Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tieu luan lớp chuyên viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.42 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Quyết định và cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước là kết quả
của sự thể hiện ý chí, quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước nhằm đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng của công dân
trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Hiện nay với nhiệm vụ được
giao, trên cơ sở các quy định chung, có rất nhiều quyết định hành chính được
các cơ quan hành chính nhà nước ban hành để tăng cường các biện pháp quản
lý xã hội, quản lý công dân. Tuy vậy trong thực tế, không ít công dân, tổ chức
vẫn chưa nghiêm túc thực hiện các quyết định hành chính có liên quan, thậm
chí còn có không ít trường hợp công dân không những không tự giác chấp
hành các quyết định hành chính đúng đắn của cơ quan nhà nước mà còn cố
tình khiếu kiện vượt cấp gây ảnh hưởng xấu đến xã hội và cộng đồng, ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật. Chính vì lẽ đó, đã có không ít trường hợp
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã phải ra quyết định và tổ chức
cưỡng chế hành chính để đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng của pháp
luật.
Những năm gần đây, tình trạng khiếu nại, tố cáo luôn là vấn đề bức
bách được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Trong số đó phần lớn là
các vụ khiếu nại, tố cáo có nội dung liên quan đến đất đai giao cho các tổ
chức, cá nhân để làm các dự án phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đất thu hồi
để xây dựng công trình công cộng, làm đường giao thông… Đảng và Nhà
nước đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị và Chính phủ cũng đã ban hành các
Nghị định, Thông tư để triển khai thực hiện vấn đề này, do đó nhiều vụ việc
phức tạp về khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết kịp thời, góp phần làm ổn
định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước nói chung
và của tỉnh Gia Lai nói riêng.
Trên cơ sở những kiến thức đã được học tập qua lớp bồi dưỡng kiến
thức quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên khóa 70 do
Trường Chính trị tỉnh phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện
1



Kông Chro tổ chức và qua những vụ việc cụ thể diễn ra trong cuộc sống. Tôi
chọn một tình huống “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực trong lĩnh vực
quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có liên quan đến đất đai” liên
quan đến quyết định và cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước để viết
tiểu luận cuối khóa.
Do kiến thức quản lý nhà nước và kinh nghiệm thực tiễn cũng như thời
gian nghiên cứu tình huống của bản thân còn hạn chế, cho nên tiểu luận này
không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô giáo.
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Năm 1992, ông Nguyễn Văn T ở tổ dân phố X - Thị trấn K – huyện K
có mua một lô đất và nhà ở tại khu vực tổ dân phố H – Thị trấn K thuộc khu
quy hoạch của huyện. Năm 2004 thực hiện việc quy hoạch để mở rộng các
tuyến đường nội thị trấn, UBND huyện K có quyết định số 38/QĐ-UB về
việc thu hồi đất đai và giải phóng mặt bằng tại khu vực tổ dân phố H trong đó
có diện tích đất và nhà ở của ông T. Căn cứ các quy định của pháp luật thì gia
đình ông T chưa thật đủ điều kiện để được nhận tiền đền bù thu hồi đất,
nhưng xét thấy việc mua bán đã diễn ra trước năm 1993 và giá trị tài sản nhà
đất thời điểm hiện tại cùng với hoàn cảnh thực tế của gia đình ông T, UBND
huyện chấp nhận bồi thường cho gia đình ông T số tiền trên 800 triệu đồng
và bố trí 2 lô đất ở tại khu vực khác trên địa bàn thị trấn K, đồng thời yêu cầu
ông T tự tháo dỡ tài sản trên đất để bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công.
Trong lúc các cơ quan chức năng đang tiến hành các thủ tục để đền bù và giải
phóng mặt bằng (Thời điểm giữa năm 2005), thì ông T nhận được quyết định
và giấy báo của cơ quan thi hành án dân sự huyện K về việc tự nguyện thi
hành án dân sự trong một vụ tranh chấp đất trồng điều tại huyện K với gia
đình ông Trần Văn B đã được tòa án nhân dân huyện K ra bản án với số tiền
phải thi hành là trên 250 triệu đồng. Thời gian kéo dài, gia đình ông T không
tự nguyện thi hành án dân sự. Trước yêu cầu của gia đình ông Trần Văn B,

2


căn cứ các quy định của pháp luật, tháng 5 năm 2006 cơ quan thi hành án đã
ra quyết định phong tỏa tài sản của gia đình ông T để bảo đảm việc thi hành
án. Không những không tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan quản
lý hành chính nhà nước, vợ chồng ông T đã làm đơn khiếu kiện gửi đi nhiều
nơi, nhiều cấp về việc thi hành án và không chịu tháo dỡ tài sản trên đất để
giao mặt bằng cho đơn vị thi công với nhiều lý do không có có sở pháp lý.
Sau khi phong tỏa tài sản, chấp hành viên cơ quan thi hành án đã nhiều lần
làm việc và thuyết phục gia đình ông T thi hành án nhưng vợ chồng ông T
vẫn cố tình trốn tránh, chây ì không thực hiện (mặc dù ông T đã được biết
mình có số tiền được đền bù khá lớn). Sau khi được biết Ông T đang có một
số tiền lớn do Ban đền bù giải phóng mặt bằng quản lý để chi trả, căn cứ vào
các điều, khoản của pháp lệnh thi hành án dân sự, căn cứ Nghị định của
Chính phủ về cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án huyện K ra quyết
định cưỡng chế thi hành án dân sự với tổng số tiền 269 triệu đồng (tiền án
phí, tiền nợ và tiễn lãi chậm thi hành) đối với ông T (Số tiền này được lấy từ
số tiền gia đình ông T được đền bù do Ban đền bù giải phóng mặt bằng huyện
đang tạm giữ và đề nghị Ban đền bù giải phóng mặt bằng chuyển số tiền trên
vào tài khoản của cơ quan thi hành án). Lấy lý do không đồng tình với việc
làm của cơ quan thi hành án, vợ chồng ông T lại tiếp tục làm đơn khiếu kiện
gửi nhiều cấp, nhiều nơi và kiên quyết không chịu di dời chỗ ở và tháo dỡ tài
sản trên đất bị thu hồi để bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công theo quyết
định của UBND huyện.
Rõ ràng qua những chi tiết nêu trên, với thái đội coi thường pháp luật,
không nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý hành
chính nhà nước ở địa phương. Việc làm của vợ chồng ông T đã làm ảnh
hưởng đến trật tự xã hội, đến nhiệm vụ phát triển kinh tế tại địa phương và
gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân ở Thị trấn huyện K trong

một thời gian dài.

3


II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Vấn đề giải phóng mặt bằng và vấn đề thi hành án dân sự là những nội
dung đang được dư luận xã hội rất quan tâm trong thời điểm hiện nay. Vì
thực tế cho thấy đây là những vấn đề luôn có diễn biến phức tạp thường xảy
ra tranh chấp và tỷ lệ tự giác thực hiện thường không cao. Tình huống trong
vụ việc nêu trên cũng là một vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm, liên quan
giữa một công dân với nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác
nhau. Chính vì lẽ đó yêu cầu đặt ra ở đây là việc thực thi quyết định hành
chính của UBND huyện, cơ quan thi hành án đối với ông T phải được triển
khai một cách triệt để, vừa đảm báo tính công bằng trong thực hiện pháp luật,
vừa giữ vững kỷ cương phép nước. Mặt khác việc áp dụng các biện pháp cần
thiết đối với ông T vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước là giải phóng mặt bằng
phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của huyện mà cụ thể ở đây là
việc sớm hoàn thành dự án mở rộng các tuyến đường nội thị trấn K, vừa bảo
vệ lợi ích chính đáng của công dân (ông Trần Văn B). Đồng thời việc kiên
quyết xử lý tốt vụ việc trên của các cơ quan hành chính nhà nước sẽ tăng
cường pháp chế XHCN, và cũng là bài học cho những ai còn cố tình chống
đối, không chấp hành các quy định của pháp luật.
Từ tình huống cụ thể nêu trên, theo tôi các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước mà cụ thể ở đây là cơ quan thi hành án huyện K và UBND huyện K
phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, pháp lệnh và Nghị định của
Chính phủ để ra các quyết định và có biện pháp cụ thể buộc ông Nguyễn Văn
T phải thi hành quyết định 38/QĐ-UB của UBND huyện K và các quyết định
của cơ quan thi hành án đã ban hành trước đó đối với ông Nguyễn Văn T.


III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1/ Nguyên nhân
Vấn đề thu hồi đất đai và giải phóng mặt bằng cũng như công tác thi
hành án dân sự hiện nay là những vấn đề luôn gặp nhiều khó khăn vướng
4


mắc và còn khá nhiều tồn tại. Nguyên nhân của tình trạng này là do ý thức
chấp hành pháp luật của người dân chưa cao; do trình độ người dân còn hạn
chế nên chưa nắm rõ những quy định của pháp luật; đặc biệt là do giá cả đất
đai luôn có nhiều biến động nên không ít người dân đã cố tình tìm mọi kẽ hở
của pháp luật để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của bản thân đối với các
quyết định của cơ quan quản lý hành chính nhà nước và một nguyên nhân
không thể không nói đến là các thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật
còn chậm đổi mới, văn bản ban hành còn chồng chéo và một bộ phận công
chức còn hạn chế nghiệp vụ, còn gây phiền hà sách nhiễu nhân dân. Ông
Nguyễn Văn T, là người đã từng làm công chức nhà nước, có trình độ hiểu
biết về pháp luật.
Vậy vì sao vụ việc trên lại phải kéo dài trong nhiều năm, gây mất uy
tín của các cơ quan nhà nước, nguyên nhân đầu tiên ở đây là ông Nguyễn
Văn T không tôn trọng pháp luật, pháp chế XHCN, tìm mọi kẽ hở trong pháp
luật để khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài gây nhiều khó khăn cho cơ
quan nhà nước trong quá trình giải quyết vụ việc, gây bất bình trong dư luận
quần chúng ở địa phương.
Nguyên nhân thứ hai là vụ việc trên có 2 nội dung khác nhau nhưng lại
có cùng liên quan vật chất đến một công dân và liên quan đến nhiều cơ quan
hành chính nhà nước, vì vậy đáng lẽ ra để giải quyết tốt vấn đề này các cơ
quan có liên quan phải cùng ngồi lại với nhau để thống nhất phương pháp,
biện pháp và thời gian xử lý vụ việc nhưng ở đây các cơ quan chưa thật sự có
tiếng nói chung nên dẫn tới tình trạng quyết định của cơ quan thi hành án ảnh

hưởng đến việc thực hiện quyết định của UBND huyện. Từ đó dẫn tới việc
ông T lợi dụng tình hình để làm đơn khiếu kiện gửi đi nhiều nơi.
Nguyên nhân thứ ba là việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân
còn khá nhiều bất cập. Như đã nêu ở trên, ông T đã gửi đơn thư đến rất nhiều
nơi, nhiều cấp nhưng việc giải quyết đơn, thư vẫn chưa rốt ráo triệt để làm
cho vấn đề lại càng trở nên phức tạp và kéo dài.
5


2/ Hậu quả.
Đây là một vụ việc khá điển hình ở thị trấn K của huyện K, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tăng cường pháp chế XHCN ở địa phương, đến lợi
ích của nhà nước, lợi ích của công dân. Vụ việc kéo dài không chỉ làm mất
rất nhiều thời gian, công sức của cán bộ công chức và của các cơ quan nhà
nước mà còn ảnh hưởng đến tiến độ thi công dự án mở rộng các tuyến đường
nội thị trấn K.
Ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của công dân mà ở đây là quyền lợi
của ông Trần Văn B, vì trong thời gian dài ông B vẫn không được hưởng
quyền lợi vật chất mà bản án của tòa án nhân dân huyện K đã ban hành buộc
ông T phải chi trả cho ông B.
Không tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan hành chính nhà
nước, bản thân vợ chồng ông T không chỉ đánh mất uy tín của mình trước
cộng đồng dân cư ở địa phương mà còn phải gánh chịu thêm hậu quả về kinh
tế khi phải chịu lãi suất số tiền chậm trả cho ông B theo quy định của pháp
luật.
IV. XÂY DỰNG CÁC PHƯƠNG ÁN VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG
ÁN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tình huống xảy ra ở đây là khá phức tạp có liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của các tổ chức và công dân. Nếu như bình thường, vợ chồng ông
Nguyễn Văn T tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan nhà nước thì vụ

việc sẽ được giải quyết nhanh chóng và thuận lợi. Bản thân ông T cũng phải
thấy rằng việc các cơ quan nhà nước khi ban hành hành các quyết định đối
với ông đều dựa trên các quy định của pháp luật, có cơ sở pháp lý và thực
tiễn. Nếu tự giác chấp hành các quyết định này ông T không những giúp cơ
quan nhà nước hoàn thành nhiệm vụ được giao mà bản thân ông cũng tạo
được sự đồng tình ủng hộ của chính quyền và nhân dân địa phương. Nhưng

6


vụ việc đã xảy ra một cách ngược lại, chính vì lẽ đó sẽ có một số phương án
được đặt ra để giải quyết vụ việc này.
1/ Phương án I
- Có thể tách 2 vụ việc liên quan đến ông Nguyễn Văn T để giải quyết
riêng biệt .
* Thứ nhất cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào các quy định của nhà
nước để ra các quyết định thi hành án đối với ông T theo thứ tự:
+ Thứ nhất yêu cầu tự nguyện thi hành án;
+ Thứ hai vận động thuyết phục thi hành án;
+ Thứ ba nếu 2 bước trên không thành thì ra quyết định phong tỏa tài
sản và nếu vẫn không có kết quả thì bước cuối cùng là sẽ ra quyết định và tổ
chức cưỡng chế thi hành án đối với ông Nguyễn Văn T.
* Thứ hai sau khi có quyết định của UBND huyện, ban giải phóng đền
bù sẽ tiến hành các bước về xác định số tiền ông T được nhận và tiến hành
chi trả số tiền này cho ông T, đồng thời yêu cầu ông T phải tự giác tháo dỡ
nhà cửa, vật kiến trúc và tài sản trên đất bị thu hồi để bàn giao mặt bằng cho
ban quản lý đền bù và giải phóng mặt để phục vụ cho công tác thi công. Nếu
như sau khi nhận tiền ông Nguyễn Văn T vẫn cương quyết khiếu kiện, không
chịu tự giác chấp hành việc giải tỏa mặt bằng thì Ban đền bù giải phóng mặt
bằng yêu cầu UBND huyện tiến hành các bước theo quy định để tổ chức

cưỡng chế thi hành (cụ thể UBND huyện K ra thông báo về thời gian cụ thể
để ông T tự tháo dỡ, nếu sau thời gian trên ông T không tự tháo dỡ thì các cơ
quan chức năng sẽ tiến hành cưỡng chế để giải phóng mặt bằng và ông T phải
chịu toàn bộ các chi phí phát sinh trong quá trình cưỡng chế.
Ở phương án I này, chúng ta thấy sẽ có những ưu điểm cụ thể: Việc thu
hồi, giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích bị thu hồi của ông T sẽ được
tiến hành nhanh theo thời gian của luật định. Cơ quan chức năng cũng giảm
bớt thời gian để xử lý vụ việc và có thể sẽ giảm bớt tình trạng ông T lợi dụng
7


sơ hở để làm đơn khiếu kiện gửi đi nhiều nơi. Tuy vậy, qua thực tế vụ việc
nếu áp dụng phương pháp này thì việc thi hành án dân sự đối với ông Nguyễn
Văn T gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi của ông Trần Văn B sẽ không
được bảo đảm thực hiện. Vì: thứ nhất bản án dân sự đối với ông Nguyễn Văn
T đã có hiệu lực thi hành, bản thân gia đình ông T là người có khá nhiều tài
sản (Nhà cửa, đất ở, đất trồng điều…), cơ quan thi hành án đã nhiều lần gặp
gỡ thuyết phục, vận động ông T tự giác chấp hành việc thi hành án dân sự
nhưng ông T vẫn kiên quyết từ chối, không những thế còn gửi đơn khiếu kiện
gây phức tạp vấn đề. Vì vậy để việc thi hành án mang tính khả thi, đảm bảo
tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật thì các cơ quan nhà nước có
liên quan có quyền phối hợp để giải quyết vụ việc bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng của nhà nước và công dân. Vì vậy phương án này có thể áp dụng
được nhưng sẽ hạn chế, việc thi hành án dân sự đối với ông T sẽ còn phức tạp
và kéo dài, quyền lợi hợp pháp của ông B không được bảo đảm thực hiện.
2/ Phương án II
- Trong tình huống này có 2 vụ việc cùng liên quan đến một công dân
và cùng diễn ra trong một thời điểm, vì vậy như đã phân tích ở phương án I,
để bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước có thể cùng phối hợp để giải quyết vụ việc một cách

triệt để và thấu đáo, vừa có tình và có lý.
* Sau khi đã nhiều lần vận động và thuyết phục ông Nguyễn Văn T tự
giác thực hiện bản án dân sự không có kết quả và tiến hành phong tỏa tài sản.
Và đến khi được biết ông T có một khoản tiền đền bù hơn 800 triệu đồng tại
Ban đền bù và giải phóng mặt bằng, cơ quan thi hành án làm việc với Ban
đền bù và giải phóng mặt bằng, đồng thời ra quyết định cưỡng chế thi hành
án dân sự với ông T và đề nghị Ban đền bù giải phóng mặt bằng chuyển số
tiền 269 triệu đồng trong tổng số hơn 800 triệu của Ông T được đền bù vào
tài khoản của thi hành án để chi trả theo quyết định của pháp luật.
8


* Tiếp đó nếu ông T vẫn không chịu tự tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc
và tài sản trên phần đất bị thu hồi thì UBND huyện K sẽ tiến hành các bước
theo quy định của pháp luật để tổ chức cưỡng chế giải phóng mặt bằng.
- Qua phân tích ở những phần trên, rõ ràng ông Nguyễn Văn T là người
am hiểu pháp luật nhưng lại cố tình không chấp hành pháp luật, nên phương
án II này sẽ giải quyết dứt điểm cả 2 vụ việc cùng liên quan đến ông Nguyễn
Văn T, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm lợi ích của nhà
nước và công dân.
V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐƯỢC
LỰA CHỌN
Qua phân tích 2 phương án ở trên, thì phương án II là phương án có
tính khả thi và hiệu quả cao hơn vì vậy tôi chọn phương án II để giải quyết vụ
việc này. Và kế hoạch được triển khai cụ thể như sau:
- Căn cứ thời hạn luật định thi hành án dân sự, ngày 19/8/2005 cơ quan
thi hành án dân sự huyện K ra quyết định thi hành khoản tiền án phí dân sự
trên 10 triệu đồng đối với ông Nguyễn Văn T và yêu cầu trong 10 ngày ông T
phải thi hành dứt điểm. Hết thời hạn trên ông T không tự nguyện thi hành.
- Ngày 17/3/2006 Chi cục Thi hành án dân sự huyện nhận được đơn

yêu cầu thi hành án của ông Trần Văn B, yêu cầu ông T phải trả số tiền theo
quyết định của bản án dân sự là trên 246 triệu đồng và số lãi trong thời gian
chậm thi hành án.
- Sau khi xem xét đơn yêu cầu của ông B và nội dung bản án của tòa án
nhân dân huyện K, ngày 20/3/2006 Cơ quan Thi hành án dân sự huyện K ra
quyết định và giấy báo tự nguyện thi hành án đối với ông T, trong thời gian
10 ngày kể từ ngày 20/3/2006 phải thi hành dứt điểm khoản tiền trên 246
triệu đồng và tiền lãi. Ông T vẫn viện dẫn nhiều lý do không thỏa đáng để
trốn tránh nghĩa vụ thực hiện quyết định của tòa án và quyết định của Cơ
quan Thi hành án dân sự huyện.
9


- Để đảm bảo việc thi hành án, ngày 29/5/2006 chấp hành viên thi hành
án dân sự huyện K ra quyết định phong tỏa tài sản để đảm bảo việc thi hành
án. Sau khi đã phong tỏa tài sản, chấp hành viên thi hành án đã nhiều lần làm
việc và thuyết phục ông T thực hiện nghĩa vụ thi hành, nhưng ông T vẫn cố
tình trốn tránh, chây ì không thực hiện.
- Qua xác minh được biết ông T được nhận một khoản tiền đền bù hơn
800 triệu đồng tại Ban đền bù giải phóng mặt bằng, chấp hành viên thi hành
án dân sự huyện căn cứ khoản 3 điều 6, điều 7, điều 14; khoản 1 điều 37;
khoản 2 điều 39 pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và khoản 4 điều 21
Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ. Ngày
13/11/2006 chấp hành viên thi hành án dân sự huyện ra quyết định cưỡng chế
thi hành án đối với ông Nguyễn Văn T và yêu cầu Ban đền bù giải phóng mặt
bằng chuyển số tiền 269 triệu đồng vào tài của cơ quan thi hành án để thi
hành các khoản tiền án phí dân sự, tiền trả nợ và tiền lãi chậm thi hành án. Cơ
quan thi hành án đã thực hiện nộp ngân sách tiến án phí và tiền cho ông B
bên được thi hành theo đúng quy định của pháp luật.
- Không đồng tình với các quyết định trên, ông T đã làm đơn khiếu

kiện gửi đi nhiều nơi trong đó có UBND tỉnh, Cơ quan thi hành án ... và
không chịu tự giác tháo dỡ tài sản, vật kiến trúc và di dời để giao mặt bằng
cho đơn vị thi công.
Căn cứ các quy định của pháp luật, UBND tỉnh đã trả lời ông T nội
dung khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh. Cơ quan
thi hành án dân sự tỉnh GL có quyết định bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn
Văn T.
- Để đảm bảo lợi ích công cộng và phục vụ kịp thời việc thi công dự án
mở rộng các tuyến đường trên địa bàn thị trấn K, căn cứ chức năng nhiệm vụ
và quyền hạn theo luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, căn cứ các quyết
định của UBND tỉnh GL, ngày 16/5/2007 UBND huyện K đã ra quyết định
số 88/QĐ-UB về việc cưỡng chế buộc thực hiện quyết định số 38/QĐ-UB
10


của UBND huyện K yêu cầu ông T tự tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc và tài
sản trên đất bị thu hồi để bàn giao mặt bằng và nếu không tự tháo dỡ phải
chịu mọi chi phí trong quá trình tổ chức cưỡng chế.
- Ngày 24/5/2007 UBND huyện K có thông báo số 80 đến ông Nguyễn
Văn T yêu cầu nghiêm túc thực hiện quyết định số 88 của UBND huyện K về
việc tự tháo dỡ tài sản và ra hạn chậm nhất đến ngày 30/5/2007 nếu không tự
di dời cơ quan chức năng sẽ tiến hành cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
- Đến hết thời hạn ngày 30/5/2007 ông T vẫn không chịu chấp hành và
còn có tư tưởng thách thức và chống đối quyết định của UBND huyện K.
- Căn cứ các quy định của pháp luật ngày 01/6/2007, Hội đồng cưỡng
chế huyện K đã phải áp dụng biện pháp cưỡng chế tháo dỡ nhà cửa, vật kiến
trúc và tài sản trên đất bị thu hồi đối với ông Nguyễn Văn T. Chi phí cho việc
thực hiện cưỡng chế này hết trên 10 triệu đồng do gia đình ông T phải chi trả.

KẾT LUẬN

Quyết định và cưỡng chế là một nội dung quan trọng trong quản lý
hành chính nhà nước, là kết quả của ý chí, quyền lực của cơ quan hành chính
nhà nước nhằm đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Nói
cách khác quyết định quản lý hành chính là hành vi của các cơ quan hành
chính nhà nước (hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền) nhằm đưa ra các quy
định cụ thể, cá biệt cho công dân hoặc tập thể công dân phải thực hiện. Để có
quyết định đúng, các cơ quan hành chính khi ra quyết định phải dựa trên cơ
sở các quy định của pháp luật, không trái với các quyết định của cấp trên.
Qua tình huống mà tôi đã phân tích ở trên và thực thế hiện nay cho
thấy, các quyết định và cưỡng chế có liên quan đến vấn đề thi hành án dân sự
11


và đền bù giải phóng mặt bằng nếu không hội đủ các điều kiện pháp lý và
không có các biện pháp áp dụng một cách phù hợp thì việc thực hiện các
quyết định đó luôn gặp nhiều khó khăn trắc trở.
Qua vụ việc trên cũng cho thấy một vấn đề cần quan tâm hiện nay, là
trong khi còn không ít người dân do trình độ pháp luật hạn chế nên ý thức
chấp hành pháp luật không cao thì vẫn còn không ít người mặc dù hiểu rất rõ
pháp luật nhưng vẫn cố tình tìm mọi kẽ hở để trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà
nước, với công dân.
KIẾN NGHỊ
Qua việc giải quyết tình huống hành chính này, nhằm góp phần hạn chế
không để cho các tình huống tương tự xảy ra, tôi xin đề xuất một số kiến nghị
sau:
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, đất đai,
xây dựng cơ bản.
- Đối với việc quản lý các dự án đầu tư có liên quan đến đất đai, các
phòng, ban chức năng cần chủ động theo dõi, đôn đốc, đặc biệt là công tác
thẩm định dự án và năng lực nhà đầu tư, rà soát tiến độ triển khai các dự án,

từ đó trình UBND huyện xem xét hướng xử lý phù hợp;
- Các ngành, các cấp, các địa phương cần chủ động họp định kỳ, trao
đổi, vận động, hỗ trợ nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn về
vốn và có chính sách ưu đãi đầu tư để thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội;
- Ban quản lý các công trình xây dựng thường xuyên theo dõi, kiểm tra
giúp đỡ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hạ tầng thực hiện dự án, báo cáo
định kỳ bằng văn bản để UBND huyện theo dõi chỉ đạo.
- Đối với các doanh nghiệp, khi quyết định đầu tư thì cần cân nhắc,
đảm bảo quy mô dự án đầu tư phù hợp với năng lực thực sự của mình để đầu
tư có hiệu quả, mang lại lợi nhuận và uy tín cho doanh nghiệp. Tránh tình
12


trạng dối trá, không trung thực trong việc lập và xin dự án để chiếm dụng đất
và huy động sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích gây lãng phí tài
nguyên quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Đất đai năm 2003
2. Luật Khiếu nại, tố cáo (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005);
3. Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai;
4. Nghị định số: 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất
đai;
5. Nghị định số: 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và
các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo;
13



6. Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
7. Tài liệu bồi dưỡng Quản lý nhà nước chương trình chuyên viên.

NHẬN XÉT CỦA GIÁM KHẢO
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
14


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Giám khảo 1

Giám khảo 2

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×