Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tại xã trung hòa huyện trảng bom tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.05 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LƯƠNG VĂN TÂN

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TẠI XÃ TRUNG HÒA – HUYỆN
TRẢNG BOM – TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Đồng Nai, 2016


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá đối với quốc
gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con người, đất đai còn là loại hàng
hóa đặc biệt. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Đất là vật thể chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh trong đó có tác
động của con người. Độ phì nhiêu của đất, sự phân bổ không đồng nhất, đất
tốt lên hay xấu đi, được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp tuỳ thuộc vào sự
quản lý nhà nước và kế hoạch, biện pháp khai thác của người quản lý, sử
dụng đất.
Quản lý nhà nước về đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ
cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương


hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ,
quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các
ngành trên địa bàn lập quy hoạch sử dụng đất đai chi tiết cho mình; xác lập sự
ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai; làm cơ sở
để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh
lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hóa-xã hội.
Mặt khác, quản lý nhà nước về đất đai còn là biện pháp hữu hiệu của
nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất đai, hạn chế sự chồng chéo gây
lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút

1


nghiêm trọng quỹ đất nông lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất
lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn
chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường
dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội và
các hậu quả khó lường về tình hình bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng
ở từng địa phương.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu sử dụng đất ngày càng lớn trong khi
đất đai lại có hạn điều đó làm cho quan hệ giữa người với người và với đất đai
ngày càng trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi nhà nước phải có những chính
sách quản lý đất đai thích hợp để việc sử dụng đất đạt hiệu quả kinh tế-xã hội
cao nhất.
Tình hình sử dụng đất của mỗi địa phương cũng ngày một đa dạng và
phức tạp. Vậy nên ngành quản lý đất đai buộc phải có những thông tin, hồ sơ
về tài nguyên đất một cách chính xác đầy đủ cùng với sự tổ chức sắp xếp và
quản lý một cách khoa học chặt chẽ thì mới có thể sử dụng chúng một cách
hiệu quả cho nhiều mục đích khác nhau, quản lý hồ sơ và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên đất tại địa phương.

Điều này nó có ý nghĩa rất lớn khi mà hiện nay công tác quản lý nhà
nước về đất đai đang là vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm của các ngành, các
cấp và mọi người, tất cả đều cần tới thông tin, hồ sơ đất đai đầy đủ và chính
xác.
Để đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của địa phương, cần phải nghiên cứu thực trạng của địa

2


phương đó để thấy được những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại
trong công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn, từ đó đưa ra những
giải pháp khắc phục phù hợp nhằm khai thác sử dụng nguồn đất đai có hiệu
quả cao.
Xuất phát từ thực tiễn trên và cũng là những vấn đề mang tính cấp thiết
hiện tại, nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên, tác giả chọn đề
tài “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tại xã Trung
Hòa-huyện Trảng Bom-tỉnh Đồng Nai”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tại xã Trung Hòahuyện Trảng Bom-tỉnh Đồng Nai”.
Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về đất đai
- Đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn xã
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác QLNNVĐĐ trên địa bàn xã
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu và tìm hiểu các vấn đề liên quan đến công
tác quản lý nhà nước về đất đai của UBND xã Trung Hòa.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Hoạt động quản lý nhà nước về đất đai có

nội dung rất rộng, theo quy định tại điều 22, luật đất đai 2013 có 15 nội
dung về quản lý và sử dụng đất. Tuy nhiên luận văn chỉ giới hạn phạm vi

3


nghiên cứu về 5 hoạt động hay có thể gọi là 5 yếu tố tác động trực tiếp đến
công tác quản lý đất đai tại xã trung hòa, huyện trảng bom, tỉnh đồng nai.
- Cụ thể là: Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Quản lý việc
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; Đăng ký
quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; Quản lý giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất; Thanh tra, kiểm tra giải quyết tranh chấp khiếu nại tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Từ đó góp phần xác định rõ đặc điểm kinh tế xã hội và triển khai
thi hành luật đất đai đưa ra những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng
trong công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn xã trung hòa.
- Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Xã trung hòa-huyện trảng bom-tỉnh
đồng nai.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Số liệu thu thập phục vụ cho công
tác nghiên cứu từ năm 2012-2014.
5. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý nhà nước về đất đai
- Thực trạng công tác quản lý đất đai trên địa bàn xã trung hòa
- Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý đất đai
- Giải pháp hoàn thiện công tác QLĐĐ trên địa bàn xã trung hòa

4



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Đất đai :
Theo định nghĩa về đất đai của luật đất đai việt nam thì “Đất là tài sản
quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời cũng là
sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của các hệ sinh thái tự nhiên và các
hệ sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân”.
Đất đai là tài nguyên đặc biệt. Trước hết bởi đất đai có nguồn gốc tự
nhiên, tiếp đến là thành quả do tác động khai phá của con người. Nếu không
có nguồn gốc tự nhiên, thì con người dù có tài giỏi đến đâu cũng không tự
mình (dù là sức cá nhân hay tập thể) tạo ra đất đai được. Con người có thể
làm ra nhà máy, lâu đài và sản xuất, chế tạo ra muôn nghìn thứ hàng hoá, sản
phẩm, nhưng không ai có thể sáng tạo ra đất đai.
Đất đai quý giá còn bởi đất đai có hạn, con người không thể làm nó
sinh sản, nở thêm, ngoài diện tích tự nhiên vốn có của quả đất chuyển mục
đích sử dụng từ mục đích này sang mục đích khác. Đất đai có độ màu mỡ tự
nhiên, nếu chúng ta biết sử dụng và cải tạo hợp lý thì đất đai không bị thoái
hoá mà ngược lại đất đai lại càng tốt hơn.
Đất đai còn là loại hàng hóa đặc biệt. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và
quốc phòng. Độ phì nhiêu của đất, sự phân bổ không đồng nhất, đất tốt lên
hay xấu đi, được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp tuỳ thuộc vào sự quản lý
nhà nước và kế hoạch, biện pháp khai thác của người quản lý, sử dụng đất. Vì
thế, sự ứng xử với vấn đề đất đai trong hoạt động quản lý không thể được đơn

5



giản hoá, cả trong nhận thức cũng như trong hành động. Do đó, quyền sở hữu,
định đoạt, sử dụng đất đai, dù nhà nước hay người dân cũng cần phải hiểu đặc
điểm, đặc thù hết sức đặc biệt ấy.
- Quản lý nhà nước
Quản lý là một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, là sự tác động
chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
để chúng phát triển phù hợp với quy luật đạt tới mục đích đề ra và đúng ý chí
của người quản lý.
QLNN là một dạng quản lý đặc biệt, được sử dụng các quyền lực nhà
nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
QLNN ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau đây: thứ nhất QLNN
mang tính quyền lực đặc biệt là tính tổ chức rất cao. Thứ hai QLNN có mục
tiêu chiến lược, chương trình kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Thứ ba QLNN
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thứ tư QLNN không có sự tách biệt tuyệt
đối giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Thứ năm Quản lý nhà nước
bảo đảm tính liên tục và ổn định trong tổ chức
1.2. Quản lý nhà nƣớc về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện các nội dung quản lý đất đai theo theo qui định của
pháp luật nhằm để bảo vệ quyền sở hữu của toàn dân đối với đất đai và đảm
bảo hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên của quốc gia. Đó là các hoạt động
nắm chắc tình hình sử dụng đất, phân phối và phân phối lại quỹ đất đai theo
quy hoạch-kế hoạch, kiểm tra giám sát quá trình quản lý và sử dụng đất, điều
tiết các nguồn lợi về đất đai.
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nƣớc về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng thể các hoạt động của cơ quan nhà

6



nước có thẩm quyền nhằm thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất
đai. Luật đất đai 2013 quy định về quyền hạn và trách nhiệm của nhà nước đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ
quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Theo điều 22 luật đất đai 2013 thì việc quản lý nhà nước về đất đai bao
gồm các nội dung chính như sau:
1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện văn bản đó.
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
3. Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra
xây dựng giá đất.
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
6. Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
7. Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
8. Thống kê, kiểm kê đất đai.
9. Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
10. Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
11. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
12. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy
định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
13. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.


7


14. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quản lý và sử dụng đất đai.
15. Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
Nội dung QLNN về đất đai được quy định tại điều 22 luật đất đai 2013
gồm 15 “công việc”, được áp dụng cho các cấp chính quyền, từ trung ương đến
địa phương, nhằm đảm bảo QLNN được thống nhất.
Mười lăm nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu nhà
nước về đất đai, được tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau đây:
*Thứ nhất :Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là nhà nước biết
rõ các thông tin chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình
hình hiện trạng của việc quản lý và sử dụng đất đai. Cụ thể:
-Về số lượng đất đai: Nhà nước nắm về diện tích đất đai trong loàn
quốc gia, trong từng vùng kinh tế, trong từng đơn vị hành chính các địa
phương; nắm về diện tích của mỗi loại đất như đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, v.v...; nắm về diện tích của từng chủ sử dụng và sự phân bố trên bề
mặt lãnh thổ...Về chất lượng đất: Nhà nước nắm về đặc điểm lý tính, hoá tính
của từng loại đất,độ phì của đất, kết cấu đất, hệ số sử dụng đất v.v..., đặc biệt
là đối với đất nông nghiệp.
-Về hiện trạng sử dụng đất: Nhà nước nắm về thực tế quản lý và sử
dụng đất có hợp lý, có hiệu quả không? có theo đúng quy hoạch, kế hoạch
không? cách đánh giá phương hướng khắc phục để giải quyết các bất hợp lý
trong sử dụng đất đai.
Thứ hai: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai
theo quy hoạch và kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước chiếm hữu toàn bộ
quỹ đất đai, nhưng lại không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá
nhân sử dụng. Trong quá trình phát triển của đất nước, ở từng giai đoạn cụ
thể, nhu cầu sử dụng đất đai của các ngành, các cơ quan, tổ chức cũng khác


8


nhau. Nhà nước với vai trò chủ quản lý đất đai thực hiện phân phối đất đai
cho các chủ sử dụng; theo quá trình phát triển của xã hội, nhà nước còn thực
hiện phân phối lại quỹ đất đai cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Để thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai, nhà nước đã thực
hiện việc chuyển giao quyền sử dụng đất giữa các chủ thể khác nhau, thực
hiện việc điều chỉnh giữa các loại đất, giữa các vùng kinh tế. Hơn nữa, nhà
nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất, cho phép chuyển quyền sử dụng đất và thu hồi đất. Vì vậy, nhà
nước quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai. Đồng thời, nhà nước
còn quản lý việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất, thu hồi đất; quản lý việc chuyển quyền sử dụng đất; quản lý việc lập quy
hoạch, kế hoạch và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và
sử dụng đất đai. Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước
và do người sử dụng cụ thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù
hợp với yêu cầu và lợi ích của nhà nước, nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát
quá trình phân phối và sử dụng đất, trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện
các vi phạm và bất cập trong phân phối và sử dụng, nhà nước sẽ xử lý và giải
quyết các vi phạm, bất cập đó.
Thứ tư. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai,
hoạt động này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai
như: thu tiền sử dụng đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, có thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng
tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu các loại thuế liên quan đến việc sử
dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập
cao có được từ việc chuyển quyền sử dụng đất...), nhằm điều tiết các nguồn


9


lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng
đất mang lại.
Các mặt hoạt động trên có mối quan hệ trong một thể thống nhất đều
nhằm mục đích bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu nhà nước về đất đai. Nắm
chắc tình hình đất đai là tạo cơ sở khoa học và thực tế cho phân phối đất đai
và sử dụng đất đai một cách hợp lý theo quy hoạch, kế hoạch. Đăng ký, kiểm
tra, giám sát là củng cố trật tự trong phân phối đất đai và sử dụng đất đai, đảm
bảo đúng quy định của nhà nước.
1.2.2. Đối tƣợng của quản lý nhà nƣớc về đất đai
Đối tượng QLNN về đất đai bao gồm các chủ thể quản lý và sử dụng
đất đai và đất đai.
- Các chủ thể quản lý và sử dụng đất đai: gồm 2 loại:
+ Các chủ thể quản lý đất đai: bao gồm các cơ quan thay mặt nhà nước
thực hiện quyền quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương theo cấp hành
chính đó là UBND các cấp và cơ quan chuyên môn ngành quản lý đất đai ở
các cấp; và các cơ quan đứng ra đăng ký quyền quản lý đối với những diện
tích đất chưa sử dụng, đất công ở địa phương. Theo quy định luật đất đai 2013
UBND cấp xã có trách nhiệm đăng ký vào hồ sơ địa chính những diện tích đất
chưa sử dụng và những diện tích đất công cộng không thuộc một chủ sử dụng
cụ thể nào như đất giao thông, nghĩa địa…
+ Các chủ thể sử dụng đất đai theo luật đất đai 2013 bao gồm: tổ chức,
cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân, tổ chức nước ngoài,
cá nhân nước ngoài, người việt nam định cư ở nước ngoài.
- Đất đai là nhóm đối tượng thứ hai của quản lý nhà nước về đất đai,
hiện nay toàn bộ quỹ đất của nước ta được chia thành 3 nhóm như sau:
Nhóm đất nông nghiệp được chia thành 5 loại đất: đất sản xuất nông

nghiệp; đất lâm nghiệp; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối; đất nông

10


nghiệp khác.
Nhóm đất phi nông nghiệp được chia thành 6 loại đất: đất ở; đất chuyên
dùng và sử dụng vào mục đích công cộng; đất tôn giáo tín ngưỡng; đất làm
nghĩa tang, nghĩa địa; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên
dùng; đất phi nông nghiệp khác.
Nhóm đất chưa sử dụng được chia thành 3 loại đất như sau: đất bằng
chưa sử dụng; đất đồi núi chưa sử dụng; núi đá không có rừng cây.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nƣớc về đất đai
- Nguyên tắc thống nhất về quản lý nhà nước : đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, UBND xã thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu và QLNN về đất đai trên địa bàn được quy định bởi pháp luật.
QLNN về đất đai của UBND xã nhằm thực hiện việc nhà nước giao đất, cho
thuê đất đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị kinh tế, hộ gia đình và cá nhân sử
dụng ổn định và lâu dài.
Nhà nước tạo điều kiện cho người SDĐ có thể phát huy tối đa các
quyền đối với đất đai. Vì có như vậy người SDĐ mới yên tâm, chủ động trong
dự liệu cuộc sống để đầu tư sản xuất, cũng như có ý thức trong sử dụng, tránh
hiện tượng khai thác kiệt quệ đất đai.
- Nguyên tắc phân quyền gắn liền với các điều kiện bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ: cơ quan địa chính ở trung ương và địa phương chịu trách
nhiệm trước chính phủ và cơ quan chính quyền cùng cấp trong QLNN về đất
đai, chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện việc giao đất, cho thuê đất cũng như
thu hồi đất đai thuộc về doanh nghiệp và tổ chức và có trách nhiệm hỗ trợ,
phối hợp, kiểm tra chặt chẽ tình hình thực hiện nhiệm vụ của cấp huyện;
UBND huyện có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, hỗ trợ chính quyền xã, và thực

hiện quyền giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất cho các hộ gia đình, cá nhân trên
địa bàn.

11


- Nguyên tắc tập trung dân chủ: quản lý nhà nước về đất đai của UBND xã
phải tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện quyền chủ sở hữu toàn dân
về đất đai, bằng việc tạo điều kiện để người dân có thể tham gia giám sát hoạt
động QLNN của UBND xã trực tiếp hoặc thông qua tổ chức hội đồng nhân dân
và các tổ chức chính trị-xã hội tại xã.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với địa phương và vùng lãnh
thổ: UBND xã thống nhất QLNN về đất đai theo địa giới hành chính, điều này
có nghĩa là có sự hài hoà giữa quản lý theo lãnh thổ và quản lý theo chuyên
ngành và ngay cả các cơ quan trung ương đóng tại địa bàn xã phải chịu sự quản
lý của UBND xã.
UBND xã có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trung
ương hoạt động, đồng thời có quyền giám sát kiểm tra các cơ quan này trong
việc thực hiện pháp luật đất đai, cũng như các quy định khác của nhà nước, có
quyền xử lý hoặc kiến nghị xử lý nếu vi phạm.
- Nguyên tắc kế thừa và tôn trọng lịch sử: quản lý nhà nước của UBND xã
tuân thủ việc kế thừa các quy định của luật pháp của nhà nước trước đây,
cũng như tính lịch sử trong QLĐĐ qua các thời kỳ của cách mạng được khẳng
định bởi việc: nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy
định của nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách
đất đai của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm
thời cộng hoà miền nam việt nam và nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam.
Điều này khẳng định lập trường trước sau như một của nhà nước đối với
đất đai, tuy nhiên những vấn đề về lịch sử và những yếu kém trong QLĐĐ
trước đây cũng để lại không ít khó khăn cho QLNN về đất đai hiện nay và cần

được xem xét tháo gỡ một cách khoa học. Nguyên tắc QLNN về đất đai trên
nhằm đảm bảo nguyên tắc chủ đạo là: nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất
đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu

12


quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài.
tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm đất, được chuyển quyền SDĐ được nhà nước giao theo quy định của
pháp luật.
1.2.4. Sự cần thiết quản lý nhà nƣớc về đất đai
Xuất phát từ vai trò vị trí của đất đai đối với sự sống và phát triển của
xã hội loài người nói chung, phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói
riêng, mà đất đai đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Đất đai là tài sản
quốc gia thể hiện quyền lãnh thổ của quốc gia đó. Vì vậy cần thiết có sự
quản lý nhà nước về đất đai.
Ngoài các yếu tố trên trong điều kiện hiện nay khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, những yếu tố thị trường, trong đó có sự hình thành và phát
triển của thị trường bất động sản. đất đai và nhà ở là nhu cầu vật chất thiết
yếu của con người, là những yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành thị trường
bất động sản.
Hiện nay thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển nhanh nhưng còn
mang nhiều yếu tố tự phát, thiếu định hướng, thị trường bất động sản, thị
trường sức lao động chưa có thể chế rõ ràng, phát triển còn chậm chạp, tự
phát, thị trường vốn và công nghệ còn yếu kém.
Do vậy việc hình thành đồng bộ các loại thị trường nói chung và hình
thành, phát triển thị trường bất động sản nói riêng là tạo động lực phát triển
cho nền kinh tế. Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với
đất đai được bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu quả

tài nguyên đất đáp ứng nhu cầu đời sống của xã hội, do tính định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta qui định.
Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, đất đai có sự thay đổi căn bản
về bản chất kinh tế-xã hội: từ chỗ là tư liệu sản xuất, là điều kiện sống

13


chuyển sang là tư liệu sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá, phương
diện kinh tế của đất trở thành yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất
đai theo hướng ngày càng nâng cao hiệu quả.
Chính vì vậy việc quản lý nhà nước về đất đai là hết sức cần thiết
nhằm phát huy những ưu thế của cơ chế thị trường và hạn chế những khuyết
tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra cũng làm tăng tính pháp lý
của đất đai.
Quản lý nhà nước về đất đai là để: đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả và
công bằng, đất đai cần được sử dụng một cách khoa học, tiết kiệm nhằm
mang lại nguồn lợi cao nhất, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Nhà nước có chính sách phát huy tạo nguồn vốn từ đất đai thông qua
việc thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và các loại thuế thu từ đất, từ đó điều
tiết hợp lý các khoản thu-chi ngân sách.
1.2.5. Mục đích quản lý nhà nƣớc về đất đai
- Đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả
Đất đai là một tài nguyên quý giá, tài sản, tư liệu sản xuất đặc biệt,
không tái tạo được. Do vậy, đất đai cần được sử dụng một cách khoa học, tiết
kiệm, nhằm mang lại nguồn lợi ích cao nhất cả về mặt vật chất và tinh thần cho
mọi người, đảm bảo đất đai được sử dụng lâu dài theo đúng mục đích, đúng
quy hoạch, KHSDĐ được phê duyệt.
Ngoài ra, sự can thiệp của nhà nước còn nhằm phát huy những tích cực
và hạn chế tiêu cực. Trong thực tế, có nhiều trường hợp mâu thuẫn về lợi ích

thường được gọi là hiệu ứng ngoại lai, mà tự bản thân thị trường không giải
quyết được.
Ví dụ: Như việc một nhà máy công nghiệp gây ô nhiễm nằm trong khu
dân cư, sẽ gây tác động xấu cho cộng đồng dân cư ở đó. Ngược lại, những dự
án xây dựng các khu công viên cây xanh mang lại lợi ích xã hội, nhưng lại

14


không hấp dẫn với các nhà đầu tư nên cần phải được chính quyền hỗ trợ hoặc
có chính sách ưu đãi. Hoặc việc đầu tư xây dựng công trình trên đất của tư nhân,
nhưng không tuân thủ quy hoạch về chiều cao, mật độ xây dựng, đem lại lợi ích
cho cá nhân về diện tích nhưng lại ảnh hưởng tới cảnh quan chung của khu vực.
Nhà nước có biện pháp can thiệp buộc họ phải chấp hành quy định về quy
hoạch nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng, hiệu quả QLNN về đất đai của UBND xã
còn nhằm giảm thiểu chi phí của các yếu tố đầu vào và gia tăng kết quả đạt
được.
Điều này đòi hỏi phải chú ý đến chất lượng công việc hàng ngày, đảm
bảo các mục tiêu QLNN về đất đai được thực hiện một cách linh hoạt, sáng
tạo và phân định rõ ràng về trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân. Người
đứng đầu UBND xã phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp kết quả thực hiện
các nhiệm vụ được giao.
- Đảm bảo tính công bằng trong trong công tác quản lý, quy hoạch sử
dụng đất và thu hồi đất
Các chính sách quản lý của nhà nước, nhằm bảo đảm sự phân bổ đất đai
hợp lý giữa lợi ích thu được với chi phí phải bỏ ra tương ứng cho các bộ phận
dân cư khác nhau.Việc phân bổ đất đai chịu sự tác động của quy luật kinh tế
thị trường nhằm tối đa hóa lợi nhuận, do đó chính sách của nhà nước có nhiệm
vụ điều hòa lợi ích để đảm bảo sự công bằng. Ngoài ra chính sách đất đai của
nhà nước nhằm tạo điều kiện cho mọi tầng lớp dân cư được tiếp cận với việc

SDĐ được dễ dàng.
Sự công bằng được thể hiện ở việc UBND xã đảm bảo các quyền của
người SDĐ được nhà nước cho phép, mọi người đều có cơ hội và bình đẳng
trước pháp luật về đất đai. UBND xã thay mặt cho nhà nước QLĐĐ tại địa
phương và giao đất lâu dài và ổn định cho hộ gia đình và cá nhân, khuyến khích
họ khai thác và SDĐ theo hướng có hiệu quả cũng như xử lý nếu sai phạm.

15


Khi cần thu hồi đất cho các mục đích kinh tế xã hội, UBND xã thay mặt
nhà nước thực hiện những chính sách đền bù thoả đáng. Quyền lợi của người bị
thu hồi đất được bảo đảm bù đắp những thiệt hại bị mất đi vì lợi ích chung, giúp
cho người SDĐ yên tâm đầu tư phát triển đất đai.
- Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước xã
Nhà nước có chính sách phát huy nguồn vốn đất đai, bảo đảm các nguồn
thu tài chính từ đất đai cho ngân sách. Nhà nước điều tiết hợp lý các khoản
thu, chi ngân sách, phần giá trị tăng thêm của đất do quy hoạch, các khoản thu
do đầu tư thu được từ đất đai. UBND xã có trách nhiệm thực hiện các khoản thu
từ đất đai cho ngân sách nhà nước bao gồm:
- Tiền sử dụng đất: giao đất có thu tiền SDĐ; chuyển mục đích SDĐ từ đất
được Nhà nước giao không thu tiền SDĐ sang đất được nhà nước giao có thu
tiền SDĐ; chuyển từ hình thức thuê đất sang hình thức được nhà nước giao đất
có thu tiền SDĐ.
- Thuế: là nguồn thu theo nghĩa vụ được quy định bởi pháp luật, là
nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước mà xã được quyền thu và giữ lại
theo quy định, việc đánh thuế SDĐ, do đất mang lại lợi ích cho các chủ đất và
các nhà đầu tư. Chính sách thuế vừa phải đảm bảo khuyến khích sự phát
triển đất đai, vừa đảm bảo nguồn thu cho nhà nước. Ngoài ra các khoản phí,
lệ phí cũng là những khoản thu không nhỏ cho ngân sách xã.

- Các khoản thu nhập khác từ đất đai: UBND xã có thể tạo ra các khoản
thu nhập từ cho thuê, góp vốn bằng đất hoặc trực tiếp tham gia đầu tư và kinh
doanh đất đai nhằm tạo ra lợi nhuận từ đất đai; các khoản thu từ việc nhà nước
tạo ra các giá trị gia tăng về đất đai do đầu tư hạ tầng.
Hiện nay khoản thu nhập chủ yếu trong công tác quản lý đất đai tại địa
phương là thu lệ phí xác nhận đơn đủ điều kiện giao dịch, xác nhận hiện trạng sử

16


dụng đất, các khoản thu từ việc xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai của nhân
dân.
1.3. Hệ thống bộ máy và công cụ quản lý nhà nƣớc về đất đai
1.3.1. Vai trò của quản lý nhà nƣớc trong đất đai
- Điều tiết chi phí hàng hóa: hàng hoá và dịch vụ công cộng chủ yếu bao
gồm các kết cấu hạ tầng như: điện, cấp thoát nước, giao thông công cộng, bưu
chính viễn thông, y tế giáo dục, bảo vệ môi trường… thường do nhà nước
đóng vai trò người cung cấp thông qua ngành kinh tế công cộng. Những sản
phẩm này đều gắn liền với đất đai, hàng hoá, dịch vụ và sẽ được cung cấp với
chi phí thấp hơn nếu như đất đai được sử dụng có hiệu quả.
- Điều hoà các mâu thuẫn: đất đai là không gian cơ bản trong sản xuất
và sinh hoạt của con người và có tính chất khan hiếm. Vì vậy, trong SDĐ
không thể tránh khỏi những mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh chóng của
kinh tế xã hội với sự khan hiếm của đất đai, mâu thuẫn giữa lợi ích tư nhân với
lợi ích cộng đồng, mâu thuẫn giữa hiệu quả và bình đẳng…Việc điều hoà các
mâu thuẫn này cần phải có sự can thiệp của nhà nước.
- Điều tiết sự vận hành kinh tế đất đai: thị trường đất đai không phải là
một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, tính cố định của đất đai, sự độc chiếm của
quyền tài sản đất đai và xu thế tập trung đất đai vào một số ít người… làm cho
thị trường đất đai tiềm ẩn yếu tố độc quyền.

Do đất đai là tài sản cố định và giá trị tuỳ thuộc nhiều yếu tố nên các
bên mua bán khó có được thông tin về giá thực của từng thửa đất trong thị
trường đất đai gây trở ngại trong phân bổ và sử dụng đất đai. Thị trường đất đai
thường biến động phức tạp, nên phải có sự quản lý của nhà nước.
Tại việt nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục

17


đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài.
Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý,
sử dụng tiết kiệm đất,được chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao
theo quy định của pháp luật. Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc thực
hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất
đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả.
- Quản lý và sử dụng đất một cách khoa học, đúng chức năng, mục đích
theo quy hoạch, KHSDĐ đã được cấp thẩm quyền phê duyệt. Các đơn vị, cá
nhân sử dụng đất phải xây dựng hạ tầng, tuân thủ theo quy hoạch và theo đúng
chức năng nhiệm vụ của tổ chức. Muốn thay đổi chức năng, mục đích SDĐ hoặc
chủ sử dụng, phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng đất một
cách hiệu quả. Đất là một trong những yếu tố cấu thành nên giá trị đầu vào
đối với từng đơn vị sản phẩm. Sự khác biệt về vị trí của đất đai, hạ tầng kỹ
thuật tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Đây là vấn đề có
ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh, hạ giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
hàng hoá dịch vụ.
Quản lý đất cần đi đôi với quản lý và giữ gìn bảo vệ cảnh quan môi trường,

di tích lịch sử, văn hoá. Quản lý nhằm tạo ra một không gian lành mạnh cho cuộc
sống của nhân dân, một hình ảnh đẹp về sự phát triển văn hoá, chính trị, thương
mại, hành chính, ngoại giao... của một vùng, quốc gia.
1.3.2. Bộ máy quản lý nhà nƣớc về đất đai
Nhà nước thống nhất QLNN về đất đai từ trung ương đến địa phương
đảm bảo đất đai sử dụng đúng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm

18


khai thác và SDĐ ổn định, lâu dài thông qua hệ thống các cơ quan QLNN về đất
đai.
Nhà nước đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất đai và
các nguyên tắc của hệ thống QLNN về đất đai, bao gồm pháp luật đất đai và
pháp luật liên quan đến đất đai. Nhà nước quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan nhà nước: Chính phủ, hội đồng nhân dân, UBND các cấp trong
QLNN về đất đai trên phạm vi cả nước.
Bộ máy QLNN về đất đai của UBND xã là chủ thể QLĐĐ trên địa bàn,
UBND là đơn vị hành chính trực tiếp QLNN về đất đai. UBND huyện là cấp
quản lý trung gian giữa chính quyền tỉnh, thành phố và chính quyền xã.
Có sự tương ứng về các đơn vị quản lý trong bộ máy QLNN giữa chính
quyền trung ương và chính quyền các cấp theo hàng dọc, như: cấp trung ương
có bộ chịu trách nhiệm QLNN về đất đai trên toàn quốc, thì thành phố có sở và
quận, huyện có phòng quản lý chuyên ngành, cấp phường, xã có từ 1 đến 2
người làm nhiệm vụ này.
1.3.3. Công cụ quản lý nhà nƣớc về đất đai
1.3.3.1. Luật pháp về đất đai
Pháp luật là công cụ quản lý không thể thiếu được của một nhà nước. Từ
xưa đến nay, nhà nước nào cũng luôn thực hiện quyền cai trị của mình trước hết
bằng pháp luật. Nhà nước dùng pháp luật tác động vào ý chí con người để điều

chỉnh hành vi của con người.
Trong công tác quản lý đất đai, pháp luật là công cụ duy trì trật tự an toàn
xã hội trong lĩnh vực đất đai. Bên cạnh đó, vấn đề đất đai gắn chặt với lợi ích vật
chất và tinh thần của mọi chủ thể sử dụng đất nên dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Trong các mâu thuẫn đó có những vấn đề phải dùng đến pháp luật mới xử
lý được. Do đó, đòi hỏi nhà nước phải có khung pháp luật rõ ràng và phù hợp
với nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, hệ thống lưu trữ thông tin

19


về đất đai chính xác, cùng với một đội ngũ công chức chuyên nghiệp mới có thể
giải quyết triệt để vấn đề.
Pháp luật là công cụ bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ
thuế đối với nhà nước và các nghĩa vụ khác đồng thời nhằm bảo đảm sự bình
đẳng, công bằng cũng như giải quyết mối quan hệ về lợi ích trong lĩnh vực đất đai
giữa những người sử dụng đất.
Trong sử dụng đất đai, ngoài được hưởng các quyền lợi từ đất còn phải
thực hiện các nghĩa vụ của mình, như nghĩa vụ thuế, hoặc phải di chuyển khi
nhà nước thu hồi đất cho các mục tiêu của xã hội, hoặc chấp hành các quy định
của nhà nước về quản lý và SDĐ, nhưng không phải lúc nào nghĩa vụ đó cũng
được thực hiện một cách đầy đủ. Có rất nhiều trường hợp phải dùng biện pháp
cưỡng chế và bắt buộc thì nghĩa vụ đó mới được thực hiện.
Nhờ những điều khoản bắt buộc, thông qua các chính sách miễn giảm,
thưởng, phạt cho phép nhà nước thực hiện được sự bình đẳng. Điều này không
những để duy trì trật tự xã hội mà còn để các tổ chức cá nhân hiểu rõ nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình.
Pháp luật là công cụ tạo điều kiện cho các công cụ quản lý khác, các chế
độ, chính sách của nhà nước được thực hiện có hiệu quả hơn. Vì vậy, luật pháp về
đất đai cần phải rõ ràng, đơn giản dễ áp dụng và có tính ổn định lâu dài, có

các quy định buộc các đối tượng phải chấp hành. Tránh tình trạng “xung đột”
và các “khoản trống” trong hệ thống luật pháp về đất đai. Luật phải được ban
hành đồng bộ cùng các văn bản hướng dẫn nhằm sớm phát huy hiệu quả.
Hệ thống pháp luật về đất đai tại nước ta hiện nay gồm có: hiến pháp
1992; luật đất đai 2013; hệ thống luật có liên quan như bộ luật dân sự, bộ luật
hình sự, luật đầu tư nước ngoài tại việt nam, luật đầu tư trong nước, luật thuế
sử dụng đất nông nghiệp, luật thuế CQSDĐ, luật khiếu nại tố cáo của công
dân; các nghị định nghị quyết của chính phủ về đất đai; các quyết định, chỉ thị

20


của Thủ tướng chính phủ về đất đai; các quyết định, thông tư, chỉ thị của bộ
trưởng và thủ trưởng các cơ quan thuộc chính phủ về đất đai; các quyết định,
chỉ thị của UBND các cấp.
1.3.3.2. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, công cụ quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất là công cụ quản lý quan trọng và là một nội dung không
thể thiếu được trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Vì vậy, luật đất đai
2013 quy định "Nhà nước quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật".
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng trong
việc quản lý và sử dụng đất, nó đảm bảo cho sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách
thống nhất trong quản lý nhà nước về đất đai. Thông qua quy hoạch, kế hoạch
đã được phê duyệt, việc sử dụng các loại đất được bố trí, sắp xếp một cách
hợp lý.
Nhà nước kiểm soát được mọi diễn biến về tình hình đất đai. Từ đó,
ngăn chặn được việc sử dụng đất sai mục đích, đồng thời thông qua quy
hoạch, kế hoạch buộc các đối tượng sử dụng đất chỉ được phép sử dụng trong
phạm vi ranh giới của mình.
Quy hoạch đất đai được lập theo vùng lãnh thổ và theo các ngành

+ Quy hoạch sử dụng đất đai theo vùng lãnh thổ là quy hoạch sử dụng
đất đai được lập theo các cấp hành chính, gồm: quy hoạch sử dụng đất đai của
cả nước, quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất đai cấp
huyện, quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã.
+ Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành là quy hoạch sử dụng đất được
lập theo các ngành như: quy hoạch sử dụng đất đai ngành nông nghiệp, quy
hoạch sử dụng đất đai ngành công nghiệp, quy hoạch sử dụng đất đai ngành
giao thông.

21


1.3.3.3. Chính sách tài chính đất đai
Tài chính là công cụ nhà nước tác động đến các đối tượng sử dụng đất
làm cho họ thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong việc sử dụng đất đai
để thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của họ thông qua công cụ này. Tài chính
còn là công cụ quản lý quan trọng cho phép thực hiện quyền bình đẳng giữa các
đối tượng sử dụng đất và kết hợp hài hoà giữa các lợi ích.
Chính sách tài chính về đất đai là một công cụ quan trọng trong QLNN
về đất đai của UBND xã tác động một cách trực tiếp đến đầu tư, phát triển và
đảm bảo đưa các quy hoạch, KHSDĐ thành hiện thực.
Nhà nước chủ động điều tiết giá đất bằng quan hệ cung-cầu về đất, hệ
thống thuế đất đai, cơ chế thu hút vốn đầu tư xây dựng kinh doanh bất động sản
bằng nguồn ngân sách nhà nước, vốn của các thành phần kinh tế, vốn đầu tư
của các tổ chức tín dụng, bằng huy động tiền tiết kiệm của dân thông qua chứng
khoán bất động sản.
Theo luật đất đai năm 2013, nhà nước ban hành các loại thuế chủ yếu
trong lĩnh vực đất đai như sau: thuế sử dụng đất; thuế chuyển quyền sử dụng
đất; thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (có thể có); các loại lệ phí trong
quản lý, sử dụng đất đai như lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính. Đây là nguồn thu

chính bổ sung vào ngân sách của nhà nước.
Đặc biệt là UBND xã một đơn vị được nhà nước giao trách nhiệm thu
nộp. Hệ thống thuế đất đai cần được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch
nhằm nâng cao trách nhiệm và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người nộp
thuế, tạo điều kiện cho họ chấp hành luật pháp về thuế.
Đối với đất đai hiện nay, nhà nước đã ban hành khung giá chung cho các
loại đất cụ thể được quy định tại nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 của chính phủ để làm cơ sở chung cho UBND cấp tỉnh làm căn cứ

22


tính giá đất và thu thuế sử dụng đất; thu tiền khi giao đất, khi cho thuê đất, khi
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất.
Hiện nay, tại việt nam hình thành hai hệ thống giá về đất đai
+ Hệ thống giá do nhà nước quy định để điều chỉnh mối quan hệ kinh tế
về đất đai giữa nhà nước và người có quyền đối với đất, giá đất này có đặc trưng
là cố định trong năm tài chính.
+ Hệ thống giá hình thành trên thị trường trong mối quan hệ kinh tế về
đất đai giữa những người có quyền đối với đất, giá đất này phụ thuộc vào quan
hệ cung-cầu về đất trên thị trường.
Trong một nền kinh tế ổn định, hai hệ thống giá đất nói trên khác nhau
không đáng kể và phản ảnh chân thực khả năng sinh lợi từ hoạt động kinh tế trên
đất. Còn nền kinh tế không lành mạnh, giá đất thiếu ổn định và có xu hướng
cao hơn giá thực, không phản ảnh chính xác khả năng sinh lợi từ hoạt động
kinh tế đúng pháp luật. Nếu hai hệ thống giá đất nói trên khác nhau quá nhiều
sẽ tạo môi trường cho tiêu cực trong quản lý và đầu cơ trong SDĐ.
1.4. Phân cấp trong quản lý đất đai
Phân cấp trong quản lý đất đai là việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của mỗi cấp hành chính trong việc thực hiện các nội dung QLNN về đất

đai. Các cơ quan QLĐĐ được thiết lập theo hệ thống bốn cấp như hệ thống cơ
quan quản lý hành chỉnh gồm các cấp ở trung ương, cấp tỉnh-thành phố trực thuộc
trung ương, cấp huyện và cấp xã. Cơ quan QLĐĐ cấp nào thì trực thuộc cơ quan
hành chính cấp đó và mỗi cấp có thẩm quyền riêng theo qui định của pháp luật.
1.4.1. Cấp trung ƣơng, bộ tài nguyên và môi trƣờng
Ngoài những nhiệm vụ chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các bộ và cơ quan ngang bộ được quy định tại nghị định số
86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 của chính phủ, bộ tài nguyên và môi trường có

23


trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại điều 2, nghị định số
1/2002/NĐ-CP thực hiện chức năng QLNN về tài nguyên đất, tài nguyên nước,
tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng, thủy văn, đo đạc và bản đồ trong
phạm vi cả nước; QLNN các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
môi trường, khí tượng, thủy văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật.
1.4.2. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
Theo qui định của luật đất đai năm 2013, cơ quan thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước về đất đai ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là các
sở tài nguyên và môi trường.
Để hoàn thiện bộ máy ngành quản lý đất đai ở các địa phương cho phù
hợp với việc thành lập bộ tài nguyên và môi trường ở trung ương, ngày 2 tháng 4
năm 2003, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 45/2003/QĐ-TTG để
thành lập các sở tài nguyên và môi trường ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
Tại điều 1 quyết định này nêu rõ: thành lập sở tài nguyên và môi trường
thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở hợp nhất tổ chức
của sở địa chính (hoặc sở địa chính-nhà đất) và các tổ chức thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường thuộc
sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, sở công nghiệp, sở khoa học-công nghệ
và môi trường.
Ngày 15 tháng 7 năm 2003, bộ tài nguyên và môi trường và bộ nội vụ ban
hành thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV hướng dẫn về chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND các
cấp về quản lý tài nguyên và môi trường.

24


×