Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phép mâu thuẫn biện chứng và vận dụng phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.02 KB, 26 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều chứa đựng trong
nó những mặt đối lập có khuynh hướng vận động trái ngược nhau. Những
mặt đối lập này vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành động lực
cho mọi sự phát triển.Do đó trong họat động thực tiễn cần phân tích từng
mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh
hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta từ kế họach hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà nước Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn,
song cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn nảy sinh.Tất cả những
mâu thuẫn này cần phải được nhìn nhận một cách thật đúng đắn và có
những phương hướng giải quyết chúng một cách hợp lý, tránh nóng vội chủ
quan duy ý trí.Nếu các mâu thuẫn đó được giải quyết tốt thì nền kinh tế sẽ
phát triển đúng hướng và tránh được sự chệch hướng khơng cần thiết.
Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN cũng như các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng
nền kinh tế, em chọn đề tài: “Phép mâu thuẫn biện chứng và vận dụng
phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” làm đề tài cho tiểu luận triết học của mình.

1


NỘI DUNG
I.

NỘI DUNG NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC

1.


Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất:

Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính,những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại
trong cùng một sự vật,hiện tượng,tạo nên sự vật hiện tượng đó.Do đó cần
phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng có thể tạo thành mâu
thuẫn.Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không
phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đơí lập.Trong cùng một thời đIểm ở mỗi
sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập tồn tại
thống nhất trong cùng một sự vật như một chính thể nhưng có khuynh
hướng ngược chiều nhau,baif trừ và phủ định lẫn nhau (sự chuyển hoá này
tạo thành nguồn gốc động lực,đồng thời quy định các bản chất, khuynh
hướng phát triển của sự vật ) thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt
đối lập tạo thành mâu thuẫn.”thống nhất giữa hai mặt đối lập được hiểu
không phải chúng đứng bên canh nhau mà là nương tựa vào nhau, tạo ra sự
phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc quy định mà rằng buộc lẫn nhau.
Mỗi mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự cho sự tồn tại
của chính mình và ngược lại.Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính
tạo thành sự vật thì nhất định khơng có sự tồn tại của sự vật.Bởi vậy sự
thống nhất cấc mặt đối lập là điêù kiện không thể thiếu được cho sự tồn tạI
của bất kỳ sự vật,hiện tượng nào.
* Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng vốn có bản thân sự vật
tạo nên:
Thí dụ: Nền kinh tế tập trung bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều
kiện cho sự tồn tại và sự phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở
Việt Nam.Hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu
hiện của chúng nhưng chúng lại hết sức quan trọng.Vì nó có sự thống nhất
đó là tạo nên q trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam.Thiếu sự thống nhất
này nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là
chính nó.

2


Thí dụ: LLSX - QHSX trong PTSX. Khi LLSX phát triển thì cùng
với nó QHSX cũng phát triển, hai hình thức này chính là điều kiện của
PTSX. Nhưng quan hệ của LLSX với QHSX phải thoả mãn một số yêu cầu
sau:
-Thứ nhất: Đó phải là khái niệm chung nhất được khái quát từ các
mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của QHSX.
-Thứ hai: Đó phải là khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến
đổi thường xuyên của sự vận động,phát triển trong quan hệ của QHSX với
LLSX.
-Thứ ba: Đó phải là khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngồi ý nghĩa
nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của QHSX với LLSX được coi là thoả
đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng QHSX,sao
cho những QHSX có khả năng phù hợp cao nhất với LLSX.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối.Bản thân
nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất của nó: thống nhất của các
mặt đối lập,trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
* Đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách
rời sự đấu tranh chuyển hố giữa chúng.Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại
trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm
yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát
triển của bản thân sự vật.Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác
nhau.
Thí dụ: LLSX và QHSX trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn LLSX
tiên tiến với QHSX lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ
có thơng qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo

lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn thông
thường, khi mới xuất hiện,hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự sung khắc
gay gắt người ta gọi là giai đoạn khác nhau.Tất nhiên không phải bất kỳ sự
3


khác nhau nào cũng gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau cùng
tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ, phát triển ngược chiều nhau,
tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt ấy mới hình
thành những bước đầu của mâu thuẫn khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn
phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt nó biến đổi độc lập. Nếu hội tụ đủ
các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau: sự vật cũ mất đi
sự vật mới hình thành. Sau khi hai mặt đối lập được giải quyết sự thống
nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất hai mặt đối
lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới xuất hiện.Cứ như thế, đấu tranh giữa
các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi khơng ngừng từ thấp nên cao chính
vì vậy, Lênin khẳng định “sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập “.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, Lênin chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại
với ý nghĩa nó chính là nó - nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà
chúng ta nhận biết được sự vật,hiện tượng tồn tại trong thế giới khách
quan.Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu
tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối.Nó diễn ra thường xuyên liên
tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn
định, cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất.Lênin viết:”Sự thống nhất
(phù hợp, đồng nhất,tác dụng ngang nhau)của các mặt đối lập là có điều
kiện,tạm thời,thống qua tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài

trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối.
2

Chuyển hoá của các mặt đối lập.

Không phảI bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự
chuyển hố giữa chúng.Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển
đến một trình độ nhất định,hội đủ các đIều kiện cần thiết mới dẫn đến sự
chuyển hoá,bù trừ và phủ định lẫn nhau.Trong giới tự nhiên chuyển hoá
của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội
chuyển hoá các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thơng qua hoạt động có ý
thức của con người.Chuyển hố của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn

4


được giải quyết,sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời,đó là lúc mâu thuẫn
được giải quyết,sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời,đó chính là q trình
diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.Do
đó,khơng nên hiểu sự chuyển hố lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự
hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc.Thơng thường thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phương thức.
+Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối
lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Thí dụ: LLSX và QHSX trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển
hố lẫn nhau để hình thành QHSX mới là QHSX TBCN và LLSX mới ở
trình độ cao hơn.
+Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hố lẫn nhau để
hình thành hai mặt đối lập mới hồn tồn.
Thí dụ: Nền kinh tế VN chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu

bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN
Từ những mâu thuẫn trên ta thấy trong thế giới hiện thực,bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau.Sự đấu tranh
chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành
mâu thuẫn.Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu
thuẫn được giải quyết,sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới
lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu
tranh và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan luôn luôn phát triển và biến
đổi khơng ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự phát
triển.
II.

NHẬN BIẾT CÁC MÂU THUẪN

Thực chất của nền kinh tế thị trường ở VN.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng XHCN là một tất yếu
lịch sử nó nhằm đến những mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó
5


thay cũ đổi mới hàng loạt những vấn đề về lý luận và thực tiễn,cả về kinh
tế và chính trị xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong hồn cảnh, điều kiện mới.
Như chúng ta đã biết,từ khi CNXH được xây dựng tất cả các nước
XHCN đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành
và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như
đặc trưng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của

CNTB. Sự thực thì khơng hồn tồn như vậy nền kinh tế tập trung khômg
phảI là sản phẩm riêng biệt của CNXH, cũng như nền kinh tế thị trường
không phảI là duy nhất được thiết lập trong CNTB.
Nền kinh tế tập trung đã được các nước tư bản áp dụng trước khi
nhiều nước xác lập chế độ CNXH.Nhưng các nước TBCN đã bỏ cơ chế thị
trường sau khi chiến tranh kết thúc và đạt được nhữnh thành tựu rất lớn về
kinh tế, xã hội. Nhưng cơng bằng mà nói, nền kinh tế thị trường không phải
là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại của nền kinh tế thị
trường -- bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên.
Như vậy, có thể nói nền kinh tế tập trung khơng phải là thuộc tính đặc thù,
cố hữu của một chế độ xã hội nào. Vấn đề áp dụng nền kinh tế đó vào thời
điểm, hồn cảnh lịch sử nào thì phù hợp để giành được hiệu quả cao nhất.
Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bởi thế sự phát triển nền
kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Chỉ mới hơn mười lăm năm
đổi mới vừa qua, với việc chuyển sáng nền kinh tế thị trường Việt Nam đã
làm cho thế giới phải ngỡ ngàng.Từ chỗ còn xa lạ nay chúng ta đã hội nhập
được với các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Tất cả những thành tựu kinh
tế mà chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói lên
cơng cuộc đổi mới ở nước ta thực sự là một cuộc cách mạng thực sự.
Ở Việt Nam có đặc điểm là bảo vệ vận dụng và phát triẻn sáng tạo chủ
nghiã mác Lênin,tư tưởng Hồ chí Minh là mục tiêu, nhiệm vụ không kém
phần quan trọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò cách mạng của công
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.

6


Trong công cuộc đổi mới hiện nay Đảng ta một lần nữa khẳng định
những giá trị khoa học bền vững của chủ nghiã Mác Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh đồng thời, tuyên bố lấy chủ nghĩa chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho mọi hành động.
* Một số đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn ở góc
độ triết học:
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho
thấy mơ hình phát kinh tế thế giới theo xu thế – hướng thị trường có sự
điều tiết vĩ mơ từ trung tâm, trong bối cảnh của thời hiện đại ngày nay, là
mơ hình hợp lý hơn cả.Mơ hình này về đại thể đáp ứng được thách thức của
sự phát triển.
Ở nước ta việc thực hiện mơ hình này, trong thực tế, chẳng những là
nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa,còn là phương thức để
nước ta đi đến CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay có thể nói đang ở trong giai đoạn quá độ
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy,
những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương
nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận
thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối được
những những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan
nóng vội duy ý chí, hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc sao
chép bán kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của kinh tế quá độ
của nước ta là gì ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung, bao
cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai
trong q trình kế hoạnh hố ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước
đối với các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối... khá nặng nề.Ở nước
ta trước đây, chế độ hoạch toán trên thực tế cịn nặng nề về hình thức lợi
ích kinh tế, đặc biệt lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp
của hoạt động xã hội được quan tâm đúng mức.Vì thế, sự vận động của nền
kinh tế nhìn chung là chậm chạp kém năng động.

7


Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI(12/1986) đến nay, theo đường lối đổi
mới đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định
hướng XHCN.Và điều đó có ý nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và
bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm nhận thức về CNXH ngày càng cụ
thể, đường lối,chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa
học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định,
cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá
nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một kiểu quan hệ kinh tế xã
hội mà trong đó,sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trường, tức
là gắn liền với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung cầu.. Trong nền
kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là
quan hệ hàng hố. Mọi hoạt đơng xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng
hố hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là mắt xích
trung gian.
Thành tựu của những năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng
làm cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá.Hàm lượng kinh tế trong
hoạt động xã hội ngày càng được chú ý.Bước sang cơ chế thị trường đương
nhiên không tránh khỏi những mặt tiêu cực của nó, nhưng dẫu sao nó cũng
nói lên sức sốngvà khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực
chất của bước chuyển này một số cho rằng:“ ở Việt Nam,mặc dù nền kinh
tế thị trường chỉ mới vừa hình thành, cịn đang trong bước chập chững ban
đầu và điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN, xong cũng đã
tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và để lại dấu ấn của mình. Những
quan hệ mà ở đó vừa có màu sắc thị trường lại vừa chưa phải quan hệ thị
trường “. Sự đan xen, chi phối mãnh liệt các nhân tố khác của đời sống xã

hội trong bối cảnh của một xã hội vừa thoát khỏi cơ chế hành chính bao cấp
đã làm cho cơ chế thị trường bị “ khúc xạ “ theo nhiều chiều hướng khác
nhau.
Một trong những ngun nhân của tình hình nói trên, đúng như ý kiến
vừa chỉ ra, trước hết thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như

8


trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất
với hai thành phần tập thể và quốc doanh thì hiện nay, cùng với thành phần
sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, cịn tồn tại nhiều thành phần sở hữu
khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành nền kinh tế
không hẳn là đồng bộ với nhau, đôi khi chúng có mâu thuẫn với nhau.
Xong trên tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có
khả năng đáp ứng những địi hỏi đa dạng của nền kinh tế thị trường.
Thực ra, trong quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa
đựng những tư tưởng mới về quy luật của sự phù hợp khách quan QHSX
với trình độ phát triển của LLSX, sự tồn tại của các thành phần sở hữu đa
dạng của một nền kinh tế theo định hướng XHCN là hoàn toàn có cơ sở của
nó.Hơn thế nữa, vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước, trên thực tế không
chỉ chủ đạo về “GDP”. Theo quan niệm hiện đại về xử lí kinh tế vĩ mơ thì
khả năng điều tiết chỉ dạo của kinh tế Nhà nước đối với các thành phần
kinh tế khác được thể hiện trên nhiều mặt: Kinh tế nhà nước có thể là chi
phối các vị trí đặc biệt nhưng kém sinh lời trong nền kinh tế. Cùng với với
việc nắm giữ các nghành thông tin,cơ sở hạ tầng, quốc phòng... Kinh tế
nhà nước đảm bảo những tư liệu sản xuất chủ yếu phát triển về toàn xã hội,
phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.
Vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế theo
định hướng XHCN là điều không phải bàn cãi. Nhà nước, ngoài việc trực

tiếp quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai
trị là nhân vật trung gian giữa các vấn đề về kinh tế và xã hội. Nhà nước
với các chính sách, luật lệ của mình, cịn có khả năng đạt tới một trình độ
tăng trưởng có hiệu quả,nhưng mặt khác nó cũng chính lại là người phải lo
giải quyết các vấn đề do chính nền kinh tế tạo ra.Về đại thể, chìa hố để
đáp ứng những vấn đề phức tạp và trái ngược của nền kinh tế xã hội nằm
trong sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, Nhà
nước và nền kinh tế Nhà nước có nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ để có thể
đảm đương được trọng trách to lớn của mình.Trên thực tế bộ máy vĩ mơ
của Nhà nước đối với nền kinh tế còn khá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu
hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và
quá ỷ lại vào Nhà nước.Trong một số trường hợp,thậm chí kinh tế Nhà
9


nước cịn vơ tình bỏ rơi “trận địa” mà mình đã chiếm lĩnh,tạo điều kiện cho
những phần tử tham nhũng tiêu cực.Điều đó có nghĩa đối với việc xác điịnh
đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.Tiếp tục đổi mới
vào hoạt động có hiệu quả để kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ
đạo,làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của tồn bộ nền kinh tế.
Trên cơ sở, đó giải quyết ngay các vấn đề xã hộỉ tầm vĩ mô sao cho tăng
trưởng kinh tế không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường của
đời sống xã hội.
Thực ra các vấn đề xã hội của nền kinh tế thị trường, nhất là trong một
nền kinh tế thị trường cịn sơ khai trong giai đoạn q độ,lại có mức tăng
trưởng nhanh là điều rất khó.Vấn đề là ở chỗ, chúng ta buộc phải chấp nhận
mặt trái của kinh tế thị trường đến mức độ nào.Để từng bước nâng cao chất
lượng và hiệu quả của nền sản xã hội, chúng ta đã có những biện pháp,
chính sách nhất định đối với một số lĩnh vực kinh tế xã hội.Chẳng hạn đối
với lĩnh vực GDĐT, lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ mơi

trường...Tuy nhiên, cũng có nhiều lĩnh vực thuộc về các vấn đề xã hội còn
chưa có đối sách hợp lý.Như vấn đề phân hố giàu nghèo, các tệ nạn xã
hội,vấn đề xuống cấp về đạo đức... Đương nhiên đây khơng phải là bài tốn
có thể giải quyết ngay trong một sớm một chiều được.
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề dù ít dù nhiều cũng là các vấn
đề của bản thân cơ chế quản lý.Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cơ
chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ và
thiếu hụt.Chúng ta chưa thực sự tạo ra mơi trường an tồn và ổn định cho
sản xuất và kinh doanh.Cơ sở pháp lý của các hoạt động kinh tế còn quá
nhiều điều bất hợp lý.Dovậy,trong một số vụ án kinh tế cơ chế quản lý đôi
khi vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của kinh tế thị trường.Tính chất khơng
rõ ràng thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế và xã hội.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta bước đầu sử
dụng thị trường như là một công cụ, một phương thức.Thực tế nó đã đem
lại những kết quả tích cực cả trên phương diện nhận thức và thực tiễn.
Mỗi hành trang có ý ghĩa mà cơng cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta,
sản xuất hàng hoá cùng với nền”kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
10


hành theo cơ chế thị trường” hiện đã được chúng ta hiểu là khơng đối lập
với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một ” cơ
hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ
ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường
vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của cơng tác kế hoạch hố.Việc điều tiết vĩ
mô với thị trường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành
một thị trường thống nhất - trong cả nước và thống nhất với thị trường thế
giới, mặt khác có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định

mình khẳng dịnh khả năng và vai trị của mình trên thị trường.
Tuy nhiên, càng nhận ra sức mạnh của kinh tế thị trường chúng ta lại
càng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời
sống xã hội.Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát
triển xã hội,nó có khả năng tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã
hội.Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội.
Do vậy, quan niệm của Đảng ta: Để thực hiện xây dựng CNXH với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội cơng bằng văn minh, thì kinh tế thị trường
nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản
của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn được đặt ra và được
giải quyết trong suốt quá trình đổi mới. Những thành tựu đạt được trong 10
năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết một cách đùng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận thức về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị cũng khơng ngừng phát triển, gắn liền với thực hiện
công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhận thức
về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn
liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự
phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng khơng
ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới.
* Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ
giữa kinh tế và chính trị
11


Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa
kinh tế và chính trị “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong
lịch sử và phát triển xã hội lồi người khơng phải bao giờ cũng có vấn đề
chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ
khi xã hội có giai cấp và Nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất

hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giai cấp, các lực
lượng xã hội nhằm giành, giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính
quyền đó làm cơng cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hồn tồn là
do kinh tế quyết định. Chính trị khơng phải là mục đích mà chỉ là phương
tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyring
cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế. F.Engen đã khẳng định: “bạo
lực chỉ là phương tiện, cịn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích” và trong tác
phẩm “ và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”. F.Engen đã chỉ rõ: “để
thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng
làm một phương tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội.
Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo
cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế đấu tranh giai cấp, về
thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thơng qua đấu tranh
chính trị. Theo F.Engen “bất cư cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là
đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh
tế”. Để nhấn mạnh vai trị của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “chính trị
khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế” khẳng định đó của V.I.Lênin
khơng có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị,
mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề
kinh tế khơng thể tác rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét, giải quyết
theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền thì cũng
hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm
phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trường chính trị
đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của kinh tế.
V.I.Lênin cịn khẳng định: “khơng có một lập trường chính trị đúng thì một
12



giai cấp nhất định nào đó, khơng thể nào hồn thành được nhiệm vụ của
mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị khơng phù hợp với u
cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó, việc
thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là
điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có
thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau
trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đấy là cơ sở phương pháp luận quan
trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức cơng cuộc đổi mới
ở Việt Nam nói riêng.
Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Có thể nói, từ đại hội đoàn toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986)
của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới.
Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới
tư duy, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là biểu hiện tiền đề đổi mới
trong thực hiện. Nhấn mạnh như vậy là hết sức cần thiết đối với thực tiễn
nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ đang trói buộc chúng ta khi đó.
Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi
đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi
mới trong thực tiễn và gắn liền với thực tiễn của cơng cuộc đổi mới. Chính
vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu
nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề,
khi mà chúng ta giành được thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm
cho rằng nguyên nhân thất bại của xã hội ở Liên Xô và Đơng Âu là do các
nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau; còn nguyên nhân
thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi
mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng

đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó khơng phù hợp với lý luận và thực tiễn.

13


Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin mà chúng
ta đã trình bày ở phần trên, mỗi khi chính trị khơng phù hợp với kinh tế thì
thay đổi về chính trị là điều kiện kiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy
kinh tế phát triển. Cho nên, không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi
mới ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu là đổi mới chính trị
trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sụp đổ chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn về kinh tế và chính trị không
được phát hiện và khắc phục sớm đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về
chính trị làm mất vai trò của Đảng cộng sản.
Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau
khơng phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đướng lối đổi mới do Đảng
ta đề ra, trên cơ sở đó, hình thành chính sách mới, luật pháp mới... thì mới
có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với
chính sách luật pháp... của Nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở
chỗ: lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan tới quyền
thống trị của giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi
mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị
phải trên cơ sở đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu
cầu của đổi mới kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng
6 năm 1991) đảng ta đã khẳng định
1.

Đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị.

Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung

sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân
về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành
thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị đồng thời đổi mới kinh tế, phải
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân
dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Vì chính trị đụng
chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên
việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu

14


và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn
đến sự rối loạn.
Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là
về tổ chức bộ máy và các bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và
thực hiện dân chủ. Điều đó cho thấy rằng Đảng ta đã khơng tách rời với đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị. Đảng ta đã khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế
và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị,
nhưng phải thật thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng
thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới
là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó
chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
2.

Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế

thị trường.

Trước đây, người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ
nghĩa xã hội: sở hữu chủ nghĩa tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu tồn dân
và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan
bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai
cấp cơng nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu
tư nhân, tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất
hàng hố nhỏ. Thực tế địi hỏi giai cấp cơng nhân phải có thái độ và phát
triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu tồn
dân cịn đối với sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hố nhỏ thì
khơng thể dùng biện pháp như trên, mà phải kiên trì, giáo dục, thuyết phục,
tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường
hợp tác hố hai hình thuức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ
nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.

15


Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
- Về sở hữu toàn dân: trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân
trùng với sở hữu Nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “đất
đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn
tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh
thổ là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai
phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của

riêng ai. Tuy nhiên, sau cho cùng đất đai cũng là tư liệu sản xuất. Bởi thế,
dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hố, nó vẫn phải vận động theo
quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý
không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân. Kể cả quyền
được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các
vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như
ruộng đất vẫn thuộc sở hữu tồn dân song người nơng dân được quyền sử
dụng ổn định, lâu dài thì có thể đem lại một sự tăng trưởng kinh tế nói
chúng. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài.
- Về sở hữu Nhà nước:
Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở nước ta mà còn ở một số
nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thường đồng nhất sở hữu Nhà
nước với sở hữu tồn dân. Do nhầm lẫn như vậy có một thời gian khá dài,
người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt
đến sở hữu tồn dân với chế độ cơng hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu
tồn dân và sở hữu tập thể và cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự
phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức
quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ
nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra với quan niệm đó, sở hữu tồn dân đã trở
thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
- Về sở hữu tập thể:
16


Ở nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình
thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ cơng nghiệp)
với nội dung là có giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là
của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở

hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực
tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của
các tập thể sản xuất thường rất hạn chế song đơi khi lại có tình trạng lạm
quyền. Sự khơng xác định, sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu Nhà nước và
sở hữu tư nhân trá hình cũg là hiện tượng phổ biến. Để thốt khỏi tình trạng
đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ
quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản
xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành
một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đã biết, hợp tác xã khơng phải là hình thức riêng có đặc
trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến
bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải
duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu vậy khi xây dựng chủ nghĩa
xã hội như VI Lênin đã khẳng định, “chế độ của người xã viên hợp tác xã
văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của kinh tế hộ gia đình, của nền sản
xuất hàng hố. Khi lực lượng sản xuất trong cơng nghiệp và nơng nghiệp
phát triển tới một trình độ nhất định nó sẽ thúc đẩy q trình hợp tác.
3.

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Quan hệ sản xuất là mặt đối lập nhưng đồng thời lại có quan hệ mật
thiết với lực lượng sản xuất. Trong ba bộ phận hợp thành quan hệ sản xuất
là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối kết quả sản xuất thì hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là
nội dung cơ bản và quan trọng nhất. Với mỗi chế độ sở hữu nhất định về tư
liệu sản xuất sẽ quyết định địa vị và mối quan hệ lẫn nhau giữa con ngươi
với con người trong q trình sản xuất.
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
17


định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vấn đề lực lượng sản xuất
- quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp mâu thuẫn giữa hai lực
lượng này và những biểu hiện cuả nó xét trên phương diện triết học và chủ
nghĩa Mác Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn
quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng
sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng
khơng cịn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để
phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó là qui luật kinh tế
chung cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải
quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng
xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng, thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay
ở Việt Nam là phấn đấy xây dựng nước ta trở thành quốc gia cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng và văn minh”
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa
mang tính chất cách mạng, vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nói đến cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước chính là nói đến
nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất, nói đến khoa học, nói đến sự an ninh, trí tuệ, là nói đến một phương
thức tối ưu để thốt khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp nghèo nàn,
lạc hậu nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây
dựng và phát triển.
4. Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng:
18


Cơ sở hạ tầng là tổng hợo các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
Tổng hợp các quan hệ sản xuất trước hết và chủ yếu là những quan hệ
sản xuất thống trị đặc trưng cho mỗi phương thức sản xuất và các quan hệ
sản xuất tàn dư, mầm mống tồn tại thực trong một kết cấu kinh tế xã hội
đan xen.
Kiến trúc thượng tầng là tồn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng (Nhà
nước, đảng phái, giao hội và các đồn thể) được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
Trong quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và đến lượt nó kiến trúc
thượng tầng lại tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vận dụng và quán triệt quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành
phần, trong đó có kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác và nhiều thành phần
kinh tế khác. Tính chất đan xen về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho
nền kinh tế sống động, phong phú, vừa mang tính phức tạp trong q trình
thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng

động, phong phú của nền kinh tế - xã hội. Khơng phải đa thành phần kinh
tế thì nhất thiết phải đa đảng, đa nguyên chính trị, nhưng nhất thiết kiến
trúc thường tầng phải được đổi mới theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới
bộ máy, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các
tổ chức, hiệp hội, đoàn thể, mở rộng dân chủ... nhằm quy tụ sức mạnh của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chỉ có như vậy, kiến trúc
thượng tầng mới cơ sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.
Và như vậy, chỉ cần một đảng là Đảng cộng sản lãnh đạo vẫn thực hiện
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

19


5.

Mâu thuẫn giữa tính tự phát tư bản chủ nghĩa và tính tự giác.

Nền kinh tế thị trường trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến như ở
nước ta thì tất nhiên chưa thể thốt khỏi tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Việc
định hướng nền kinh tế nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là sự
phát triển tự phát, mà là kết quả của sự nhận thức và vận dụng một cách tự
giác xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời
đại ngày nay. Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: tính tự phát và tính
tự giác trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn cịn là cái cần thiết và
khơng tránh khỏi công việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu
dùng, trong việc giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lưu thơng
hàng hố... Tuy vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì
khơng thể thực hiện được mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Còn hoạt động tự

giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng dẫn đến xu thế tất yếu và quy
luật khách của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức, nhất
là sai lầm trên bình diện quốc gia, thì hậu quả của nó thật khơn lường. Giải
quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế xã
hội là hết sức khó khăn, phức tạp khơng phải là trong một lúc có thể xố bỏ
hồn tồn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con người thành hoạt động
tự giác, mà là phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng
lực nhận thức khoa học cũng như năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt
động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động của
con người trong xã hội.
6.

Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con
người chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vai trò
cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bời vì con người là chủ thể
của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng tạo về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới,

20



×