Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 32 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
=====***=====

B¸O C¸O KÕT QU¶

NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: PH¸T HUY TÝNH TÝCH CùC CñA HäC SINH
TRONG D¹Y HäC LÞCH Sö THCS
Tác giả sáng kiến: TrÇn ThÞ Xu©n
Môn:
Lịch sử
Trường THCS: THCS Đại Đồng- Vĩnh Tường –Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc, năm 2018


B¸O C¸O KÕT QU¶
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: PH¸T HUY TÝNH TÝCH CùC CñA HäC
SINH
TRONG D¹Y HäC LÞCH Sö THCS

Vĩnh Tường, Năm 2018


MỤC LỤC
Mục
1


2
3
4
5
5.1
5.1.1
5.1.2
5.1.3
5.1.3.1
a
b
c
5.1.3.2
a
b
c
5.1.3.3
a
b
5.1.3.4
a
b
c
5.1.3.5
a
b
5.1.3.6
a
b
5.2


Nội dung
Các chữ cái viết tắt
Lời giới thiệu
Tên sáng kiến
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đấu hoặc áp dụng thử
Mô tả bản chất của sáng kiến
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong trường THCS hiện nay
Các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử THCS
Sử dụng hệ thống câu hỏi
Nêu câu hỏi đặt vấn đề
Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa các câu hỏi với các sự
kiện, hiện tượng trong bài học
Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp
Sử dụng đồ dùng trực quan
Vị trí, ý nghĩa của đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
Phân loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
Cách sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
Áp dụng sơ đồ tư duy
Khái quát
Cách tạo sơ đồ tư duy
Trò chơi lịch sử
Trò chơi phán đoán lịch sử
Trò chơi ô chữ
Trò chơi theo dòng lịch sử

Dạy học liên môn
Nguyên tắc của dạy học liên môn
Cách tiến hành
Tổ chức cho học sinh tự học lịch sử
Vai trò và ý nghĩa
Các hình thức tổ chức cho học sinh tự học lịch sử
Khả năng áp dụng của sáng kiến

Trang
1
1
1
1
1
2
2
3
5
6
6
6
7
10
10
10
12
15
15
15
17

17
20
23
23
23
23
24
24
24
27


6
7
8
8.1
8.2
9.1

Những thông tin cần được bảo mật
Các điều kiện để áp dụng sáng kiến
Đánh giá lợi ích thu được hoặc có thể thu được
Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo tác giả
Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến
của tổ chức, cá nhân
Danh sách các tổ chức/ cá nhân tham gia áp dụng thử sáng
kiến lần đầu.
Danh mục tài liệu cần tham khảo

28

28
28
28
28
30
31


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt
SGK
NXB
GD-ĐT
BCHTƯ
THPT
SKKN
PPDH
SĐTD
THCS

Chữ đầy đủ
Sách giáo khoa
Nhà xuất bản
Giáo dục- đào tạo
Ban chấp hành trung ương
Trung học phổ thông
Sáng kiến kinh nghiệm
Phương pháp dạy học
Sơ đồ tư duy
Trung học cơ sở



BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
“Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”- câu danh ngôn của Xi- xê rông đã chỉ
rõ vai trò, ý nghĩa to lớn của lịch sử trong cuộc sống con người. Những kinh
nghiệm sản xuất, chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước đều được rút ra từ thực
tiễn lịch sử của mỗi dân tộc.
Nhưng những nhận thức, quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của khoa học
lịch sử và môn lịch sử trong đời sống xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới phương
pháp nghiên cứu, học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên
nhiều mặt.Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, phổ thông,
nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường học nói
chung và trường THCS nói riêng
Dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung, lịch sử THCS nói riêng, học
sinh phải nắm vững các sự kiện, các mốc thời gian, phải biết so sánh các sự kiện,
… từ đó có cái nhìn khái quát quá trình lịch sử mà mình đã học.
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy tính tích cực học tập
của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ môn đang là mối quan tâm hàng
đầu. Riêng với bộ môn lịch sử, người giáo viên cũng không ngừng tìm kiếm, vận
dụng các biện pháp để phát huy vai trò chủ thể của học sinh, nâng cao chất lượng
giáo dục.
Trong quá trình dạy học lịch sử tại Trường THCS tôi đã không ngừng đi sâu
vào tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của các em học sinh để có
biện pháp khắc phục cũng như tìm tòi, vận dụng nhiều biện pháp khác nhau vào
việc hướng dẫn học sinh khám phá những tri thức mới. Từ đó nâng cao hiệu quả
dạy học bộ môn lịch sử.
Trải qua nhiều năm liên tục giảng dạy lịch sử tôi đã tích lũy được cho mình rất
nhiều kinh nghiệm dạy học về phương pháp và kĩ năng để phát huy tính tích cực

của học sinh cũng như nâng cao chất lượng bộ môn.
2. Tên sáng kiến: “Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử
THCS”
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử THCS
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 1/9/2016
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
1


5.1. NỘI DUNG
5.1.1. Cơ sở lý luận.
Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích
cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng.Việc xây dựng
cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh THCS mục tiêu giáo dục đặt
ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc
cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9.Các em phải được rèn
luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có
những tìm tòi trong tư duy, sáng taọ .
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản.
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học mới như sau:
Tiêu chí so
sánh

Dạy học truyền thống

Các mô hình dạy học mới

Quan niệm


Học là qúa trình kiến tạo; học
Học là qúa trình tiếp thu và lĩnh sinh tìm tòi, khám phá, phát
hội, qua đó hình thành kiến hiện, luyện tập, khai thác và xử
thức, kĩ năng, tư tưởng, tình lý thông tin,… tự hình thành
cảm.
hiểu biết, năng lực và phẩm
chất.

Bản chất

Truyền thụ tri thức, truyền thụ Tổ chức hoạt động nhận thức
và chứng minh chân lí của giáo cho học sinh. Dạy học sinh
viên.
cách tìm ra chân lí.

Mục tiêu

Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Học để đối phó
với thi cử. Sau khi thi xong
những điều đã học thường bị bỏ
quên hoặc ít dùng đến.

Chú trọng hình thành các năng
lực (sáng tạo, hợp tác,…) dạy
phương pháp và kĩ thuật lao
động khoa học, dạy cách học.
Học để đáp ứng những yêu cầu
của cuộc sống hiện tại và tương

lai. Những điều đã học cần
thiết, bổ ích cho bản thân học
sinh và cho sự phát triển xã hội.

Nội dung

Từ sách giáo khoa + giáo viên

Từ nhiều nguồn khác nhau:
2


SGK, GV, các tài liệu khoa học
phù hợp, thí nghiệm, bảo tàng,
thực tế… gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh
và môi trường địa phương
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Phương pháp

Các phương pháp tìm tòi, điều
Các phương pháp diễn giảng,
tra, giải quyết vấn đề; dạy học
truyền thụ kiến thức một chiều.
tương tác.

Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp,

ở phòng thí nghiệm, ở hiện
Cố định: Giới hạn trong 4 bức
Hình thức tổ
trường, trong thực tế…, học cá
tường của lớp học, giáo viên
chức
nhân, học đôi bạn, học theo cả
đối diện với cả lớp.
nhóm, cả lớp đối diện với giáo
viên.
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy
tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo
viên và học sinh phải được “tích cực hoá” trong quá trình dạy - học, phải chủ động
sáng tạo. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy
truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người
dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như : Giáo viên chỉ chuẩn bị
giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo
viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
5.1.2. Thực trạng của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong
trường THCS hiện nay.
Trong vài năm gần đây, bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử nói riêng
trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn
lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Vật lí, Hoá học,… được tổ
chức thi tuyển học sinh giỏi các cấp được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc daỵ và học. Tuy nhiên qua nhiều năm giảng dạy
bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều
khó khăn, trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh tuy đã được phổ
3



biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không
đáng là bao. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh khi ra trường
là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau
đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng
như địa lí, kĩ thuật, thể dục, giáo dục công dân,… đều là những môn phụ. Điều này
được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng
mức. Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều trường không có giáo viên chuyên sử mà
giáo viên dạy ngữ văn, địa lí … có thể dạy sử do đó không đáp ứng yêu cầu của bộ
môn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư
nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy chay vẫn còn
khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò ít
có điều kiện tham quan một di tích lịch sử vì không có kinh phí. Điều đó làm cho
vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng .
Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong
học tập bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do những quy định từ cấp
trên. Trong những năm trở lại đây môn lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng,
tài liệu học tập được cung cắp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học
sinh ít thích học môn lịch sử.
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên. Sự nguy
hại của việc “thi gì học nấy” làm cho học vấn của học sinh bị què quặt, thiếu toàn
diện. Tình trạng mù lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả tất yếu của việc
học lệch, không toàn diện.
* Kết quả khi chưa thực hiện đề tài
- Theo kết quả điều tra ở các lớp……… Trường THCS ………….
+ Kết quả điều tra về thái độ của học sinh đối với việc học lịch sử
Số HS
được điều tra

153

Thích

Không thích

Bình thường

TS

(%)

TS

(%)

TS

(%)

40

26,1

50

32,7

63


41,2

4


+ Kết quả xếp loại bài kiểm tra.
TS
153

Giỏi

Khá

TB

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS


%

20

13,1

35

22,9

73

47,7

25

16,3

+ Kết quả xếp loại trung bình môn năm học 2015 - 2016.
TS
153

Giỏi

Khá

TB

Yếu


TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

26

17

37

24,2

84

54,9

6


3,9

Để việc giảng dạy môn lịch sử đạt hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn áp
dụng một số phương pháp vào trong các bài dạy lịch sử.
5.1.3. Các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học
lịch sử THCS.
* Một số phương pháp và hình thức dạy học tích cực thường áp dụng ở
môn Sử THCS
- Sử dụng hệ thống câu hỏi.
- Sử dụng đồ dùng trực quan
- Sử dụng bản đồ tư duy
- Trò chơi lịch sử.
- Dạy học liên môn
- Hướng dẫn học sinh tự học lịch sử
Trong công tác giáo dục không thể bỏ qua vai trò, nhiệm vụ của người giáo
viên. Giáo viên là những chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, góp phần đào tạo những con
người “vừa hồng vừa chuyên” cho xã hội. Với sự đổi mới toàn diện của nền giáo
dục nước ta hiện nay, giáo viên có thể áp dụng những phương pháp, kĩ thuật dạy
học phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh trong môn học:
5.1.3.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi.
5


Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là một
trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy cho học sinh.
Trong thực tế dạy học ở trường THCS nhiều giáo viên đã có kinh nghiệm và thành

công trong việc sử dụng hệ thống câu hỏi.
Nhìn chung để sử dụng tốt các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần
lưu ý mấy điểm sau:
a. Nêu câu hỏi đặt vấn đề.
* Đối với giáo viên:
- Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng
nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động
viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh vào việc theo dõi bài
giảng để tìm câu trả lời. Những câu hỏi này là những vấn đề cơ bản của bài học mà
học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời
ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời
được.
Ví dụ:
Khi dạy bài 7: Các nước Mĩ La tinh (lịch sử lớp 9 sách giáo khoa trang 29)
để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học sinh chúng ta có thể nói:
Trong cơn bảo táp của cách mạng Mĩ La tinh thì hình ảnh đất nước Cu Ba đẹp như
một dãi lụa đào, đang bay lên giữa màu xanh của trời biển Ca ri bê với nắng vàng
rực rỡ, đó chính là Cu Ba hòn đảo của tự do – hòn đảo anh hùng. Vậy hòn đảo anh
hùng này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào và công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu Ba đạt được kết quả gì? Chúng ta chuyển sang
mục II “Cu Ba - Hòn đảo anh hùng”.
- Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách
giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên.
Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu
của bài.
* Đối với học sinh:
Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập muốn trả lời phải huy
động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả
lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý, tập trung cao độ theo dõi bài giảng,
chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp.

b. Xác định mối liên hệ, xâu chuổi giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng
trong bài học.

6


Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi các
sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài.
Ví dụ 3: Bài 30: Phong trào yêu nước nhống Pháp từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1918, chương trình lớp 8.
Vì sao các phong trào yêu nước trong giai đoạn này đều thất bại? Sự thất
bại của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra yêu cầu gì cho cách mạng
Việt Nam?
Đây là một dạng câu hỏi khó, để trả lời câu hỏi, học sinh phải tư duy cao,
phải biết xâu chuỗi những kiến thức đã học để tìm ra nguyên nhân thất bại của
phong trào yêu nước kỷ XX, đồng thời phải nhận thức được yêu cầu cấp bách của
cách mạng Việt Nam.
+ Nguyên nhân thất bại: do con đường cứu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản không đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam, không đưa ra được
mục tiêu, nội dung và phương pháp cứu nước đúng đắn
+ Yêu cầu đặt ra cho cách mạng Việt Nam: cần phải có một giai cấp tiên tiến
nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Phải có một đường lối, phương pháp cứu nước
đúng đắn.
- Đây là một cách để giáo viên chuyển ý, giới thiệu Trước yêu cầu của Lịch
sử, ngày 5-6-1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước.
c. Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp.
Ngoài câu hỏi có tính chất bài tập mà giáo viên nêu ra đầu giờ học trong quá
trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra nhiều câu hỏi và giúp học sinh giải
quyết các câu hỏi đó. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong giảng dạy phải phù hợp

với khả năng của các em, kích thích tư duy phát triển, đồng thời còn tạo ra mối
quan hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên.
Trong sách giáo khoa thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi.
Những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thơi
bổ sung để xây dựng hệ thông câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị khi
soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp
án trả lời ra sao?
Một đặc trưng của phương pháp mới mà giáo viên dạy ở trường THCS nói
chung và bộ môn lịch sử nói riêng thường áp dụng trong giảng dạy và thu được kết
quả cao là phương pháp nêu câu hỏi thảo luận nhóm. Ưu điểm của việc nêu câu hỏi
là để học sinh tự học phát huy tính tích cực tư duy của mình, kết hợp với bạn bè,
tranh luận cùng nhau tt́m kiến thức cho bài học.
Một số loại câu hỏi thường sử dụng trên lớp:
7


* Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta
thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện
tượng lịch sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém.
Ví dụ:
Bài 6: Các nước châu Phi (lịch sử lớp 9).
Sau khi dạy bài này giáo viên cần nêu câu hỏi để học sinh học sinh thảo
luận:
Hiện nay các nuớc châu phi đang gặp những khó khăn gì trong công cuộc
phát triển kinh tế, xã hội đất nuớc?
Qua phần các em sẽ cùng nhau tìm tòi tranh luận đúc kết lại những khó khăn
mà các nuớc châu phi hiện nay phải đứng đầu đó là:
- Xung đột, sắc tộc, tôn giáo.
- Đói nghèo, bệnh dịch,…
- Nợ nuớc ngoài,…

* Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng lịch
sử như diễn biến của các cuộc khỡi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.
Ví dụ:
Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu đông 1950 (Bài 26, lịch sử
9, trang 110).
Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Pháp
(Bài 16, lịch sử lớp 9, trang 61).
Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện
địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi
thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự
kiện.
* Câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm
sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy. Loại câu hỏi
này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho các
đối tượng yếu kém.
Ví dụ:
Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu
hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược (bài 25, lịch sử lớp 8,
trang 124).
Khi dạy bài 23: Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng 8 năm 1945.
Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng ta
quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc?
8


Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần
thứ VIII ( tháng 5- 1941) là gì? Các yếu tố nào (về thời cơ cách mạng) đã xuất hiện
đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa?
* Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa
lịch sử của sự kiện với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng hoạ sinh yếu

kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em
hoạt động liên tục trong quá trình học tập.
Ví dụ:
Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của cách mạng tháng
Tám năm 1945 (lịch sử 9, trang 94).
Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp 1789-1794 (lịch sử 8,
trang 17).
- Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng ngôn
ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa.
* Loại câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự
kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó đối
với học sinh trung học cơ sở. Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp cho học
sinh cũng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi
hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng nhau giải
quyết vấn đề.
Ví dụ:
Khi học bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (19651973)” (lịch sử 9, trang 142) có câu hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
“chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống nhau và khác nhau?
Khi dạy bài 9: Nhật Bản (lịch sử 9, trang 36) có câu hỏi so sánh sự giống
nhau và khác nhau trong chính sách đối ngoại của Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh
thế giới lần thứ hai.
Tóm lại: Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn
chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân,
diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu
hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em
biết được các sự kiện mà đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ đòi hỏi học
sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất
của sự kiện lịch sử. Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học
chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau:


9


- Câu hỏi phải bám sát nội dung cơ bản chương trình học, có nội dung chính
xác, rõ ràng, dễ hiểu.
- Câu hỏi có thể dùng cho từng mục, toàn bài, chương hoặc những nội dung
lớn có liên quan chặt chẽ giữa các bài.
- Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy
được tư duy học sinh, rèn luyện kỹ năng học tập của học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ.
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi. Sau mỗi chương có câu
hỏi bài tập.
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo.
5.1.3.2. Sử dụng đồ dùng trực quan.
a. Vị trí, ý nghĩa của đồ dựng trực quan.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là
phương tiện rất có giá trị để hình thành các khái niệm lịch sử giúp cho học sinh
nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất to lớn giúp học sinh nhớ kỹ, nhớ lâu, hiểu
sâu những hình ảnh, kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ đó là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Vì vậy nhìn
vào bất cứ đồ dùng trực quan nào học sinh cũng phải nhận xét, phán đoán, hình
dung quá khứ lịch sử được phản ánh,minh hoạ như thế nào. Học sinh suy nghĩ, tìm
cách diễn đạt bằng lời, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể hoá bức tranh xã hội đó.
Đồ dùng trực quan có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc, thẩm mỹ cho học
sinh. Ví dụ: xem cuốn phim tài liệu về chiến thắng của Hồng quân Liên Xô trong
chiến tranh thế giới hai, học sinh sẽ có những tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến
khâm phục nhân dân Liên Xô và các chiến sĩ Hồng quân, quý trọng nhân dân, căm
thù bọn phát xít và chiến tranh.
Với tất cả ý nghĩa nêu trên, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất

lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc cầu nối giữa
quá khứ và hiện tại.
b. Phân loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
Có nhiều cách phân loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông. Xong về cơ bản chúng ta có thể chia chúng thành 3 nhóm lớn:
Nhóm 1: Đồ dùng trực quan hiện vật: Bao gồm những di tích lịch sử và cách
mạng (như thành Cổ Loa, hang Pác Bó,...) những di vật khảo cổ và các di vật và

10


các di vật thuộc thời đại lịch sử như mũi tên đông Cổ Loa, Trống đồng Đông
Sơn...).
Đồ dùng trực quan hiện vật là một loại tài liệu gốc rất có giá trị, có ý nghĩa
to lớn về mặt nhận thức thông qua việc tiếp xúc với những di tích hay những dấu
vết còn lại của quá khứ - bằng chứng hiểu, nhớ sự tồn tại thực của mỗi thời kì lịch
sử - học sinh sẽ có những hình ảnh chân thực về quá khứ và từ đó có tư duy lịch sử
Nhóm 2: Đồ dùng trực quan tạo hình: Bao gồm các loại mô hình, sa bàn,
tranh ảnh lịch sử,.... Nó có khả năng khôi phục lại hình ảnh của những con người,
đồ vật, biến cố, sự kiện lịch sử một cách cụ thể sinh động và xác thực.
Nhóm thứ 3: Đồ dùng trực quan quy ước:
Bao gồm các loại, bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu...loại đồ dùng trực
quan này tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông thường sử dụng các loại đồ dùng
trực quan quy ước sau:
* Bản đồ lịch sử: Nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và
không gian xác định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải
thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả và quá trình phát triển lịch sử,
giúp các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học. Về hình thức, bản đồ lịch sử
không cần có những ký hiệu về biên giới các quốc gia, sự phân bố dân sự, thành

phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố quan trọng (các cuộc khởi
nghĩa, cách mạng, chiến dịch...) mà cần có những ký hiệu về biên giới các quốc
gia, sự phân bố dân cư, thành phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố
quan trọng (các cuộc khởi nghĩa, cách mạng, chiến dịch...). Các minh họa trên bản
đồ phải được trình bày chính xác, đẹp, rõ ràng...
* Niên biểu: Hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng
thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước trong
một thời kỳ. Để đạt thể niên biểu có thể chia làm 2 loại:
- Niên biểu tổng hợp: Là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra sau một thời
gian dài.
- Niên biểu chuyên đề: Đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng nổi
bật nào đấy của một thời kỳ lịch sử nhất định nhờ đó mà học sinh hiểu được bản
chất sự kiện một cách toàn diện, đầy đủ.
* Đồ thị: Dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện
lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê bài học. Đồ thị có thể biểu diễn
bằng một mũi tên để minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện tượng
lịch sử hoặc biểu diễn trên các trục hoành (ghi thời gian) và trục tung (ghi sự kiện).
11


* Sơ đồ: Nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những mô hình học đơn
giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các
sự kiện lịch sử.
* Hình vẽ bằng phấn trên bảng đen nhằm minh họa ngay những sự kiện đang
được trình bày miệng không cần sử dụng một loại đồ dùng trực quan nào.
* Sử dụng các phương tiện kỹ thuật trong dạy học lịch sử. Nhờ sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng các phương tiện kỹ thuật giáo dục
vào dạy học lịch sử ngày càng tăng. Nói đến phương tiện kỹ thuật giáo dục là nói
đến trước hết các phương tiện dùng trong công việc giảng dạy như truyền hình,
phim ảnh, máy ghi âm, máy phóng hình,... Trong dạy học lịch sử, các phương tiện

kỹ thuật thường dùng là màn ảnh nhỏ (tivi, video, đèn chiếu) radio, máy ghi âm,...
Những phương tiện này cần có trong dạy học lịch sử song không thể thay thế vai
trò của giáo viên trên lớp. Vì vậy bản tân tôi cho rằng vấn đề đặt ra là phối hợp như
thế nào các đồ dùng trực quan vốn có và các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong
giờ học lịch sử và vai trò của giáo viên sẽ như thế nào trong việc tổ chức dạy học
có hiệu quả?
c. Cách sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử:
* Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý các
nguyên tắc sau:
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học để lựa
chọn đồ dùng trực quan tương ứng thích hợp, vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ
dùng trực quan phong phú phù hợp với các bài học lịch sử.
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực
quan, phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ dùng trực quan của học sinh.
- Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan (không
chỉ để cụ thể hóa kiến thức mà cần đi sâu phân tích bản chất sự kiện).
- Đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày các đồ dùng trực quan đồng thời
rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan (đắp sa
bàn, vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ).
* Phương pháp sử dụng:
a.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa.
Hình vẽ tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình
dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng.
Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt,
lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử, giáo viên
luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa
12


học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những

kết luận lịch sử.
Ví dụ: Khai thác kênh hình 5 khi dạy mục 2 tình hình chính trị xã hội
nước Pháp trước cách mạng trong bài “cách mạng tư sản Pháp 1789-1794”
Đối với kênh hình này khi khai thác
giáo viên cần:
Hướng dẫn học sinh quan sát và
sử dụng các câu hỏi gợi mở.
Nhìn vào bức tranh em có nhận
xét gì?
Tại sao người nông dân già nua
lại phải cõng trên lưng hai người
quý tộc và Tăng lữ béo tốt?
Qua hình 5, em hãy miêu tả tình
cảnh người nông dân trong xã hội
Pháp thời bấy giờ?

Học sinh tự nhận xét và đưa ra phương án trả lời:
Giáo viên kết luận: Bức tranh miêu tả người nông dân già nua ốm yếu phải
cõng trên lưng hai người có thân hình béo khoẻ đó là hình ảnh tượng trưng cho hai
đẳng cấp quý tộc và tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách mạng. Người ngồi trước
mặc áo choàng với nét mặt thoả mãn là Tăng lữ. Người ngồi sau đeo thanh gươm
có đầy đủ trang sức, trang phục rất đẹp là Quý tộc. Trong túi họ gồm các loại công
văn khế ước cho vay nợ, cho thuê ruộng đều là những quy định nghĩa vụ phong
kiến của nông dân. Đời sống cực khổ bị Quý tộc và Tăng lữ áp bức bóc lột thông
qua các loại thuế đồng thời với công cụ canh tác thô sơ và lạc hậu, đó là hình ảnh
miêu tả nền nông nghiệp Pháp thời bấy giờ.
Như vậy với hướng khai thác trên, giáo viên phần nào hướng học sinh đi từ
hiện thực khách quan đế tư duy trừu tượng, nắm vững và hiểu thực trạng xã hội
Pháp trước cách mạng cũng như tình cảnh người nông dân và số phận của những
con người thuộc đẳng cấp thứ 3 phải gánh chịu đúng như nội dung mà kênh hình

miêu tả.

13


Như vậy, việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện
trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học
sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
a.2. Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong SGK.
Học sinh bậc THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh, chân
dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh
khoa học, các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý miêu tả
bề ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh.
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học
sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em
khâm phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch sử
ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh
giá vai trò, tính cách của nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” khi dạy đến mục “Luận
cương chính trị 10-1930” giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú. Sau
đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể
cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người
chiến sĩ cộng sản Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta.
a.3. Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử.
Lưu ý: Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất trong dạy
học lịch sử hiện nay là bản đồ, sơ đồ, đồ thị, bảng niên biểu. Trước khi sử dụng
chúng cần chuẩn bị thật kỹ (nắm chắc nội dung bản đồ, ý nghĩa của từng loại phục
vụ cho nội dung nào của bài học).
Trong tiến trình, theo tôi xác định đúng thời điểm để treo bản đồ (hoặc sơ đồ,

đồ thị), không nên treo trên bảng đen vì bảng đen còn dùng để viết, phải treo chỗ
cao ở góc bên phải bảng, nơi có đủ ánh sáng cho tất cả học sinh nhìn thấy rõ. Giáo
viên phải đứng bên phải bản đồ, dùng que chỉ địa điểm thật chính xác (khi xác định
một vị trí, giáo viên không nên nói một cách mơ hồ rằng vị trí này nằm ở phía “bên
trên” hay “bên dưới” ở “bên phải” hay “bên trái” mà phải chỉ phương hướng cụ thể
của vị trí (“phía tây” hay “phía bắc”). Nếu là một khu vực, căn cứ quân sự.... thì
giáo viên phải chỉ đúng ký hiệu trên bản đồ, nếu là con sông thì phải chỉ từ thượng
lưu xuống phía hạ lưu (theo dòng chảy của dòng sông).
Giáo viên phải luôn luôn theo dõi, kiểm tra sự thu nhận của học sinh giúp học
sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản đồ.

14


Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học
lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời
gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định.
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo
đài bất khả xâm phạm”, “một cối xay thịt Việt minh”. Nếu giáo viên biết kết hợp
sử dụng bản đồ chiến trường Đông dương 1953-1954 , bản đồ chiến dịch Điện
Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề
này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm
soát cả chiến trường Lào và Bắc Bộ.
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, nội dung lịch sử được biểu diễn trên
bản đồ, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả nãng quan sát, trí
týởng týợng, tý duy và ngôn ngữ, ðặc biệt là kĩ nãng ðọc bản ðồ, củng cố thêm
kiến thức về Địa lí.
a.4. Sử dụng niên biểu, đồ thị, sơ đồ.
Đây là phương pháp hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời

gian, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một giai đoạn lịch
sử. Chúng ta có thể sử dụng các loại niên biểu sau:
- Niên biểu tổng hợp.
- Niên biểu chuyên đề.
- Niên biểu so sánh.
Ngoài ra cũng sử dụng : Đồ thị và sơ đồ
5.1.3.3. Áp dụng sơ đồ tư duy (Mind Maps)
a. Khái quát:
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng Mind Maps,
tổng thể cuả vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng được
liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ
và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn, là cách ghi nhớ tốt nhất.
b. Cách tạo sơ đồ tư duy:
Có thể hình thành sơ đồ tư duy của bài học bằng cách:
Hoạt động 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của
giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.
15


Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư
duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học
sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên đã
chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh,
cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
Lưu ý: Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học
sinh có chung một kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về
mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần).

SĐTD có thể sử dụng trong các trường hợp: dạy- học một phần của bài, để
khai thác kiến thức của cả bài học hoặc sử dụng SĐTD để củng cố lại kiến thức
sau khi học xong một bài, sử dụng SĐTD để kiểm tra bài cũ.
Kiểm tra bài cũ với bản đồ tư duy
Giáo viên gọi học sinh lên bảng thuyết trình sơ đồ tư duy của bài học cũ
trước lớp. Giáo viên và các bạn khác có thể đặt thêm câu hỏi để học sinh trả lời.
Dạy bài mới
Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng bằng
một hình vẽ bất kì trên bảng của lớp mà không ghi bài theo kiểu cũ; cho học sinh
ngồi theo nhóm thảo luận sơ đồ tư duy của mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà để
đối chiếu với sơ đồ tư duy của các bạn trong nhóm.
Ví dụ: Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính với nhánh lớn cấp số 1
và gọi học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lớn trên bảng có
ghi chú thích tên từng nhánh lớn.
Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi tiếp ở
nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2... Tương tự như vậy, học sinh hoàn
thành nội dung sơ đồ tư duy của bài học mới ngay tại lớp.
Học sinh tự chỉnh sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào sơ đồ tư
duy của từng cá nhân.
Để minh họa cho sơ đồ tư duy, giáo viên cho học sinh xem những hình ảnh,
đoạn phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh cấp độ 1, cấp độ 2,...
Ví dụ:
Sử dụng SĐTD để củng cố lại kiến thức sau khi học xong một bài.
Ví dụ: Khi dạy xong bài: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, có thể
hướng dẫn học sinh học sinh theo sơ đồ tư duy sau:

16


5.1.3.4. Trò chơi lịch sử.

Sử dụng trò chơi trong dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết,
không chỉ nhằm mục đích giải trí cho học sinh mà còn tạo nên một không khí hăng
say học tập, các em có thể độc lập suy nghĩ tìm tòi hoặc phối hợp với các bạn trong
nhóm để có đáp án nhanh và chính xác.
Trò chơi có thể sử dụng dưới nhiều hình thức nhưng phải khắc sâu nội dung
của bài học, thông qua câu hỏi các em phải tìm ra câu trả lời, đó là các sự kiện hay
nhân vật lịch sử. Vì thế, học lịch sử qua hình thức trò chơi sẽ thấy thoải mái hơn,
hứng thú hơn, từ đó ghi nhớ tốt những kiến thức cơ bản mà không bị gò ép.
a. Trò chơi phán đoán lịch sử.
* Khái quát:
Đây là một trò chơi, với trò chơi này sẽ giúp các em tìm tòi, khám phá các
câu hỏi về lịch sử để đoán tên nhân vật lịch sử, sự kiện giáo viên cần trình bày.
* Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị hình ảnh các nhân vật, hoặc sự kiện lịch sử.
- Dùng giấy kiến trong bọc lại, vẽ các ô số che lên hình nền. Mỗi hình nền là
một câu hỏi.
- Nếu dạy giáo án điện tử, giáo viên thiết kế trên powerpoint tiện lợi hơn.
* Tiến hành:

17


- Khi tổ chức trò chơi, giáo viên gọi cá nhân, nhóm, hoặc tập thể chọn ô số
và trả lời câu hỏi của giáo viên, chỉ khi trả lời đúng mới được lật ô số để đoán hình
nền. Nếu ô số chưa lật hết mà học sinh biết hình nền thì cho học sinh đoán.
- Mỗi ô giáo viên qui định số điểm, hoặc phần thưởng,…để cuốn hút các em
tham gia.
- Giáo viên đưa ra hình nền đã che khuất bằng các ô số, học sinh tuỳ chọn ô
số để trả lời các câu hỏi.
Ví dụ:

Lớp 6. Bài 15: NƯỚC ÂU LẠC
- Tôi thiết kế trên powerpoint hình ảnh về một DI TÍCH LỊCH SỬ, vẽ các ô
số che lên hình nền, mỗi hình nền là một câu hỏi.

Hình nền bị che khuất
Các câu hỏi được tôi đưa ra có liên quan đến nhân vật hình nền bị che khuất.
Câu hỏi ở các ô hình nền:
+ Câu 1 (Ô 1): Thành Cổ Loa được xây dựng ở đâu?
+ Câu 2 (Ô 2): Thành Cổ Loa có hình gì?
18


+ Câu 3 (Ô 3): Nơi phát hiện di chỉ mĩu tên đồng Cổ Loa?
+ Câu 4 (Ô 4): Người chế tạo ra Nỏ Liên Châu?
- Trong quá trình chơi tôi gọi các em chọn ô số rồi trả lời câu hỏi, trả lời
đúng một góc hình nền lật ra.

Hình nền được lật
- Nếu ô số chưa lật hết mà học sinh biết hình nền cũng có thể cho học sinh
đoán. Để khuyến khích học sinh tham gia sôi nổi, em nào trả lời đúng hình nền tôi
cho 10 điểm.
Dưới đây là đáp án đúng
+ Câu 1 (Ô 1): Phong Khê
+ Câu 2 (Ô 2): Xoáy trôn ốc
19


+ Câu 3 (Ô 3): Nam Cầu Vực
+ Câu 4 (Ô 4): Cao Lỗ
Hình nền là Đền thờ An Dương Vương


Sau khi hình được mở, giáo viên hỏi học sinh: Em hiểu gì về bức hình này?
Học sinh đưa ra ý kiến của mình, giáo viên chốt: Đây là hình ảnh đền thờ An
Dương Vương. Đền thờ An Dương Vương được xxây dựng trong khu thành Nội,
(nay thuộc xóm Chùa- xã Cổ Loa- Đông Anh- Hà Nội). Đền được xây dựng nhằm
tưởng nhớ An Dương Vương…
b. Trò chơi ô chữ
- Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như:
“Đường lên đỉnh Olympia” hay “Chiếc nón kì diệu” trên truyền hình.
- Trò chơi có thể được sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy và nên đưa vào
cuối giờ nhằm cũng cố kiến thức bài học.
* Cách tạo ô chữ:

20


×