tiếp tục theo dõi
chặt chẽ diễn biến và dự báo về ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế để chủ động ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Đồng thời, với
những kinh nghiệm tích lũy trong những năm qua và nắm bắt cơ hội hoạt
động trên thị trường để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro của Ngân hàng.
Từ đó, tạo nên sức mạnh hoạt động có hiệu quả và an toàn cho
SAIGONBANK.

7


3. Các điều kiện, nội lực của SAIGONBANK cần có để đạt được các ưu
tiên cạnh tranh trên và các trở ngại ảnh hưởng tới việc thực hiện các ưu
tiên

cạnh

tranh:

a, Điều kiện, nội lực cần có của SAIGONBANK:
SAIGONBANK nhận thấy phải có được các yếu tố nội lực sau để đạt được
các ưu tiên cạnh tranh được đề cập tại phần 2, cụ thể:
- Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mỗi cán bộ của SAIGONBANK
biết và hiểu rõ được các ưu tiên cạnh tranh và mục tiêu hoạt động của Ngân
hàng. Việc nắm rõ các thông tin này không thể chỉ dừng ở mức các cấp lãnh

đạo và cấp cán bộ quản lý của Ngân hàng mà phải đưa đến cho từng cán bộ
được tiếp cận một cách đầy đủ. Từ đó, mỗi cán bộ Ngân hàng sẽ thấy được
trách nhiệm của mình và phải nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành tốt các công
việc trong phạm vi được giao. Với sức mạnh thống nhất của một tập thể lớn
chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả hoạt động cao và thành công cho
Vietcombank.
- Nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ làm việc tại bộ phận thiết kế
sản phẩm: Mõi cán bộ khi tham gia thiết kế sản phẩm phải có trang bị đầy
đủ các kiến thức cần có để có khả năng đánh giá thị trường, phân đoạn
khách hàng, xác định được chính xác nhu cầu của khách hàng tại từng phân
đoạn để xây dựng các tính năng về sản phẩm/ dịch vụ thực sự đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng.
- Thường xuyên đào tạo để nâng cao kỹ năng giao tiếp, bán hàng của cán bộ
Ngân hàng với khách hàng. Trong hoạt động của Ngân hàng, bộ phận bán
hàng chính là các cán bộ Ngân hàng trực tiếp giao dịch với khách hàng. Đây
được coi là một bộ phận tạo dựng nên hình ảnh của Ngân hàng với khác
hàng. Một sản phẩm/ dịch vụ được thiết kế hoàn hảo nhưng không có sự
phối hợp của bộ phận bán hàng thì chưa chắc sản phẩm/ dịch vụ đó đã đến
8


được khách hàng và mang lại doanh thu cao cho Ngân hàng. Do đó, cùng
với việc đào tạo nâng cao kỹ năng giao tiếp của cán bộ Ngân hàng để khách
hàng luôn cảm thấy hài lòng với sự nhiệt tình, chu đáo, khả năng chuyên
môn cao của cán bộ giao dịch thì các cán bộ giao dịch này cũng phải được
tham gia các khóa đào tạo về sản phẩm, dịch vụ mới của Ngân hàng. Từ đó,
họ sẽ có thông tin đầy đủ để giải thích cho khách hàng. Như vậy, cán bộ giao
dịch với khách hàng khi tiếp xúc với khách hàng, họ không chỉ đơn thuần là
bán các sản phẩm/ dịch vụ hiện có của Ngân hàng theo yêu cầu của khách
mà cần phát huy khả năng tư vấn về tài chính cho Ngân hàng. Đồng thời,

đây là một kênh thông tin nắm bắt nhu cầu của khách hàng một cách hữu ích
cho Ngân hàng để đưa ra các sản phẩm/ dịch vụ phù hợp.
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho các dự án công nghệ thông tin của Ngân hàng.
Trong lĩnh vực hoạt động tài chính – ngân hàng, hệ thống công nghệ là yếu
tố then chốt để tạo nên sức mạnh và sự khác biệt cho các sản phẩm/ dịch vụ
của tổ chức. Với tốc độ phát triển công nghệ nhanh như hiện nay, các hệ
thống ứng dụng để xử lý tác nghiệp của Ngân hàng thường xuyên có sự đổi
mới. Do đó, SAIGONBANK cần thường xuyên có đánh giá và đầu tư khoản
ngân sách lớn cho việc hiện đại hóa các hệ thống công nghệ của Ngân hàng.
Việc khai thác các tiện ích, chức năng của các hệ thống công nghệ mới sẽ
giúp cho SAIGONBANK có khả năng đưa ra các sản phẩm/ dịch vụ mới với
tính năng đa dạng, đồng thời các hoạt động tác nghiệp của bộ phận nghiệp
vụ trên hệ thống cũng sẽ giảm thiểu được rất nhiều do đặc tính tự động hóa
của hệ thống và công tác quản trị rủi ro tác nghiệp của Ngân hàng cũng được
nâng cao. Từ đó, Vietcombank sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động với
mức độ an toàn cao.
b, Đánh giá các trở ngại có thể gây ảnh hưởng tới việc thực hiện các ưu
tiên cạnh tranh của SAIGONBANK:

9


- Vietcombank mới chuyển mình sang cơ chế hoạt động của Ngân hàng cổ
phần. Tuy nhiên, do hoạt động trong một thời gian dài với cơ chế quản lý
của Nhà nước nên trong thời gian tới, SAIGONBANK phải thực sự chuyển
sang có chế hoạt động mới. Điều đó thể hiện tại cơ chế hoạt động, cơ chế
điều hành của Ngân hàng với định hướng cần có sự trao quyền mạnh hơn
nữa cho các cấp để mỗi bộ phận phát huy được tính chủ động và có quyền tự
quyết cao hơn trong phạm vi công việc được giao để nâng cao hiệu quả làm
việc.

- Với bề dày hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng bán buôn, thông thường
khách hàng phải chủ động tìm tới Ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay với tính
cạnh tranh gắt gao của thị trường, các bộ phận của Ngân hàng cần phát huy
tính chủ động đi tìm khách hàng mới, mở rộng thị trường mới đặc biệt là khi
Ngân hàng tập trung sang mở rộng hoạt động bán lẻ.
C. KẾT LUẬN:
Với các nội dung trình bày trên, tôi nhận thấy việc xác định hướng đi của
Vietcombank trong bối cảnh hoạt động của nền kinh tế như hiện nay là phù hợp.
Để đi được đến các mục tiêu đặt ra, việc xác định được nội lực của bản thân tổ
chức, nhìn nhận được các điểm mạnh/ điểm yếu sẽ giúp SAIGONBANK phát
huy được các thế mạnh của mình và khắc phục các yếu điểm nhằm đi đến thành
công cao trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng tài chính tại Việt Nam để tạo tiền
đề cho việc mở rộng hoạt động của SAIGONBANK tại thị trường tài chính
trong khu vực.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Quản trị sản xuất tác nghiệp của Chương trình đào tạo thạc sỹ
quản trị kinh doanh quốc tế của Trường Đại học Griggs – Đại học quốc gia
Hà nội.
- Các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước liên quan tới việc điều hành
các chính sách vĩ mô trong năm 2008.
10


- Báo cáo đánh giá hoạt động của SAIGONBANK trong năm 2008.
- Tài liệu tham khảo trên Internet.

11




×